Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 58

Tổng truy cập: 1377055

LÀM GIÀU VÌ BIẾT CHIA SẺ

Làm giàu vì biết chia sẻ – Achille Degeest

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Một trong những nét bất biến của tâm lý nhân loại là bất cứ điều gì cũng quy về mình. Chúng ta để sang một bên những khảo sát công phu chẳng ràng buộc gì hết, có thể được chú ý như một trò chơi luyện trí. Chúng ta tạm đứng ở tầm mức người ta cảm thấy cuộc sống cuộc sống mình, quyền lợi mình bị liên quan. Một lời giảng dạy cao siêu sẽ bị hiểu theo chiều nào thuận cho quyền lợi riêng. Ở đây cũng vậy.

Đức Giêsu vừa dạy rằng con người sống ở thế gian phải quan tâm đến sự phán xét của Thiên Chúa sau này. Một thính giả thấy vậy ngỏ lời: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi”. Nghe rõ lời Chúa, nhưng người ấy giải thích theo lòng tham, cho rằng: Rabbi này nói hay, hình như có uy quyền, ta xin Thầy can thiệp giải quyết dùm vấn đề tranh chấp gia tài. Lời dạy rất quan trọng của Đức Kitô lọt vào tai người ấy, biến thành một cách giải thích lợi cho mình, hợp với quyền lợi riêng tư.

Đức Giêsu trả lời như vẫn thường làm: Phải phân biệt chính yếu và phụ thuộc, vĩnh cửu và chóng qua, quan trọng và kém quan trọng. Gia tài, tư sản giúp được gì cho người ta khi đến trước tòa Thiên Chúa? Nguy cơ là muốn áp dụng lối giải thích vụ lợi, muốn thu hẹp lời dạy cao siêu của Phúc Âm. Chúng ta liệu có tránh được cám dỗ ấy không?

1) Điều quan trọng là không được biến Phúc Âm thành một bộ luật cách mạng xã hội, không được định nghĩa sứ mạng dưới thế của Đức Kitô như một cách mạng định kỳ với mục tiêu phân chia của cải. Phúc Âm chủ trương công bằng, nhưng đòi hỏi nhiều hơn nữa. Trong quan hệ người với người, công bằng chưa đủ, vì nhược điểm nhỏ nhất của nó là tính chất bấp bênh. Phúc Âm đi vào vấn đề chính yếu, bắt buộc con người phải ý thức rõ về mình trước con mắt Thiên Chúa. Đức Giêsu nói: “Hà tất tranh giành nhau về những của cải chóng qua, chóng hết? Tại sao có thể tự tại trong tình trạng an toàn vật chất giả dối? Chốc nữa đây, khi phải trả lời câu hỏi tối hậu của Thiên Chúa về cuộc đời mình, các ngươi sẽ ăn nói làm sao? Những câu hỏi này của Đức Kitô đặc biệt gửi đến những Kitô hữu và cả đến những xã hội, những nền văn minh nữa. Những kẻ có trách nhiệm trực tiếp nhất phải trả lời là những Kitô hữu. Chúng ta nhận xét thêm, sở dĩ một số cách mạng phát sinh bởi trước kia hoặc hiện nay người Kitô hữu không trả lời đúng cách những câu hỏi của Đức Kitô.

2) Đức Giêsu nói về sự cần thiết tránh tích trữ của cải cho chính mình, trái lại phải làm giàu theo ý định của Thiên Chúa. Ở đây Chúa nói ra một ý tưởng Người thường nhắc tới, là sự chia sẻ trong tình huynh đệ. Công bằng chỉ đưa ra những đòi hỏi giới hạn, công bằng là một thái độ đối xử tối thiểu. Vấn đề chính yếu trong con mắt Thiên Chúa là sự công bằng sung mãn liên kết người với người như anh em ruột thịt, nó hậu thuẫn cho tình yêu, cho bác ái. Không thể có tình huynh đệ nếu thiếu điều kiện tiên quyết là sự công bằng. Tuy vậy, công bằng mà tuyệt nhiên không thương yêu nhau thì cách đối xử công bằng cũng chẳng bền vững.

Chính tình yêu mở rộng tấm lòng để sẵn sàng chia sẻ, tình yêu khiến chúng ta trở nên giàu có trước con mắt Thiên Chúa.

