Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 71

Tổng truy cập: 1379625

LÀM VIỆC ĐỂ TÌM KIẾM NƯỚC TRỜI

Làm việc để tìm kiếm Nước Trời

“Có làm thì mới có ăn

Không dưng ai dễ đem phần đến cho”

Đúng vậy, ai ai trong chúng ta cũng công nhận rằng sống thì phải làm việc, làm việc không ngừng. Điều đáng nói là chúng ta phải làm những việc nào và làm với động cơ nào?

Chúa nhật tuần trước, cùng với Giáo hội chúng ta đã suy niệm đoạn Tin mừng của Thánh Gioan. Đoạn Tin mừng này nói về phép lạ hóa bánh ra nhiều từ năm chiếc bánh và hai con cá nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê. Kể từ phép lạ ấy dân chúng theo Chúa Giêsu ngày càng đông hơn. Thấy họ theo mình đông đảo như thế, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở họ về động cơ đi theo Người: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26). Người nói tiếp: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông” (Ga 6, 27)

Có lẽ, Chúa Giêsu sợ rằng họ nghĩ là theo Người thì khỏi phải làm gì mà vẫn được no nê. Bởi lẽ, nhàn cư vi bất thiện. Do đó, Chúa Giêsu muốn họ có cái nhìn đúng đắn khi đi theo Người. Cái nhìn ấy phát xuất từ lòng tin tưởng vào Chúa. Tin tưởng vào Chúa để lo ưu tiên tìm kiếm Nước Trời là trên hết.

Có lần Chúa Giêsu đã nói: “…Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 6, 31 – 33)

Hằng ngày cực khổ làm việc vất vả nhưng có khi nào chúng ta tự hỏi tôi làm với động cơ gì chăng. Và rồi tôi đã làm việc như thế nào.

Có người làm việc với động cơ hại người.

Có người làm việc với động cơ hơn thua nhau

Để rồi họ bất chấp mọi thủ đoạn, bất chấp luân thường đạo lý miễn sao là đạt được mục tiêu đen tối của mình. Thật là nguy hiểm cho những người làm việc như thế. Hãy xin Chúa Giêsu cho chúng ta biết làm việc với động cơ thật tốt. Động cơ tốt là để tìm kiếm Nước trời.

 

40. Bánh từ nhà đem tới – Gm. Arthur Tone.

Trong trận chiến ở Tây Ban Nha, một người lính bị thương nặng được đưa về bệnh viện dã chiến. Chàng có hy vọng bình phục nhưng chàng lại không chịu ăn. Các y tá các nữ tu đã tìm mọi cách thuyết phục, nhưng chàng từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân của chàng, biết chàng nhớ nhà, nên anh tình nguyện đi tìm nhà của người bạn, anh kẻ rõ hoàn cảnh. Người cha của người bị thương chuẩn bị lên đường thì mẹ chàng gói cho con bà một tấm bánh. Nạn nhân vui mừng khi thấy cha mình. Nhưng anh vẫn chưa chịu ăn, đến khi cha chàng nói: “Này con, đây là tấm bánh mẹ con đã nướng”. Người con tươi nét mặt nói: “Vâng, bánh mẹ con làm, cho con một miếng”. Từ đó, chàng bắt đầu trên đường bình phục.

Bạn và tôi ở trong câu chuyện đó. Chúng ta bị thương trong trận chiến cuộc đời bởi tội, bởi quên Chúa, bởi những điều phiền muộn, những gian nan và những khổ đau hàng ngày. Chúng ta hết muốn ăn những món ăn làm cho linh hồn chúng ta thêm mạnh mẽ. Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Cha Ta cho anh em Bánh bởi trời đích thực. Bánh của Thiên Chúa từ trời đến và ban sự sống cho thế gian”. Cũng giống như người cha trong câu chuyện nói với con mình “Đây là bánh mẹ con đã làm”. Bởi vậy, vị linh mục của bạn nhân danh Đức Kitô nói với bạn: “Đây là Bánh Cha bạn ở trên trời đã làm”.

