Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 52

Tổng truy cập: 1376848

LÀM LỚN PHẢI PHỤC VỤ

Làm lớn phải phục vụ

Anh chị em thân mến,

Một người cha nọ dạy con rằng: "Con nên nhớ thời bây giờ, không tin ai được hết; ngay cả cha con cũng đừng tin nữa. Biết đâu cha mẹ vẫn gạt con cái. Con thấy không? Ra đường người ta chỉ nghĩ đến móc túi kẻ khác, mua gian bán lận; có mấy ai dám nói thật đâu... Vì vậy, con nên nhớ, đừng tin ai cả, ngay cha mẹ con cũng không tin nữa.." Sau bài huấn đức đó mấy hôm, một bữa nọ, người cha bảo con: con leo thang này lên gác lấy cho cha mấy món đồ cha cần trên đó. Đứa con vâng lời lên gác... Đến lúc xuống, người cha đã lấy thang đi mất. Ông bảo: con cứ nhảy xuống đi, cha sẽ đỡ cho... Đứa con y lời nhảy xuống. Người cha không đỡ. Đứa con gãy giò. Lúc đó cha mới nói: "Thấy hôn, tao đã bảo, ngay cả cha mày cũng đừng tin nữa mà..." Bài học cụ thể thiệt đó, nhưng bù lại đứa con phải gãy giò. Hơn bị tốn của một chút đó! Bài giáo lý của Chúa Giêsu hôm nay cũng tương tợ thế: Chúa cảnh báo dân chúng: nghe lời các kinh sư chỉ bảo, nhưng đừng làm theo việc họ làm, vì họ nói mà không làm. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...

a/. Có vài điều chúng ta cần hiểu rõ:

* Các kinh sư, các người pharisêu: họ là những nhà thông luật; họ nối quyền Môisen, có nhiệm vụ giải thích Kinh thánh, luật Môisen, áp dụng vào đời sống. Vì thế, nên Chúa Giêsu dạy phải nghe họ. Nhưng cách làm của họ, Chúa dạy dân chúng đừng theo, vì họ sống giả hình, nói mà không làm, đặt ách lên vai người khác mà tay họ không động đến, thích đeo hộp kinh lớn, mang tua áo, thích ngồi chổ nhứt, ưa người ta ca tụng, nhưng lại lại tham lam, khinh dễ người nghèo khó, áp bức cô nhi hóa phụ...

* Đừng bắt ai gọi mình bằng Thầy; cũng đừng bắt gọi bằng cha, gọi người lãnh đạo: Chúa Giêsu muốn dạy chỉ có một Đức Kitô là Thầy, là người lãnh đạo, một Thiên Chúa là Cha. Không ai được phép vượt qua lời dạy đó. Thực ra, trong đạo chúng ta nếu có gọi ai là Thầy, là Cha, là người lãnh đạo, đó không phải là đi ngược lời Chúa dạy; đó chỉ nói lên mối liên hệ tinh thần. Thánh Đaminh muốn đưa tinh thần này vào dòng của mình; ngài mong muốn anh em gọi nhau bằng huynh đệ (frater). Ta cũng thấy Tu hội của Tiểu đệ, Tiểu muội rất mong muốn thực hiện tinh thần này, nên mọi người đều gọi nhau là anh em....

b/. Qua bài Tin mừng này Chúa muốn dạy ta điều gì?

* Chúa vạch trần thói sống giả hình của các kinh sư, biệt phái: họ thích sống giả hình, vì hay nói mà không làm - thích thống trị kẻ khác, đặt gánh nặng lên vai người khác, còn mình thì không buồn động đến - thích khoe khoang, làm để cho mọi người thấy - ham danh, ưa ngồi chổ nhất, thích được chào, thích được gọi là thầy. Chúa còn cảnh giác dân chúng, dạy dân nghe lời họ chỉ dạy, nhưng đừng làm theo họ, nhất là chỉ vâng lời một Thầy độc nhất là Đức Kitô mà thôi...