 

26. Suy niệm của Charles E. Miller

(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)

CẦU NGUYỆN NHƯ NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO VỚI ĐỨC GIÁO HOÀNG.

Trong cuốn sách Bước qua ngưỡng cửa hy vọng, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trả lời câu hỏi: “Giáo Hoàng đã cầu nguyện như thế nào, cho ai và cầu nguyện những gì?” Ngài đã trả lời bằng một câu mở đầu của Hiến chế vè Giáo Hội trong thế giới ngày nay của Công đồng Vatican II, điều này không có gì ngạc nhiên bởi vì ngài là Giám mục của Công đồng, ngài có mặt trong một ủy ban soạn thảo tài liệu này và được viết bằng tiếng Latin là Vui Mừng và Hy Vọng. Đây là đoạn Đức Giáo Hoàng thuộc nằm lòng: “Niềm vui và hy vọng, đau thường và những lo âu của dân chúng trong thời đại này, đặc biệt là những người nghèo khổ hoặc bị đau buồn bởi bất cứ cách nào là niềm vui và hy vọng, những đau thương và lo âu của những người đi theo Đức Kitô”. Đây là tâm tình và sự hoàn hảo theo phẩm giá của Chúa Giêsu: “Hãy tránh tham lam trong mọi hình thức”. Tham làm thúc đẩy chúng ta cầu nguyện cho những lý do ích kỷ hơn là cầu nguyện cho những người có nhu cầu như Đức Giáo Hoàng đã làm.

Dĩ nhiên Đức Giáo Hoàng như là mục tử của Giáo Hội phổ quát, dĩ nhiên ngài không được quên bất cứ ai hoặc bất cứ nhu cầu nào có liên quan đến ngài, đặc biệt trong lời cầu nguyện của ngài. Và những gì là đúng cho Đức Giáo Hoàng thì điều đó cũng đúng với mỗi người chúng ta theo những cách thế riêng của mình khi chúng ta mang danh”là người Công giáo”, một danh xưng chỉ định rằng chúng ta là một Giáo Hội phổ quát và không giới hạn trong một dân tộc nào, một quốc gia nào, một văn hóa nào.

Chủ nghĩa Công Giáo của chúng ta và những nỗ lực của chúng ta để lướt thắng những tham lam được tỏ hiện bằng việc chúng ta cầu nguyện trong khi cử hành phụng vụ Thánh Thể. Điều đặc biệt ý nghĩa là lời kinh của các tín hữu. Danh xưng này chỉ định rằng, sự cầu nguyện là phần thực hành của chức linh mục cộng đồng, điều đó được tuôn tràn từ bí tích Rửa tội, chức linh mục cộng đồng đã được tuôn tràn từ bí tích Rửa tội. Được biết như là”sự cầu bầu phổ quát”. Danh xưng này chỉ định rằng chúng ta có bổn phận phải cầu nguyện cho tất cả mọi người chứ không phải chỉ đơn giản những nhu cầu riêng biệt của chúng ta. Chúng ta phải dâng lời cầu xin cho Giáo Hội tại địa phương cũng giống như trên khắp thế giới, cho các vị lãnh đạo đời, những người bị áp bức và những người có nhu cầu, cũng như cho tất cả mọi người được ơn cứu độ. (x.. lời giới thiệu chung của sách lễ Roma số 45).

Kinh nguyện Thánh Thể cũng liên hệ trong câu mở đầu của Hiến chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay. Lời kinh nguyện Thánh Thể thứ ba đã cầu nguyện một cách đặc biệt hầu như không bỏ sót hoặc quên bất cứ ai: “Lạy Chúa xin cho lễ hy sinh này tuôn đổ bình an và ơn cứu độ cho tất cả thế giới. Xin hãy cho tăng thêm sức mạnh cho đức tin và lòng mến… cho toàn thể mọi người mà con của Cha đã tụ họp lại. Trong tình yêu nhân từ và hợp nhất toàn thể con cái của Cha ở bất cứ nơi nào mà họ hiện diện… Xin hãy tiếp đón vào vương quốc của Cha… tất cả những ai rời bỏ thế gian này trong tình thân hữu với Cha”.