Thánh Thể là bánh từ trên trời, bánh ban sự sống cho chúng ta, sự sống thiêng liêng thật, sự sống của Thiên Chúa. Bánh chữa lành thiêng liêng, ban sức khỏe và sức mạnh thiêng liêng.

Không có phù phép trong tấm bánh của người mẹ. Nhưng có tình yêu là phép màu. Bởi kinh nghiệm, người lính bị thương biết rằng tấm bánh mẹ chàng nướng gói ghém bao tình thương. Cũng thế, chúng ta những kẻ theo Chúa Kitô biết rằng Tình yêu ban tặng trong Thánh Thể, trong việc đem bánh bởi trời đến ngay nơi đây, trong giờ này.

Trong Thánh vịnh đáp ca, chúng ta lặp lại những lời của bài ca trong Cựu Ước, ca ngợi Chúa vì Chúa ban Mana, của ăn lạ lùng Chúa ban cho dân Người trên hành trình về đất hứa. Mana là hình ảnh bánh Thánh Thể chúng ta dùng cũng những lời người Do Thái cổ đã dùng khi cảm tạ và ca ngợi Chúa. Vì bánh Thánh Thể Chúa ban trong giờ phút này.

“Chúa đã cho họ bánh bởi trời”

“Người làm mưa Mana trên họ để làm của ăn

và Người cho họ bánh bởi trời”.

Loài người được ăn bánh của Đấng Toàn Năng. Thánh Thể bao gồm tất cả. Hôm nay tôi gợi ý chúng ta nhớ Bánh bởi trời là liều thuốc cho linh hồn đau yếu, là sự bổ dưỡng cho tâm hồn bị thương, là ánh sáng và sức mạnh cho tâm trí yếu đuối. Tất cả chúng ta sẽ thấy được điều người lính bị thương trong câu chuyện đã kinh nghiệm. Nếu chúng ta nhớ rằng: “Thánh Thể là bánh đem từ nhà tới, từ nhà của chúng ta ở trên trời”.

Xin Chúa chúc lành bạn.

 

41. Ta là Bánh Hằng Sống – Noel Quesson.

Luy Latô (Louis Lateau), một người Bỉ được in năm dấu vào năm 1868. Từ nhỏ, cô đã bị đau yếu, ít ăn uống, nhất là sau khi được in năm dấu thánh, cô chỉ còn ăn chút ít, mỗi ngày một mẩu bánh nhỏ. Và kể từ 1871 trở đi, suốt bảy năm, cô không ăn uống gì nữa, chỉ còn rước lễ hàng ngày.

Thời gian gần đây, có những người được ơn lạ. Trong số những người đó, có Têrêxa Niu-man và Matta Robin đã không ăn uống trong nhiều chục năm. Có lẽ Chúa Giêsu muốn chúng ta nhớ điều này: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh…”. Dĩ nhiên hai cuộc sống nói ở đây là khác biệt, nhưng đều quan trọng cho một đời người.

Trong sinh hoạt trần thế của con người, có lẽ những bận tâm, những nỗ lực tìm kiếm của nuôi thân đã mất nhiều công sức và thời giờ hơn cả. Chúa nhìn ra tâm trạng đó ngay trong đám dân đi theo Người: “Các ngươi tìm Ta không phải vì xem thấy dấu lạ nhưng vì đã được ăn bánh no nê”. Và có những người khi nghe Chúa nói tới bánh là họ hiểu ngay theo nghĩa đen. Cũng như người phụ nữ bên bờ giếng Gia-cóp, nghe Chúa nói về nước, bà xin ngay: “Xin cho tôi nước đó để tôi khỏi phải đi múc nước ở đây”.