* Chúa chỉ trích lối sống của các kinh sư, nhưng Người cũng đưa ra mấy chỉ dẫn cho đời sống đạo thiết thực: 1. lời nói đi đôi với việc làm: Thực tế, giữa lời nói và việc làm có khoảng cách rất lớn. Vì nói thì dễ, nhưng làm lại là chuyện khó, nên các kinh sư thích nói suông hơn là làm; hoặc nhiều lúc tệ hơn, họ "nói mà không làm." Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng nói suông, nhưng hãy làm; nhất là hãy làm cách chân thành. Ông bà ta cũng nói:"Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo." Chúa nhắc nhở: người môn đệ có nhiệm vụ rao giảng lời Chúa, không thể dùng lý thuyết suông mà thuyết phục. Chính lời nói kèm theo việc làm mới có sức lôi kéo người ta và làm cho họ tin theo.

Hãy làm trong khiêm tốn: các kinh sư, pharisêu làm gì cũng muốn phô trương, tỏ ra mình đạo đức, từ đó biến thành tự phụ, tự mãn...Trái lại, Chúa Giêsu dạy các môn đệ, khi bố thí, khi cầu nguyện, khi ăn chay, đừng phô trương cho người ta thấy; hãy làm nơi kín đáo, để một mình Thiên Chúa biết mà thôi. Âm thầm làm việc đạo đức là dấu chỉ của lòng mến Chúa chân thật, từ đó dẫn đến khiêm tốn, kính trọng kẻ khác, sẵn sàng phục vụ anh em. Tuy nhiên, lối sống của kinh sư, biệt phái vẫn hiện hữu nhiều lắm trong đời sống thực tế ngày hôm nay. Nó hiện hữu không chỉ ngay trong cuộc sống đời, mà ngay trong nhà đạo chúng ta nữa. Vì vậy cần phải sống chân thành, tín nhiệm, tin tưởng nhau, nhất là để Chúa trong cuộc sống, chúng ta mới tránh khỏi thói sống chuộng hình thức như kể ở trên...

Chân thật: tiếng latinh là Sincerus, a, um. Ngày xưa những cột đá cẩm thạch nào không được nhẵn nhụi, lại có lỗ, sứt mẻ, thì người ta lấy sáp ong nhét vào lỗ đó, rồi đánh cho trơn láng. Cây cột nào trơn láng thì gọi là sine cera: nghĩa không có sáp ong. Với thời gian, chữ này viết dính lại: sincera; có nghĩa là không phấn sáp, không giả tạo. Cuộc sống con người cần phải thành thật, chân thành, không phấn sáp, không giả tạo. Đó chính là điều Chúa muốn dạy chúng ta sống trên đời này...

Nhà nuớc VN chúng ta dán bích chương đầy đường, hô hào kêu gọi mọi người VN: đoàn kết - yêu thương - quảng đại - xóa bỏ hận thù - cùng nhau bắt tay xây dựng xã hội giàu có, công bằng, dân chủ và văn minh; vậy mà vụ đất Thái Hà, và Tòa Khâm sứ, chúng ta thấy gì? Có phải như lời Chúa quở trách pharisêu: nói mà không làm, hay nói một đàng, làm một nẻo không?

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu trách những người pharisêu nói mà không làm, người kitô hữu chúng ta nghe thì hài lòng lắm, vì họ đáng trách như thế. Phần chúng ta, là cha mẹ trong gia đình, là người phục vụ trong họ đạo, có nhiều lúc ta tự xét mình trước mặt Chúa, ta tự thấy mình đã không dám nói, dám làm điều này điều nọ, để nêu gương sáng cho mọi người nhất là cho chính con em, cháu chắt chúng ta không?

 

36. Chú giải của Noel Quesson

Các kinh sư và người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ...

Bản văn này là một phần cuộc tranh luận mạnh mẽ giữa Đức Giêsu với những quyền bính tôn giáo ở Giêrusalem: cuộc khổ nạn sắp đến gần và chúng ta biết rằng sự khước từ của các thân hào ở thủ đô là một trong những nguyên nhân cái chết của Đức Giêsu.

Vào thời kỳ Mátthêu viết Tin Mừng của ngài, cuộc tranh luận nổ ra một cách bi thảm: Sau khi Đền thờ bị phá hủy vào năm 70, các người Pha-ri-sêu đã trở thành nhóm duy nhất còn tồn tại có tổ chức... và được quy tụ lại ở Giam-ni-a (Giáp nê), họ chính thức tuyệt thông với những người Do Thái theo Kitô giáo, coi những người này như những người lạc giáo và trục xuất họ ra khỏi Hội Đường Do Thái.