Dĩ nhiên, chúng ta có thể và sẽ cầu nguyện trong chính những nhu cầu của chúng ta, cho những người mà chúng ta yêu mến, chúng ta cũng cần nhắc nhở về lời của Thánh Phaolô rằng: “Chúng ta phải đưa tâm trí của chúng ta đến với những lãnh vực cao hơn. Chúng ta sẽ hướng tới những lãnh vực cao hơn khi chúng ta quảng đại và không ích kỷ trong lời cầu nguyện. Phải thêm rằng chỉ có kinh nguyện cho những người có nhu cầu thôi thì không đủ. Chúng ta cũng cần hành động, hành động đó đã được linh hứng và thúc đẩy bởi kinh nguyện. Người khác có thể lâm vào sự nghèo khổ, coi thường những người lãnh lương hưu trí, khinh bỉ dân nhập cư, và chọn lựa cuộc sống tách biệt khỏi những khốn khổ của con người nhưng họ không phải là những người Công giáo. Chúng ta tin rằng”niềm vui và hy vọng”, đau thương và những lo âu của mọi người trong thời đại này, đặc biệt là những người nghèo khổ hoặc bất cứ những đau buồn cách nào, là những niềm vui và hy vọng, đau thương và lo âu của người môn đệ Đức Kitô”.

 

27. Nguy hại của việc tham lam của cải – Veritas

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)

Bài Phúc âm hôm nay tựu trung có thể nhắc chúng ta nhớ lại một điểm quan trọng, đó là người đồ đệ của Chúa cần phải xây dựng đời sống của mình trên chính Chúa, chứ không phải trên những của cải lợi ích vật chất. Lời xin của một người vô danh, một người trong đám đông đến nghe Chúa Giêsu giảng: “Xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Lời xin này xem ra là một yêu cầu hết sức hợp lý từ quan điểm của người đến xin Chúa Giêsu.

Theo thói quen trong xã hội Do thái thời Chúa Giêsu, những vị thông luật, những biệt phái lãnh đạo dân chúng thường có vai trò như những thẩm phán của xã hội của chúng ta ngày nay. Họ giúp dân chúng giải quyết những tranh tụng hàng ngày. Vả lại, Chúa Giêsu cũng rao giảng Tin Mừng của công bằng, tình thương, bác ái. Vì thế, người đến xin Chúa: “Xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi”. Để nhìn về Chúa Giêsu như là một người có uy tín, một vị trọng tài uy tín có thể giúp anh giải quyết vấn đề với người anh trong gia đình, anh có quyền nghĩ như thế và đòi như thế. Vì Chúa Giêsu giảng dạy sự khôn ngoan, giảng dạy lẽ phải và sự công bằng. Nhưng chúng ta hơi ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu từ chối lời yêu cầu của anh: “Ai đặt tôi làm trọng tài xét xử những việc này” Nhưng thật ra đây không phải là lời từ chối, nhưng những gì Chúa Giêsu kể tiếp về dụ ngôn cho chúng ta thấy là Chúa Giêsu giúp anh hay giúp mỗi người chúng ta giải quyết những vấn đề vật chất của mình.

Chúa Giêsu kể tiếp dụ ngôn về người giàu có chỉ biết xây dựng đời mình trên của cải vật chất mà quên đi mối liên hệ sâu xa hơn với Chúa, mối liên hệ của cuộc sống đời này và hạnh phúc đời sau. Chúa Giêsu nhắc lại một sự thật căn bản là đời sống con người không phải chỉ giới hạn trên trần gian này mà thôi, và cũng không phải chỉ được xây dựng trên của cải vật chất.

Nếu quả thật đời sống con người chỉ có trần gian này mà thôi thì nếp sống của chúng ta có thể sẽ phải như là nếp sống mà một nhà hiền triết Hy Lạp đã nói: “Cà phê đi em, hãy hưởng thụ cho đã rồi thôi”. Nhưng không phải chỉ có thế, đời sống con người trên trần gian này là một giai đoạn của một cuộc sống mãi mãi trong Chúa. Đây là sự thật căn bản mà Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho tất cả mọi người cũng như cho người đến xin Chúa giải quyết một trường hợp cụ thể trong cuộc sống hàng ngày là chia gia tài cho tôi.