Tâm tình này là đúng. Nhưng ngoài nhu cầu thân xác, còn có nhu cầu tâm linh nữa. Nhu cầu tâm linh hay lương thực nuôi hồn là gì? Lương thực nuôi hồn là lời Chúa, là chính Chúa. Chỉ khi nào con người tìm về với Chúa, mới được no thỏa, dù có ý thức điều đó hay không. Ngôn sứ Amos đã nói về niềm khát khao Chúa như một cơn đói trầm trọng: “Sẽ có lúc cả xứ bị đói, không phải là đói cơm bánh, không phải là khát nước, mà là đói khát lời Chúa” (Am 8,11). Ngôn sứ Giêrêmia cũng cảm nghiệm điều đó: “Gặp được lời Chúa, tôi đã nhai đã nuốt vào. Lời Chúa làm no thỏa hồn tôi và làm tôi hân hoan” (Gr 15,16). Và chính Chúa cũng đã nói với các môn đệ: “Thầy có một thứ lương thực mà anh em không biết, đó là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và chu toàn công việc của người” (Ga 4,32-34), Bởi thế, Chúa nói: “Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta, sẽ không phải đói. Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”.

Lạy Chúa, chúng con kiếm tìm Chúa như tìm kiếm của ăn đích thực cho tâm hồn. Chỉ một mình Chúa, mới đem lại cho chúng con sự sống và niềm vui thực.

 

42. Một trái tim đói khát.

Vai chính trong cuốn phim về một nhóm ca sĩ “Damn Yankees” là một người đứng tuổi, tên là Joe Boyd. Từ khi còn bé, Joe đã ước mơ một ngày nào đó, anh sẽ trở thành một cầu thủ nổi tiếng chơi banh baseball. Bây giờ Joe đã lớn tuổi, giấc mơ không thể thực hiện được nữa, nhưng chàng vẫn tiếp tục mơ ước.

Rồi vào một buổi tối nọ, một điều kỳ lạ đã xảy ra. Một người đàn ông tên Applegate đã đi vào cuộc sống của Joe. Applegate đã nói với Joe rằng ông có thể giúp Joe thực hiện giấc mơ của mình.

Ông có thể làm cho Joe, từ một người đàn ông đứng tuổi, trở thành một cầu thủ 22 tuổi chơi cho đội banh Washington Senators. Vào thời đó, đội Washington là một đội trong liên hội Hoa Kỳ (American League). Tuyệt vời hơn nữa là Joe không những sẽ trở thành cầu thủ nổi tiếng, mà còn giựt được cờ vô địch New York Yankees.

Applegate là ai vậy? Có lẽ chúng ta có thể đoán ra được câu trả lời rồi, đó là thằng quỉ đội lớp người.

Sau khi nói sơ qua những gì Joe sẽ được, thì Applegate ra một điều kiện là anh phải bán linh hồn mình cho nó để đổi lấy danh tiếng.

Joe đã không nghĩ ra được một lý do gì mà không đồng ý với thằng quỉ Applegate để thực hiện giấc mơ của mình. Sau cùng, Joe đã đồng ý với thằng quỉ nhưng với một điều kiện là nếu bất thình lình trước khi giựt được cờ vô địch thì hợp đồng vẫn có thể bị hủy bỏ. Applegate nghĩ rằng một khi Joe đã được nổi tiếng rồi thì chắc chắn anh sẽ bị danh tiếng làm cho ngu muội và sẽ không bao giờ hủy bỏ hợp đồng, và nó đã đồng ý.

Sau khi mọi sự đã được thỏa thuận, Joe đã hôn lên má người vợ đang ngủ của mình và để lại một tấm giấy với những lời tạm biệt. Joe bắt đầu một cuộc sống khác.

Joe đã gia nhập vào đội banh Senators như là một lính mới và dần dần anh đã được nổi tiếng trong nhóm. Joe đã được nhiều người thích baseball mộ mến, và nhiều người trẻ đã coi Joe là một thần tượng. Nhiều người già còn mơ ước rằng Joe là một trong những người con của họ.

Đó là những giây phút thật hào hứng. Anh không bao giờ dám nghĩ rằng cuộc sống của anh tràn đầy sự ngọt ngào như thế. Anh không bao giờ dám mơ rằng thế giới tuyệt vời đến thế.