Những nhận xét về lịch sử này, tuy vậy, không cho phép chúng ta nghĩ rằng Matthêu chỉ đơn thuần nghĩ ra các cuộc tranh luận chống Pha-ri-sêu ấy. Đức Giêsu rõ ràng đã chết vì chống đối lại một số thủ lãnh tại thủ đô. Điều đó không có nghĩa là tất cả những người Pha-ri-sêu đều đáng bị lên án. Và trong bất kỳ trường hợp nào, điều đó không thể nuôi dưỡng một cuộc bút chiến chống Do Thái. Vả lại chúng ta nhận thấy rằng, trong câu đầu tiên Đức Giêsu khuyên "thực hành và tuân giữ những điều các kinh sư và Pha-ri-sêu giảng dạy". Vì thế Người thừa nhận họ có thẩm quyền trong kiến thức về Luật của Thiên Chúa. Đức Giêsu không phê phán học thuyết và những nguyên tắc của người Pha-ri-sêu. Người yêu cầu chúng ta áp dụng những điều họ dạy.

Nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm.

Nếu Đức Giêsu tán đồng lý tưởng mà các Pha-ri-sêu đòi hỏi, thì Người lại trách họ rõ ràng đã không đem lý tưởng đó ra thực hiện cho đủ. " Vậy có một sự nghịch nghĩa khi tiếp thu tư tưởng của Đức Giêsu để biện minh cho thái độ bừa bãi trên bình diện thực hành tôn giáo. Người ta còn nghe quá nhiều những lời biện minh dễ dãi: "Tôi không đi dự thánh lễ bởi vì các Kitô hữu không tốt hơn những người khác... đó là những người Pha-ri-sêu! Chính Đức Giêsu không phê bình những người Pha-ri-sêu vì họ "thực hành" quá nhiều nhưng vì họ thực hành không đủ lý tưởng của họ.

Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.

Chúng ta thấy lại một nét nổi bật của Đức Giêsu: Người bênh vực những người nhỏ bé, nghèo nàn, yếu đuối. Các kinh sư là những học giả. Ngày nay hẳn người ta gọi đó là những nhà trí thức, những người biết rành về Kinh Thánh. Những người Pha-ri-sêu đúng ra là những người sùng đạo. Ngày nay, người ta sẽ nói đó là những chiến sĩ, những người dấn thân để biến đổi xã hội. Nguy cơ lớn của học giả và người quảng đại là họ rất đòi hỏi những người khác khi áp dụng những nguyên tắc cao cả của họ cho các tập tục bên ngoài, thay vì xét lại chính bản thân mình. Canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.

Lạy Chúa, xin giúp đỡ chúng con luôn sống nhân từ với người khác và khắt khe với chính chúng con. Xin làm cho chúng con gánh bớt gánh nặng của người khác và chớ để chúng con thành một gánh nặng cho những người xung quanh chúng con.

Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội trường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”.

Những hộp kinh là những hộp nhỏ chứa những bản văn Kinh Thánh mà người ta dùng dây cột ở trán và cổ tay: đó là một cách để nhớ lại lời Chúa (Xh 13,9-16; Đnl 6,8-11,18). Những tua áo ở lai áo cũng là một cách để nhắc người ta nhớ đến những điều răn của Thiên Chúa (Ds 15,37; Đnl 22,12).

Tập tục này giống với tục lệ đeo huy chương, vòng cổ, nhẫn.

Đức Giêsu không lên án những tập tục này tự nó. Chính Đức Giêsu cũng mang những tua áo (Mt 9,20; 14,36). Nhưng ở đây Đức Giêsu công kích thói tự kiêu vặt vãnh về tôn giáo: Người ta khoe khoang lòng sùng đạo của mình. Người ta tìm cách để được chú ý. Người ta đặt mình ra trước, chạy theo vinh hoa, phô trương thói kiêu căng hão huyền, tìm kiến những đặc ân đặc quyền. Tất cả đều là một khuyết điểm mà thời nào cũng có. Mỗi thời đại theo cách của thời đại đó.

Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi".

Công thức này chỉ cho chúng ta thấy rằng Đức Giêsu hơn tất cả những người Pha-ri-sêu của thời Người và quả thật, đây là lời Người nhắc nhở các môn đệ của mình. Thay vì lúc nào cũng áp dụng Tin Mừng cho những người khác, ví dụ như thay vì lên án những người giảng đạo nói mà không làm “bó những gánh nặng mà chất lên vai các tín hữu" thì chúng ta phải trở lại với chính mình: Phần anh em, đừng bắt người ta tôn xưng mình, cho mình được hưởng đặc quyền.