Đặt cuộc sống con người trong viễn tượng đời đời mà mỗi người chúng ta cần thực hiện điều này luôn luôn trong mọi giây phút. Chúng ta cần đặt cuộc sống của mình trong viễn tượng đời đời, để rồi từ đó chúng ta mới có thể nhận được sự soi sáng mà dễ dàng giải quyết những xung đột nhỏ nhoi, những tranh chấp, ganh tị, thù hận làm mất sự bình an trong tâm hồn.

Chúng ta hãy xác tín rằng, Phúc âm Chúa đòi buộc ta sống công bằng, chia sẻ và yêu thương. Nhưng đòi buộc này không phải là chỉ đòi buộc những việc cụ thể bên ngoài mà thôi, mà đòi buộc ăn sâu vào trong lương tâm mỗi người chúng ta. Phúc âm Chúa không phải chỉ là trọng tài để giải quyết những xung đột của nhau, nhưng là giúp cho mọi người sống trọn giới luật yêu thương.

Áp dụng vào trường hợp của Giáo Hội hôm nay, chúng ta cũng có thể nói Giáo Hội trong thời đại chúng ta đang sống cũng bị thách thức như Chúa Giêsu ngày xưa. Có những người muốn Giáo Hội dấn thân thật cụ thể vào trong một đảng phái chính trị, bênh vực lập trường của đảng phái chính trị nào đó, trình bày những giải đáp kỹ thuật cụ thể cho những vấn đề được đặt ra trong xã hội.

Đôi khi đây cũng là những cám dỗ cho những người đồ đệ của Chúa, cho mỗi người chúng ta. Nhưng ơn gọi và sứ mạng của Giáo Hội là một cái gì sâu xa hơn, ăn sâu vào trong lương tâm của mỗi người. Giáo Hội được mời gọi rao giảng, nhắc nhở cho mỗi người sống về sự thật căn bản mà Chúa đã mạc khải. Đời sống con người không hạn hẹp trên trần gian này, nhưng là một mở rộng hướng về cõi đời đời và được tiếp tục trong cõi đời đời.

Giáo Hội được mời gọi đề nghị và bảo vệ một tinh thần, tinh thần Phúc âm và tinh thần này tác động sâu xa nơi từng lương tâm con người. Giáo Hội mà mỗi người chúng ta không nên để mình bị ràng buộc bởi những chế độ, bởi những lợi ích của phe nhóm. Chúng ta không đến với Chúa để xin Chúa bảo anh tôi chia gia tài cho tôi. Mặc dù đây là một yêu cầu hết sức hợp lý, nhưng chúng ta hãy đến với Chúa để Chúa soi sáng cho mỗi người chúng ta được nhận thức rằng, đời sống con người của chúng ta trên trần gian này là một chuẩn bị để đi về trời, để bước vào cõi đời với Chúa.

Trong viễn tượng, mỗi người chúng ta được mời gọi sử dụng những của cải, những tài năng Chúa ban cho để phục vụ cho anh chị em và xây dựng một xã hội tốt đẹp. Và cũng trong viễn tượng này mà mỗi người chúng ta được mời gọi giải quyết những xung đột nhỏ nhoi, những tranh chấp, những ganh tị, những thù hận làm mất đi sự bình an trong tâm hồn.

Một khi đã đặt cuộc đời mình trong cuộc sống đời đời, trong viễn tượng cuộc sống đời đời; một khi đã đặt cuộc sống mình trên nền tảng là Chúa Giêsu thì chúng ta sẽ biết giải quyết dễ dàng những xung đột hằng ngày xảy ra trong cuộc sống. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.

 

28. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

Lời sách Giảng Viên đã có một thời được đón nhận, suy niệm và lưu truyền trong xã hội Kitô Giáo, nó trở thành sách gối đầu giường của bao thế hệ trẻ, ngày nay người ta coi như nó là cái cản trở cho mọi tiến bộ văn minh, như tư tưởng phản động làm trì trệ mọi nhiệt tình xây dựng một xã hội thịnh vượng và trù phú. Những giòng tư duy đang có ảnh hưởng trên nhân loại ít nhiều đều chối bỏ, và kết án tính cách bi quan yếm thế của nó. Tuy nhiên, lời sách chỉ là một phản ánh trung thực tâm tư con người đứng trước những mầu nhiệm lớn lao của cuộc sống mà không có những yếu tố cho một câu trả lời. Lời sách mở ra sự trông chờ một mạc khải lớn lao hơn. Xét theo góc độ này, thì lời sách giảng viên mang tính nhân bản và hiện sinh biết bao? Cách đặc biệt trong giai đoạn kinh tế khủng hoảng như hôm nay. Bao nhiêu tích lũy có tính toán và được kỹ thuật hỗ trợ đang đi gần đến con số không?