Tiếp tục cuốn phim, một điều không ngờ đã xảy ra cho Joe. Mặc dù có danh tiếng và vận may Joe vẫn thấy chán nản. Một buổi tối nọ, Joe đã ngồi và nhìn vào một bức tường, và trong thâm tâm của anh, anh đang nhìn thấy một sự trống rỗng. Danh tiếng và vận may không có thể nào làm cho tâm hồn no thỏa được. Và Joe vẫn không hiểu tại sao.

Rốt cuộc, ngày hạn đã sắp đến để giao linh hồn mình cho quỉ. Còn danh tiếng, cờ hiệu, trong tâm trí của Joe chỉ là con số không. Sau cùng, Joe đã quyết định một việc mà anh không bao giờ nghĩ đến đó là trước khi giựt được giải cờ hiệu, anh sẽ hủy bỏ hợp đồng với Applegate.

Có lẽ rằng lý do mà Joe hủy bỏ hợp đồng là bởi vì trong tâm trí của Joe, anh đã nghe được tiếng nói của Chúa Giêsu: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn mình thì được ích gì?” (Lc 9:25).

Cho dù là lý do nào đi nữa thì Joe đã biến khỏi thế giới của môn thể thao baseball một cách huyền bí giống như lúc anh bước vào.

Một vài ngày sau, Joe đã trở về căn nhà của mình. Anh hôn vợ của mình và anh đã trở lại một người đàn ông đứng tuổi hồi trước, Joe Boyd, một người đã từng mơ ước để trở thành một cầu thủ baseball nổi tiếng.

Câu truyện của Joe Boyd nói lên một tư tưởng mà chúng ta gặp thấy trong bài Phúc Âm hôm nay: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời… Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ.”

Điều mà Chúa Giêsu phán có thể được tóm gọn trong một câu: Không vật gì ở thế gian này có thể thỏa mãn được trái tim đói khát của con người.

Đó là bài học mà chúng ta cần phải biết nếu chúng ta muốn đi tìm sự hạnh phúc thật. Danh tiếng và của cải sẽ hứa cho chúng ta được no thỏa về phần xác, nhưng đến cuối cùng nó chỉ làm cho chúng ta càng thêm đói khát.

Trong một vài phút nữa đây, chúng ta sẽ chia sẻ với nhau tấm bánh hằng sống. Chúng ta cùng nhau xin Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ quên đi một chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã dạy trong bài Phúc Âm: của ăn uống của thế giới vật chất này không bao giờ no thỏa trái tim đói khát của chúng ta và trái tim chúng ta được dựng nên cho Chúa và sẽ chỉ được yên nghỉ trong Chúa mà thôi.

 

43. Trung tín trong cuộc hành trình về quê trời

(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano)

Nếu như muốn suy niệm về Kinh thánh Do thái, thì hôm nay chúng ta có cơ hội tốt. Bài đọc 1 trích từ sách Xuất hành, là thành phần của cuộc di cư vĩ đại, lâu dài, khó khăn, dân tộc Do thái phải trải qua trong sa mạc Sin khô cằn. Tính chất biểu tượng của nó thật phong phú cho mỗi linh hồn và ngay cả cho toàn thể Hội thánh, để vượt qua biển đời trần gian. Trong suốt thời kỳ đó lòng tin của dân tộc Israel bị thử thách nặng nề qua những miền đất hoang dã, gập ghềnh, đầy thú dữ. Nghe đọc bản văn, chúng ta tưởng chừng như câu truyện mới xảy ra hôm qua. Thực sự việc đó đã xảy ra hàng ngàn năm về trước. Thiên Chúa dẫn đưa dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, và vào lúc này họ thấy mình đang trên con đường trở về đất hứa. Họ được tự do, nhưng cuộc hành trình về quê cha đất tổ thì mới vừa khởi sự. Họ còn phải chịu đựng rất nhiều để học cho biết họ là dân tộc nào và Thiên Chúa là ai? Câu truyện thật hấp dẫn và biểu tượng song hành cũng thật rõ ràng. Đức tin của mỗi linh hồn cũng phải trải qua ngần ấy khó khăn để đến được bến bờ hạnh phúc.