Còn tôi, cái cách của tôi làm cho tôi rơi trong sự lệch lạc ấy là gì?

Vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em là anh em với nhau.

Đức Giêsu lên án thói tự phụ rằng chúng ta phải là những người nắm giữ chính thức học thuyết đúng nhất. Chỉ một mình Thiên Chúa mới dạy chân lý tuyệt đối. Phần chúng ta, chúng ta chỉ đến gần chân lý ấy mà thôi. Còn tất cả anh em là anh em với nhau, Công thức này ngắn gọn, đầy những yêu sách. Đây là một yêu cầu về sự bình đẳng sâu xa giữa chúng ta với nhau: Một lần nữa, tôi phải áp dụng cho chính tôi những lời ấy: tôi có xu hướng muốn thống trị ai? Tôi có xu hướng muốn nhìn ai một cách ngạo nghễ, muốn khinh bỉ, phán xét ai?

Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.

Mỗi lần mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta có những thái độ trên bình diện đạo đức (làm điều này... không làm điều kia...), Đức Giêsu đều dùng các thái độ và xác tín của đức tin để nâng đỡ chúng. Ở đây yêu sách về sự bình đẳng bắt nguồn trong sự phụ thuộc của chúng ta trước Thiên Chúa. Đức Giêsu không đòi bãi bỏ mọi phẩm trật, quyền bính, tình phụ tử nào có thể thay thế cho Thiên Chúa. Đây là một yêu sách triệt để của tự do? Mọi con người đều có quyền gặp Thiên Chúa một cách trực tiếp. Không một thế phẩm nào được thay thế cho Đấng Duy Nhất, Đấng có thể cứu chuộc con người. Vâng, đối với Đức Giêsu việc gặp gỡ tình yêu của Chúa Cha, ở trên trời rất quan trọng đến độ mọi tấm chắn kính lọc, mọi sản phẩm thay thế mọi thế phẩm bất kỳ nào xem ra đều có hại. Đừng gọi ai dưới đất này là "cha"! Chắc chắn người ta có thể cho một người tước hiệu này nhưng không nên vì thế mà bị giam hãm trong mối quan hệ ấy, và trở thành ấu trĩ như trẻ con. Đức Giêsu biết rằng "chỉ có" Thiên Chúa mới là Thiên Chúa.

Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo là Đức Kitô

Đây cũng là lời cảnh báo tương tự không nặng được nhắc lại dưới những hình thức khác nhau. Xuyên qua những công thức ấy, chúng ta đã chẳng có thể khám phá chính điều chủ yếu của lời giáo huấn sao? Người lãnh đạo không phải là người lôi kéo người khác đến với mình nhưng lôi kéo người khác đến với chân lý.

Nhà giáo dục Kitô giáo, theo một ý nghĩa sâu xa hơn chỉ thật sự thành công trong việc giáo dục nếu người ấy có thể dẫn học trò mình bước vào quan hệ trực tiếp với Đức Giêsu. Trách nhiệm của cha mẹ, các nhà giáo dục và các linh mục vì thế rất nặng nề và kỳ diệu: một ngày kia họ phải tự quên mình là "thầy", bởi vì học trò mình đã tìm thấy vị Thầy duy nhất, vị "Lãnh đạo" duy nhất. Cuối cùng, một người dạy giáo lý chỉ đạt được mục đích khi dẫn đưa người học giáo lý đến kinh nguyện cá nhân để gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa. Và một nền giáo dục chỉ thật sự đạt được mục đích của nó nếu người được giáo dục một ngày kia có thể không cần đến nhà giáo dục nữa để hướng dẫn cuộc đời mình trong sự tự do hoàn toàn và dưới cái nhìn nội tâm của vị Thầy duy nhất.

Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ xuống, sẽ được tôn lên.