Mạc khải ấy theo thánh Phaolô đã được dứt khoát trao tặng con người trong mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô. Lời sách giảng viên đưa chúng ta đến gần Đức Giêsu hơn, đó chính là khẳng định trong sách Gương Chúa Giêsu, một sách đạo đức của mọi thời đại. Ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống đã có câu trả lời toàn vẹn trong Đức Giêsu, Đấng đã phục sinh từ cõi chết để khơi nguồn sự sống mới (Kinh nguyện Thánh Thể 4). Trong mầu nhiệm ấy, "những gì thuộc về hạ giới", "con người cũ", đều đã bị đóng đinh, để "chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người".

"Con người mới" đã được đặt lên không phải để "làm người xử kiện hay người chia gia tài", hoặc "thu tích của cải cho mình", nhưng là người "trở nên giàu có trước mặt Thiên Chúa". Bởi vì, như chính Đức Giêsu khẳng định "Dẫu có được dư giả, thì mạng sống con người cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu." Lý do thật đơn giản "Nội đêm nay người sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?". Vấn đề là làm sao để trở nên "giàu có trước mặt Thiên Chúa"?

Ngay sau dụ ngôn này, Đức Giêsu đã chỉ cho thấy "Chớ bồn chồn lo lắng! Các điều đó dân ngoại nơi thế gian kiếm tìm. Nhưng Cha các ngươi biết rõ, các ngươi cần đến các điều ấy. Song hãy tìm kiếm Nước của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi.". Như vậy câu trả lời thật rõ ràng: "Nước Thiên Chúa" đó là của cải không thể hư hao mà chúng ta phải ra sức kiếm tìm.

Nước Thiên Chúa đã hiện diện với con người Đức Giêsu Kitô. Theo đó, cuộc sống là một "Tấm Bánh" được bẻ ra và trao ban cho một thế giới mới được khai sinh, là "Tình Yêu biết thí mạng sống mình vì người mình yêu".

Từ hơn 2000 năm qua, chính "văn minh tình thương" ấy đã cứu vãn nhân loại trước những nguy cơ diệt vong và là tiếng nói sinh tồn của mọi nỗ lực nhân sinh. Ngày nay người ta say mê với những tiến bộ khoa học, với cái xu thế toàn cầu hóa, thế nhưng cũng chính những công trình ấy đang hình thành một thế lực hầu như không còn khả năng kiểm soát, nó biến con người trở thành những tù nhân của chính mình. Những suy thoái kinh tế chỉ là hậu quả tất yếu của cuộc cạnh tranh tàn nhẫn và vô nhân. Người ta bảo các đại công ty thua lỗ nên tạo ra ảnh hưởng giây chuyền: khiến cho các chỉ số cổ phiếu sụt giảm... Nhưng vấn đề không phải thế, những chỉ số cổ phiếu kia chỉ là những giá trị giả định được xã hội công nhận. Và khi xã hội có những biến động thì tất nhiên những giá trị giả định cũng đổi thay. Khi xã hội để bị lôi vào một chiều hướng phát triển không lấy con người trong sự toàn vẹn của nó làm nguyên tắc chỉ đạo, một sự phát triển phi nhân, tất nhiên xã hội không thể tồn tại. Cho dù xã hội làm ra thật nhiều của cải vật chất, nhưng ở khắp nơi con người vẫn bị thiếu thốn, và xem chừng không có chút tiến bộ nào và ngược lại còn gia tăng. Người ta đã nói tới 40% dân số thế giới sống trong sự nghèo đói. Ngày nay hơn bao giờ hết, người ta cần tới Tin Mừng "văn minh tình thương" để tránh nguy cơ bùng nổ chiến tranh địa phương cũng như chiến tranh toàn cầu.