Điểm tôi lưu ý đầu tiên là tính cộng đoàn của dân Israel. Ở đây tác giả không nói về cá nhân nào, mà về toàn thể xét như một dân tộc thoát ách nô lệ, và làm cuộc di chuyển qua sa mạc. Cả cộng đồng rời bỏ Ai cập, cả cộng đồng ăn thịt chim cút và bánh manna. Cả cộng đồng phải thử thách, khổ đau, chịu đựng và kêu ca. Như vậy bài đọc gợi ý cho chúng ta về những vật lộn cá nhân trong những cuộc hành trình khó khăn của đức tin. Xin luôn nhớ đây là truyện lòng tin của cả một khối người, không phải của riêng lẻ một ai. Một khối người duy nhất phải trải qua sa mạc. Về phần chúng ta cũng vậy các khó khăn thử thách trong cuộc sống cũng phải được nhìn trong tổng thể lòng tin của cộng đoàn giáo xứ, khi chúng ta cùng nhau tiến tới trên cuộc đời người tín hữu.

Vậy thì cứ thử đặt kinh nghiệm vượt sa mạc của dân Do thái dưới góc độ văn phạm của ngôn ngữ để thấy nội dung của nó ra sao! Thật khủng khiếp. Nhưng xin thứ lỗi cho tôi về lối giải thích ngoại thường này. Một mệnh đề đơn giản phải có ba yếu tố: Chủ từ, động từ và túc từ. Chủ từ thực hiện hành động, động từ chuyển tải hành động và túc từ tiếp nhận hành động. Trong suốt hành trình di cư của dân Do thái, sự thật văn phạm được tôn trọng. Thiên Chúa là chủ từ và dân Israel tiếp nhận các hành động của Ngài, còn động từ thì vô số, tuỳ vào tình huống: giải cứu, trừng phạt, đe doạ, khuyên răn, ban lề luật… Trong câu truyện xuất hành Thiên Chúa thực hiện những hành động cao cả trên dân. Ngài trông thấy nỗi nhọc nhằn vất vả của kiếp sống lầm than và ra tay giải cứu. Ngài che chở, nuôi sống, dẫn đưa họ qua sa mạc. Tất cả đều là những hành động của Ngài. Dân chúng kêu ca, ta thán, thì có thể coi như những lời cầu khẩn, van xin Thiên Chúa nghe lời và quyết định giải thoát. Ngài không hề ở xa tuyển dân, ngược lại luôn ở gần, lắng nghe các ước vọng của họ. Đàng khác, tuyển dân là túc từ của mệnh đề. Họ sống trong gian khổ, trong những nhu cầu cấp thiết, nhưng chẳng có khả năng tự giải quyết. Họ tiếp nhận các hành động xót thương của Đức Chúa.

Do đó, sách Xuất hành mạc khải cho dân Do thái biết Thiên Chúa là ai và những vật lộn trong sa mạc cho họ hay mình là thế nào? Chúng ta cũng thường bộc lộ những yếu đuối, chao đảo, khó khăn, ta thán, những nỗi thống khổ. Chúng ta có cảm nhận một Thiên Chúa trung tín, hằng ra tay nâng đỡ, cứu giúp, như Ngài đã từng làm cho dân Do thái? Hơn nữa, hàng ngày chúng ta cần Thượng đế giải phóng khỏi kiếp nô lệ tội lỗi. Mặc dù do thói quen chúng ta không nhận ra thân phận mình, cứ cho là tự do mà trong thực tế không phải vậy. Nói rộng ra, phần đông nhân loại đều sống trong ách kìm kẹp của Satan. Nhân loại cần một Thiên Chúa giải thoát. Nhưng công việc của Ngài chỉ là bước đầu. Còn rất nhiều gian nan trước mắt: phá vỡ thói xấu, tập tành nhân đức, vượt khó… Vì thế ngay khi ra khỏi Ai Cập, Thiên Chúa đã truyền cho tuyển dân phải nên thánh, kẻo trở lại nếp sống nô lệ xưa. Đây là tình trạng mà Vat.II đã gặp. Sau những cố gắng đổi mới, biết bao nhiêu chống đối nổi lên, thậm chí còn có những kẻ muốn huỷ bỏ thành quả của Công đồng, trở về nếp sống bảo thủ, khép kín, ngăn cách khỏi cộng đồng nhân loại. Trên con đường thiêng liêng nếu không có Thiên Chúa hướng dẫn, thì trăm bước sai lầm, chưa chắc chúng ta đã được một bước chính xác. Vì vậy phải luôn gắn bó với Thiên Chúa trong nếp sống thánh thiện.