Công thức này làm ngạc nhiên, dễ nhớ vì tính chất nghịch lý, là một trong số những câu mà Đức Giêsu đã phát biểu. một cách rõ ràng dễ nhớ nhưng người ta không thể xác định vào thời điểm chính xác nào trong sự giảng dạy của Người. Thật vậy, người ta tìm thấy câu ấy trong những văn cảnh khác nhau. Trong Matthêu (20,26) để gạt bỏ tham vọng của các con trai ông Dêbêđê: Trong Luca (14,11), để mời gọi các môn đệ không nên chọn chỗ nhất ở bàn tiệc. Trong Luca (18,14), để phục hồi danh dự cho người thu thuế trước sự tự mãn của người Pharisêu. Dù sao, tư tưởng ấy chắc chắn là một xác tín của Đức Giêsu mà Người đã không ngừng nhắc lại trong những trường hợp khác nhau.

Do đó nó không phải là một phương tháp hành văn của các tác giả Tin Mừng nào. Dẫu sao công thức ấy mạnh mẽ và tra hỏi chúng ta những bản năng tự tôn của tôi là gì? Những công việc phục vụ của tôi là gì?

 

37. Chứng nhân

Ngày Chúa nhật hàng tuần tôi thường hay dành một buổi sáng để đi thăm nhà giáo dân trong họ đạo, đặc biệt là những người sống lạnh nhạt tôi lại thường xuyên đến thăm và động viên họ hơn. Khi tim hiểu nguyên nhân làm cho họ lạnh nhạt, tôi thấy một trong những nguyên nhân đó là sự bất mãn trong đời sống đạo. Họ bất mãn vì thấy những người giảng dạy lại sống không ra gì, những người thường xuyên đi lễ lại sống quá tệ. Đôi khi họ lại sống ngược lại với lời kinh Chúa dạy. Bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng lên án thái độ sống lệch lạc đó. Tiêu biểu là người luật sĩ Pharisêu, họ am hiểu Kinh Thánh lề luật ngưng lại sống không trung thực, sống phản chứng. Họ nói mà không làm, rao giảng mà không sống các điều mình rao giảng. Họ dạy tín hữu phải biết sống đơn sơ khó nghèo, trong sạch, liêm chính, không ham danh ham lợi, không chạy theo của cải vật chất trần gian, biết chia sẻ với người túng thiếu. Nhưng họ lại quan liêu hống hách, bê tha dục vọng, tranh giành chức vị, chạy theo tiền bạc của cải, quyền bính và sống ích kỷ, gian ác và tội lỗi, sống sa đọa hơn giáo dân rất nhiều. Kiểu sống của họ đã bôi nhọ và làm giảm uy tín Giáo hội, khiến cho giáo dân từ bỏ Giáo Hội và làm cho những người chưa biết Chúa xa rời tình yêu của Ngài.

Chúa Giêsu không chỉ tố cáo thái độ sống đạo lệch lạc của họ, mà Ngài còn tố cáo việc sống đạo vụ hình thức nặng nề của họ. Họ chủ trương tuân giữ luật lệ một cách tỉ mỉ, rườm rà theo bề ngoài mà quên đi tinh thần nòng cốt của luật. Tâm thức luật lệ ấy khiến cho hàng lãnh đạo Do Thái gia tăng số luật lệ, cam đoan đủ điều và biến luật lệ trở thành dụng cụ áp chế, bóp nghẹt sự tự do tinh thần trong cuộc sống lòng tin, khiến cho mối dây liên hệ giữa tín hữu với Thiên Chúa trở thành một gánh nặng đè bẹp, ngột ngạt khó thở, vì bị các luật lệ cột buộc bao vây tư bề.

Thật ra, các liên hệ với Thiên Chúa phải giúp cho tín hữu cảm nhận được lòng yêu thương nhân thứ và quan phòng ấp ủ của Ngài đối với mình. Vì thế, cuộc sống lòng tin phải là cuộc sống vui tươi, hạnh phúc tràn đầy hy vọng và an bình, chứ không phải là nhắm mắt tuân hành các luật lệ trống rỗng vô hồn.

Hơn nữa, kiểu sống đạo giả hình và phô trương của họ mang tính cách háo danh, thích ăn trên ngồi trước, thích được nịnh hót, thích được ca tụng và chào hỏi bằng tước hiệu trọng vọng.

Mặc dù không thi hành các luật Chúa, nhưng hàng lãnh đạo Do Thái khi giảng dạy ở Hội đường thì họ lại nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, huênh hoang, vạch đường chỉ lối cho người khác phải theo. Nhưng khi trở về đời sống riêng tư thì chui đầu vào ngõ bí, làm những điều mà phải đóng cửa tắt đèn mới dám làm. Vậy, những kẻ giả hình đó phải coi chừng, vì Chúa Giêsu sẽ chỉ mặt điểm tên mà bảo rằng: "Ngươi là cái mả tô vôi, ở# ngoài thì trắng trẻo sạch sẽ, bên trong thì đầy thây ma xác chết thối tha, là những phường nói một đàng làm một nẻo".