 

29. Chuyện biết rồi vẫn cứ nói

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Tiền, bạc, của cải, một đề tài mà tín hữu Kitô dường như nghe đã quá nhiều. Oái ăm thay, những người thường lên giọng về đề tài của cải, tiền bạc thì hầu như ít bị chi phối bởi đồng tiền bát gạo kiểu cảnh “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” hay ‘dãi dầm mưa nắng’ để có cái lót dạ và sinh hoạt cho bản thân và gia đình.

Cuộc đời thật lắm điều trớ trêu. Chuyện nghịch lý như không còn là chuyện lý thuyết. Người hô hào “vô sản” thì của tiền hằng hà vô số. Người cam kết sống khó nghèo thì thật khó mà nghèo. Người chủ trương duy vật thì rất chi là chủ quan, duy ý chí, lại còn mê tín đủ điều. Người mong được rỗi linh hồn thì quá lo lắng chuyện nhà cửa, tiện nghi vật chất, cơ sở… Dù nghịch lý hay trớ trêu, thì chúng ta cũng phải đối diện với Lời hằng sống truy vấn chúng ta về thái độ của chúng ta với của cải, bạc tiền.

Ngài Côhêlét lớn tiếng: “Phù vân trên mọi phù vân, tất cả đều là phù vân”(x.Gv 1,2). Của cải, bạc tiền thảy đều chóng qua như gió thổi, như mây nổi, như chim bay. Thưa Ngài Côhêlét: Phù vân đây, chóng qua đấy, nhưng cuộc đời này không thể thiếu gió, vắng mây. Hễ bắt tay làm việc gì, dù lớn nhỏ, dù xây Nhà Thờ, nhà xứ hay lo cho con cái sắp vào niên học mới… thì thảy đều phải bước qua ngưỡng cửa “đầu tiên” là “tiền đâu?” Phù vân mà rất thân thiết, vì đồng tiền dính liền khúc ruột.

Thánh Tông đồ dân ngoại nói với tín hữu Côlôxê rằng hãy hướng lòng trí đến những gì thuộc về thượng giới và đừng chú tâm đến những gì thuộc về hạ giới. Thưa thánh nhân: “đói thì đầu gối phải bò”; “có thực mới vực được đạo”… Đôi tay ngài đã không từng sần sùi, chai sạm với nghề dệt lều vải đấy ư? Và ngài đã không từng kết án những người lười biếng, không chịu lao động đấy sao?

Quả thật vẫn có đủ đầy những luận lý để bào chữa cho thái độ sống quyến luyến với của cải vật chất. Dĩ nhiên chẳng ai dám to gan nói xóc, nói xỉa ngài Côhêlét hay thánh Tông đồ dân ngoại, nhưng vẫn có đó những lời nói cạnh, nói khía đến các “đấng bậc làm thầy” trong Giáo Hội. Các ngài đâu có lo bữa mai chạy bữa hôm như chúng mình. Các ngài đâu có quặn thắt khi con cái ốm đau hay phải chịu cái cảnh nợ nần chồng chất. Thế nhưng dù có biện bạch cách này cách khác thì chúng ta cũng phải chân nhận sự cám dỗ của đồng tiền và sức mạnh của vật chất. Chúng có thể huỷ hoại hạnh phúc chúng ta ngay trong cuộc đời này và có thể làm nguy hại hạnh phúc vĩnh cửu. Trong thực tiển, dù lắm khi sức mạnh của đồng tiền như “là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khoẻ của tuổi già, là cái đà của danh vọng…”, nhưng chính Chúa Kitô đã từng minh định: Không được làm tôi hai chủ. Không được vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của (x.Mt 6,24). Và Người còn cảnh tỉnh chúng ta rằng người giàu có vào Nước Trời khó hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim (x.Mt 19,24).

Của cải, tiền bạc tự nó không xấu mà trái lại là tốt đẹp vì đều do Thiên Chúa dựng nên. Thế nhưng cần phân biệt những cái tốt mang tính giới hạn, vì nó chỉ là phương tiện chứ không phải là cùng đích. “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”(Lc 12,15). Và cũng chắc chắn rằng không phải nhờ của tiền dư giả mà hạnh phúc vĩnh cửu được bảo đảm. Theo thánh Phaolô thì tham lam là một hình thức thờ ngẫu tượng. Ngẫu tượng chỉ có thể dẫn chúng ta đến chỗ diệt vong. Xin đừng quên tham lam là mối tội thừ hai trong “bảy mối tội đầu”.