Nhưng cũng không nên quá bi quan, tô vẽ một Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta vào khó khăn, thử thách. Xin luôn nhớ, dân tộc Israel đã từng sống kiếp nô lệ và Thiên Chúa là Đấng giải cứu họ. Nếu như họ gặp nhọc nhằn, đó là vì còn đang ở trong tiến trình tiến tới tự do, phải bỏ lại đằng sau những tập quán xưa, thói quen cũ. Điều này không phải dễ, nhìn vào chính bản thân, chúng ta cũng thấy cải tạo quả là khó khăn, đau xót, nói chi đến một tập thể, một cộng đoàn, một giáo xứ và ngay cả Hội thánh. Tuy nhiên, để có những cuộc khai sinh con người mới, cộng đoàn mới, thì nhất thiết chúng ta phải chết đi bằng nhiều kiểu cách. Không phải tự tử mà chết đi với tật xấu thói hư.

Giống như dân tộc Israel, Hội thánh cũng hằng đối mặt với các cuộc thanh tẩy, các thử thách do những thế lực ma quỉ gây nên. Lịch sử Giáo hội cho thấy rõ điều đó. Năm ngoái tôi được cung cấp một danh sách dài những quốc gia đang còn bách hại Hội thánh. Tất cả là hơn 20. Năm nay tôi dám chắc con số đó không giảm, có thể còn tăng lên. Bởi lẽ tình hình bài tây phương ngày một dâng cao và Hội thánh bị ảnh hưởng, tuy gián tiếp nhưng cũng rất nặng nề. Cũng không thể bỏ qua những đấu tranh nội bộ. Khi cố gắng sống nhân chứng cho Đức Kitô, Giáo hội phải thích nghi với nếp sống địa phương. Nhưng vô tình Giáo hội đồng hành luôn với các thể chế chính trị, văn hoá, kinh tế. Thành thử nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân, lây nhiễm não trạng thực dụng, cứ ngỡ ủng hộ lợi ích của chế độ là trở thành các Kitô hữu tốt. Làm ngược lại là xấu, là phản bội đức tin. Thực chất không phải vậy. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Nước của tôi không thuộc về thế gian này.” (Ga 18, 36). Lại còn một loại khó khăn khác nữa mà Hội thánh luôn phải đấu tranh. Đó là tội lỗi trong lòng mình, đặc biệt các gương mù gương xấu của giai cấp linh mục, tu sĩ. Thí dụ như trong Hội thánh Hoa Kỳ, gương mù lạm dụng tình dục của một vài giáo sĩ đã gây nên không biết bao nhiêu thiệt hại cho mẹ Giáo hội. Về vật chất, thiệt hại quả là khổng lồ. Tiền của đền bù, đáng lý phải được dùng vào những lợi ích khác như thành lập bệnh viện, trường học, từ thiện, viện trợ cho các giáo hội nghèo khó v.v… Tất cả đều bị cắt giảm để tài trợ cho các án dân sự. Về mặt tinh thần thì vô kể. Gương xấu đã phát sinh nhiều lời phê bình gay gắt, giận dữ, bất mãn, ta thán, chế diễu, tố cáo, rời bỏ, loại trừ… Chẳng thiếu một hình thức nào. Có thể còn phải mất vài thập niên nữa vết thương mới được chữa lành. Ở đây chúng ta lại gặp kinh nghiệm sa mạc và như thế lại cần đến lương thực “man-na” mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có khả năng cung cấp. Thứ manna chữa lành, đổi mới và tái dấn thân. Giáo hội Hoa kỳ đang ở giai đoạn xuất hành gian khổ. Thử thách ập đến trong nhiều hình thức khác nhau. Giống như tuyển dân Do thái, chúng ta cũng rất dễ xa đường lạc lối.