Nếu chúng ta không ý thức những điều đó, để rồi chúng ta lại rơi vào bánh xe xa lầy của những kẻ giả hình, lúc đó Chúa cũng trách chúng ta như vậy. Không trách sao được, khi chúng ta mở miệng dạy đạo đức cho người khác mà đời sống mình lại không đạo đức chút nào? Không trách làm sao được khi mình mở miệng răn bảo người khác không nên trộm cắp, phải tôn trọng tài sản của kẻ khác, mà chính mình lại là kẻ hối lộ, tham nhũng, ăn gian ăn bớt đủ thứ. Tha làm sao được khi mình dạy người khác phải chung thủy trong gia đình, thanh tịnh trong đấng bậc mình, còn mình thì đưa người cửa trước, đón người cửa sau.

Chúng ta cũng nên biết rằng, đối với thời đại chúng ta đang sống, nếp sống gương mẫu của các Kitô hữu là một phương thế hữu hiệu nhất để mở đường cho người khác tin vào Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, con người ngày nay cần phải có đời sống gương mẫu để củng cố đức tin cho chính mình và cho người khác.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết sống theo Lời Chúa, và nhất là qua hành động của mỗi người sẽ là một lời rao giảng tuyệt vời trong cánh đồng truyền giáo của Chúa. Amen.

 

38. Chớ giả hình, kiêu ngạo

(Suy niệm của Br Vincent Quốc Thanh)

Trong sử các đấng tổ phụ tu hành có chép chuyện một thầy ẩn tu nổi tiếng nhân đức. Khi biết mình sắp lìa cõi đời, thầy xin Bề trên dòng đến ban các Bí tích sau cùng. Tình cờ một tên trộm khét tiếng trong vùng cũng đến chỗ của thầy ẩn tu. Thấy thầy cả làm các phép trong đạo, tên ăn trộm động lòng thống hối và được ơn trở lại. Cho mình không xứng đáng vào phòng thầy ẩn tu, hắn chỉ đứng ngoài và kêu lên: "Ôi, chớ gì tôi được phúc như thầy". Thầy ẩn tu nghe thấy lấy làm đắc ý và đáp lại: "Ừ, thật đó, giả mày được giống như tao, thì còn phúc nào bằng."

Rồi tên ăn trộm liền chạy đi xưng tội. Nhưng vì chạy mau quá, nên đâm đầu xuống vực thẵm mà chết. Vị ẩn tu được tiếng là nhân đức cũng chết sau một vài ngày. Một thầy ẩn tu khác trước vốn ở chung với thầy này khóc thương cho bạn mình, nhưng lại vui cho kẻ trộm đã chết. Có người hỏi tại sao, thì thầy trả lời: " Người trộm chắc được rỗi linh hồn vì đã có lòng ăn năn tội. Còn thầy ẩn tu đã hư đi đời đời vì kiêu ngạo."

Thầy ẩn tu trong chuyện thuộc vào loại thầy " nói mà không làm" (Mt 23,3). Thầy làm những việc nhân đức cốt để cho người ta trông thấy và khen ngợi. Thầy thích được gọi là "Rabbi " (thầy hoặc vĩ nhân) nơi công cộng và chiếm chỗ nhất trong đám tiệc. Khoác áo nhà tu, nhưng không có tinh thần tu trì, thầy mắc hai lỗi lớn trong đường thiêng liêng: giả hình và kiêu ngạo.

Tại sao thánh sử Matthêu lại chống việc gọi các vị lãnh đạo tinh thần là " thầy" hoặc "cha"? Tiếng "Rabbi" được dùng vào khoảng năm 60-80 A.D. để chỉ về những vị thầy Do Thái có quyền giảng dạy luật Môisen. Theo mạch văn và theo hoàn cảnh lịch sử, thánh sử Matthêu chống lại những vị lãnh đạo tinh thần thời bấy giờ hơn là danh xưng. Ông Saul Ben Batnith (ca.80-120) là vị lãnh đạo tinh thần đầu tiên dùng danh xưng Abba, "cha". Mặc dầu Thánh kinh ngăn cản việc dùng danh xưng này, nhiều vị ẩn tu đã dùng danh xưng Abba để chỉ về những người cha tinh thần.