Thiên Chúa không hề chỉ dạy chúng ta xem thường của cải vật chất và cũng chẳng bảo chúng ta khinh rẻ các tiện nghi vật chất. Người đã minh nhiên truyền lệnh cho chúng ta lao tác không chỉ để có cái sinh nhai mà còn để có điều kiện phát triển và hoàn thiện đúng phận người, loài thọ tạo cao cả nhất trong các loài hữu hình Người đã dựng nên, vốn là hình ảnh của Người (x.St 1,27). Vấn đề đặt ra là chúng ta cần tìm kiếm vật chất, của tiền với mục đích gì? Điều đáng trách của người phú hộ trong câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể đó là đã không biết trả lời câu hỏi: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”(Lc 12,20).

Cái “ngốc”của người phú hộ là khi ra sức thu tích của cải mà “không biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. Nếu giả như viên phú hộ trả lời rằng của cải của con sẽ để lại cho con cháu hầu giúp chúng có điều kiện phát triển hoặc để phần nào đó giúp cho người bất hạnh thoát cảnh nghèo khổ thì có lẽ ông ta chẳng bị nguyền rủa là “đồ ngốc”.

Làm giàu truớc mặt Thiên Chúa chính là chiếc chìa khoá giúp chúng ta thoát ra khỏi sự tham lam vị kỷ. Hạn từ giàu khiến chúng ta liên tưởng đến sự phong phú, đến tình trạng được có nhiều hơn. Ai là người giàu có trước mặt Thiên Chúa? Không chút ngại ngần, xin thưa đó là người có tấm lòng quảng đại, vị tha. Vẫn từng có đó những con người lắm tiền, nhiều của cải mà con tim luôn rộng mở, tấm lòng rất quảng đại, vì Danh Chúa, vì hạnh phúc của đồng loại như ông Tôbia, hoặc như bà Gioanna, vợ ông Khuda, bà Sudana và nhiều bà khác mà tin mừng Luca ghi lại (x.Lc 8,3). Tuy nhiên, sự cám dỗ của vật chất cũng đã và đang làm nhiều người băng hoại. Cha ông chúng ta vốn cảm nghiệm rằng khi của tiền càng phình ra thì con tim thường bị bó hẹp lại. Biết bao nghĩa tình mẹ cha con cái, bao nghĩa tình huynh đệ đã nhạt nhoà, đổ vỡ chỉ vì chút của tiền, chút lợi lộc đang nhan nhãn trước mắt chúng ta đây đó.

Để nên giàu có ở đời này thì hoạ hiếm mới có chuyện đột xuất như trúng số độc đắc mà thường là do quá trình kinh doanh, tích luỷ có mục tiêu, có phương pháp và biện pháp thích hợp, hữu hiệu. Cũng vậy, để nên giàu có trước mặt Thiên Chúa, tức là ngày càng biết sống quảng đại, vị tha, vì Danh Chúa và vì hạnh phúc đồng loại thì không gì hơn hãy tìm phương thế và biện pháp để mở rộng tấm lòng của mình. Một kinh nghiệm sống từng được chia sẻ như sau: một giáo dân thú nhận rằng mình rất ngại ngần với chuyện “làm phúc, bố thí” cho người ăn xin. Tìm cặn kẻ nguyên cớ mới vỡ lẽ đó là vì trong túi anh ta thường chỉ có những tờ bạc mệnh giá lớn (50 hay 100 ngàn đồng trở lên). Sau khi được mách bảo rằng hãy luôn để trong túi một số “tiền lẻ”, thì anh ta đã tập được thói quen tốt là làm phúc bố thí cho người nghèo. Sau một vài lần sống theo lời khuyên rằng thỉnh thoảng làm một hành vi quảng đại gấp ba, gấp bốn, thậm chí gấp mười sự tính toán của bản thân, thì tấm lòng của anh ấy đã rộng thêm và như đã vượt qua một mức nào đó. Và chẳng biết tự bao giờ, chuyện lấn cấn khi “làm phúc bố thí” cho người nghèo vốn có trước đây như biến mất. Một nhân đức (thói quen tốt) đã hình thành. Không biết ở mức độ nào nhưng anh ta đang làm giàu trước mặt Thiên Chúa.

 

home Mục lục Lưu trữ