Điều an ủi là Thiên Chúa xưa kia đã trông thấy cộng đoàn xuất hành Do thái đói khổ và gởi lương thực đến cho họ. Không phải lương thực họ đã quen dùng, cũng không phải lương thực họ tự chọn lấy. Nhưng thứ bánh mà họ phải hỏi nhau: “Cái gì đây?” (man-hu?). Cho nên bài đọc 1 cũng như bài Tin mừng kêu gọi hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Ngài sẽ nuôi dưỡng chúng ta trong những ngày tháng khó khăn này. Chúng ta chẳng biết được thứ bánh mà Ngài sẽ ban là gì. Có thể ngon ngọt, vui mừng. Có thể chua cay đắng đót. Nhưng mỗi ngày chúng ta được thêm sức mạnh để vượt qua thử thách. Bánh đây không loại trừ lời khích lệ của thân nhân, bà con, bạn bè, có khi của cả những người xa lạ chúng ta chưa từng một lần gặp. Đúng thế, ngoại trừ số ít lòng lang dạ thú, còn thì trái tim con người ta đa phần rất dễ rung động trước những nỗi bất hạnh của kẻ khác. Mỗi khi có thiên tai, bão lụt, lòng hảo tâm của các tầng lớp đồng bào lại mở rộng một cách hào hiệp. Thêm vào đó, nhiều cơ quan từ thiện quốc gia, tôn giáo, quốc tế thường xuyên hoạt động ở những khu vực cần giúp đỡ. Nhiều khi vì quá vô tâm, chúng ta không nhìn thấy bàn tay dịu hiền của Thiên Chúa cùng hoạt động với những cơ quan đó. Như vậy trong một cộng đoàn, bánh của Thiên Chúa có thể là vật chất, có thể là tinh thần, dưới những hình thức ngôn sứ khác nhau, kêu gọi chúng ta trở về với Hội thánh, Bí tích phổ quát của Chúa Giêsu trên thế gian.

Điểm cuối cùng sách Xuất hành mặc khải là: ngày nào đủ bánh cho ngày ấy. Người ta thu gom phần bánh cho mình hàng ngày. Nếu như họ tỏ lộ lòng tham lam, lượm hơn số cần thiết, nó sẽ tự hư nát (trừ trường hợp cho ngày Sabbath). Nghĩa là Thiên Chúa luôn có mặt để giúp đỡ con người vượt qua mọi khó khăn. Do đó, chúng ta được dậy cho biết phải cậy trông vào sự quan phòng của Đức Chúa Trời, nuôi dưỡng các tạo vật của Ngài. Chúng ta thực sự có nhu cầu sống trong đức tin như thể cá nhân hay cộng đồng mà chỉ một mình Thiên Chúa mới thoả mãn được. Trong Thánh lễ hôm nay chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể, bánh hàng ngày của nhân loại, bánh ban sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu. Bánh chứng tỏ rằng mặc dù chúng ta hằng cầu xin, nhưng Thiên Chúa đã lắng nghe rồi, mà ban cho dư thừa. Tuy nhiên, còn một hình thức khác của bánh cần van xin. Đó là bánh đức tin để chúng ta can đảm làm các chứng nhân. Đó là bánh liên kết chúng ta với nhau trong bác ái. Đó là bánh bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa xót thương giữa xã hội loài người. Chúng ta cầu xin thứ bánh đó. Nhưng cũng đừng quá đỗi ngạc nhiên., khi Ngài ban tặng “manna” trong muôn vàn thể thức khác nhau. Amen.

————————

Ghi chú thêm: Bài đọc 2 thánh Phaolô nói đến con người mới: chúng ta có thể khai triển: Con người mới là Đức Giêsu Kitô, là Hội thánh (khải hoàn). Con người đang đổi mới là mỗi tín hữu.

 

home Mục lục Lưu trữ