Theo Cha Benedict T. Viviano, OP., nhà chú giải Thánh kinh, những Kitô hữu tin chỉ có một Cha trên trời và một vị Thầy duy nhất là Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, cũng có những vị " cha" và "thầy" giữ vai trò chuyển tiếp (transitory role). Những vị "cha" và "thầy" đó giúp cho những người theo Chúa hiểu về người Cha nhân lành và vị Thầy khả ái là Chúa Giêsu Kitô. Những vị "cha" hay "thầy" chuyển tiếp này nên được gọi là "ngôn sứ, hiền nhân, và kinh sư". (Mt 23,34)

Vấn đề ở đây không phải là dùng danh xưng nào cho chỉnh hơn, nhưng là làm sao để sống đúng với danh xưng của mình. Nếu mình là " cha" hoặc "thầy" thì phải làm sao cho đời sống nội tâm phù hợp với danh tính và cử điệu bên ngoài của mình. Càng ý thức mình là những vị lãnh đạo tinh thần của dân Chúa, "cha" và "thầy" càng phải hại mình xuống và phục vụ hết sức mình (Mt 23,11). Nếu được thế thì chắc chắn người Cha trên trời sẽ được kính mến và vị Tôn sư duy nhất sẽ được tôn vinh.

 

39. Linh mục là Cha

(Viết theo “Bạn muốn biết”, Radio Veritas – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Chúa Giêsu khẳng định trong Tin Mừng hôm nay: “Đừng gọi ai dưới đất là Cha vì các ngươi chỉ có một Cha trên trời”. (Mt 23,11-12). Người ta thường dựa vào câu Thánh Kinh này để biện hộ cho quan điểm không gọi Linh mục là Cha. Vậy phải hiểu câu nói Chúa Giêsu như thế nào?

1. Tại sao gọi Linh mục là Cha? Thói quen ấy có từ lúc nào trong Giáo hội? Đâu là nền tảng của cách gọi này?

“Cha” theo định nghĩa, là một người đàn ông có một hay nhiều con. Một cách nào đó, Cha là người mang lại sự sống cho con. Do đó, bất cứ ai mang lại sự sống cho người khác, bằng cách này hay cách khác, cũng đều có thể được gọi là Cha. Người ta cũng gọi một ai đó là Cha Già Dân Tộc khi người này đã hy sinh đấu tranh mang lại độc lập cho tổ quốc. Danh từ Cha ở đây được hiểu theo nghĩa loại suy. Chúng ta gọi Cha những người đàn ông nào đó có đặc tính của người Cha. Cũng như khi chúng ta chào hỏi một người là ông bà, chú bác, thì không nhất thiết người đó phải có một liên hệ họ hàng với chúng ta. Danh xưng Cha được gán cho Linh mục cũng được hiểu theo nghĩa ấy.

Cách gọi này không phải là điều mới mẻ, ngay từ đầu lịch sử Giáo hội, các Giám mục được gọi là Cha, rồi dần dà người ta áp dụng cách gọi ấy cho các Linh mục.

Lý do gọi Linh mục là Cha thật đơn sơ và tự nhiên: Linh mục là thừa tác viên các bí tích. Ngài nhân danh Chúa Kitô và Giáo hội để ban bí tích và sự sống ơn thánh.Qua lời dạy bảo, một cách nào đó, Linh mục cũng nuôi dưỡng người Kitô hữu trong đời sống thiêng liêng. Do đó Linh mục đóng vai trò người Cha đối với các tín hữu.

Công đồng Vaticanô II, trong sắc lệnh về sứ vụ và đời sống Linh mục, đã nói về tương quan giữa Linh mục và giáo dân: Do bí tích thánh chức, các Linh mục Tân ước thi hành nhiệm vụ cao cả và cần thiết, đó là Cha và Thầy trong dân Chúa và cho dân Chúa.

2. Gọi Linh mục là Cha phải chăng đi ngược lại Tin mừng vì Đức Giêsu đã nói: đừng gọi ai dưới đất là Cha vì các ngươi chỉ có một Cha, Đấng ngự trên trời. Phải hiểu câu nói này như thế nào?

Vào thời Cải cách, người Tin Lành đã dựa vào câu nói này để bãi bỏ cách gọi Linh mục là Cha. Chúng ta phải hiểu đúng nghĩa câu nói của Đức Giêsu. Đặt câu nói này trong văn mạch của đoạn Tin mừng.

Đức Giêsu đang tranh luận với nhóm Pharisiêu,Luật sĩ. Ngài khiển trách họ giả hình, nói mà không làm, họ thích thống trị, họ bó những gánh nặng chất lên vai người khác, còn họ không nhúng tay vào, họ thích khoe khoang làm mọi việc cho người ta thấy, họ hám danh muốn ngồi chỗ nhất nơi công cộng và muốn người khác tỏ lòng kính trọng qua những danh xưng thầy, cha, người chỉ đạo. Qua đó, Đức Giêsu đưa ra một quan điểm mới cho các môn đệ: trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.

Đức Giêsu không cấm chúng ta gọi Cha đẻ của mình là Cha hoặc gọi bất cứ ai dạy dỗ chúng ta là Thầy. Hẳn Ngài đã từng gọi Thánh Giuse là Cha và những người dạy mình là Thầy. Do đó, không nên hiểu câu nói ấy theo từng chữ. Người Do thái thường dùng kiểu nói phóng đại. Chúa Giêsu dùng kiểu nói này khi bảo rằng: Nếu tay con gây vấp ngã, hãy chặt nó đi. Nếu mắt con làm cớ cho con vấp phạm, hãy móc mắt đi để được vào Nước trời. Chính Thánh Phaolô, người hiểu sâu xa Lời Chúa, thế mà ngài tự xưng mình là Cha các tín hữu, ngài cũng gọi Timôthêô là con yêu dấu.

Khi Đức Giêsu nói: “Đừng gọi ai trên mặt đất này là cha, vì ngươi chỉ có một Cha trên trời”, Ngài không phủ nhận chúng ta có những người cha người mẹ mà Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải kính trọng (x. Mt 15,4). Ngài muốn dạy rằng tình phụ tử nhân loại chỉ là một sự chia sẻ tư cách cha của Chúa Cha Tối Cao là Đấng Tạo Thành, một Người Cha hoàn hảo.

Đức Giêsu vừa đề cao tính cách là Cha của Thiên Chúa, vừa xác định tính cách chỉ đạo của Ngài, đồng thời Ngài cũng đả phá sự kiêu hãnh của một số nhà lãnh đạo Do thái giáo thời đó, họ ưa thích được người ta gọi là Cha, là Thầy.

3. Có buộc phải gọi Linh mục là Cha không?

Về cách xưng hô, dường như không có một luật nào buộc. Gọi Linh mục là Cha hay không, đó là vấn đề của tình cảm và niềm tin. Gọi Linh mục là Cha hay không, điều đó không quan trọng cho bằng có ác ý trong cách cư xử với Linh mục hay không. Sự thiếu lễ độ, lịch sự tối thiểu đối với một người lãnh đạo, dù chỉ là lãnh đạo một cộng đoàn nhỏ, không chỉ là một xúc phạm đến Linh mục, mà còn có thể xúc phạm đến chính tình cảm tôn giáo của người tín hưũ nữa.

Chúng ta quen gọi các linh mục là cha. Tuy nhiên, đó không phải là danh xưng mang tính ẩn dụ hay màu sắc thi ca. Tư cách cha của linh mục là thật vì là sự tham dự vào tư cách Cha thần linh (x. 1 Cr 4,15; Ep 3,15). Vì thế, tư cách cha của linh mục được thiết lập bởi tư cách làm Cha của Chúa Cha trên trời mang tính tổng thể, hoàn tất việc tự hiến.

Với tư cách là cha, linh mục thực hành như lời thánh Phaolô đã dạy Titô: "Phần anh, hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh. Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành. Đó là những điều anh phải nói, phải khuyên, phải sửa dạy với tất cả uy quyền. Chớ gì đừng có ai coi thường anh" (Ti 2,1-3.15).

Đức Giêsu đã dạy bài học quan trọng nhất cho các linh mục, lãnh đạo là để phục vụ. Vào Bữa Ăn Tối, sau khi rửa chân cho Nhóm Mười Hai, Ngài nói: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” và là “Chúa”, điều đó phải lắm. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”. (Ga 13,13-15).

home Mục lục Lưu trữ