Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 55

Tổng truy cập: 1379520

LAOỊ TRỪ CHÚA GIÊSU CHĂNG ?

Loại trừ Chúa Giêsu chăng?

Đây là một trang dễ sợ. Trang này bắt đầu bằng một phản ứng đúng ra là đầy cảm tình: “họ thán phục các lời về ân sủng xuất bởi miệng Ngài”. Nhưng kết thúc bằng sự bạo động: “mọi người trong hội đường đầy lòng tức tối; đứng dậy họ đuổi Ngài ra ngoài thành”.

Loại trừ Chúa Giêsu! Loại bỏ Đấng là những cánh tay của Thiên Chúa rộng mở để tiếp đón tất cả mọi người. Thật là dễ sợ! Điều này không thể xảy đến với chúng ta.

Chúng ta hãy hy vọng điều đó, nhưng Tin Mừng cần phải luôn báo động cho chúng ta. Tại sao những người Nagiarét đi từ khâm phục đến căm ghét?

Chúa Giêsu đã phải cảm thấy những thái độ ngập ngừng mạnh hơn trong bài Tin Mừng này và Ngài không ngần ngại rút ra những hệ quả từ đó: những ơn cứu độ mà ta vừa mang lại cho các ngươi, những người khác sẽ nhận lãnh, như xưa kia bà goá người Phênixi và người cùi Syri là những người được nhậm lời chứ không phải người Do thái.

Việc mở rộng cho dân ngoại xúc phạm đến người Do thái. Họ không còn có thể tin vào người này nữa. Trong suốt các thế kỷ, người ta sẽ loại trừ Chúa Giêsu vì những lý do khác nữa nhưng nền tảng của tất cả những sự loại trừ này sẽ có chính sự từ chối cơ bản được gợi ra đây do sự bối rối của thính giả: “Không phải ông ấy là con bác Giuse sao?”; đây chỉ là con trai của Giuse mà thôi. Những người nghĩ rằng Chúa Giêsu chỉ là một con người mà thôi, mặc dầu họ khâm phục Ngài nhiều, họ vẫn không thể gán cho Ngài trong tư tưởng và trong cuộc sống của họ vị trí to lớn mà Ngài đòi hỏi. Họ chấp nhận con người, họ loại trừ Con Thiên Chúa.

Lại một lần nữa đây không phải là trường hợp của chúng ta hay sao? Không, nhưng chúng ta phải coi chừng một số loại trừ âm ỉ hơn thế nữa. Trước tiên có một cách để sát nhập Chúa Giêsu vào các ý nghĩ của chúng ta hoặc vào môi trường của chúng ta, mà môi trường này tương đương với việc từ chối tinh thần của Ngài và do đó từ chối chính Ngài. Chúng ta hãy xác minh chẳng hạn như những ngập ngừng của chúng ta và có thể là những giận dữ của chúng ta trước những cởi mở của Giáo Hội, của Giám mục này, của linh mục nọ. “Tốt hơn hết là chăm sóc các Kitô hữu tốt”. Mỗi lần chúng ta hạn hẹp món quà cứu độ là chúng ta loại trừ Chúa Giêsu.

Tôi cũng gặp những tín hữu sẵn sàng chấp nhận Chúa Giêsu mà không suy xét tỉ mỉ, bao lâu cuộc sống của họ yên ả. Nhưng một biến cố nào đó đã đặt họ trước một sự bó buộc của Tin Mừng là điều đối với họ dường như không thể chấp nhận được đến độ họ thốt lên sự từ chối: “Ngài không thể yêu cầu tôi làm điều này!”. Họ loại bỏ Chúa Giêsu ‘ra ngoài thành’, ra ngoài cuộc sống của họ. Không có gì ngao ngán cho bằng thấy biết bao niềm tin và thậm chí một cuộc đời trung thành lâu dài chuyển đổi thành sự không biết, sự bỏ rơi, sự căm ghét. Tôi nghĩ rằng phải rất thận trọng trong việc chọn lựa trong Tin Mừng điều hợp và điều không hợp với chúng ta: chúng ta có nguy cơ chuẩn bị trong một góc nào đó của con tim chúng ta sự loại trừ Chúa Giêsu.

“Ngài đã ngang qua giữa họ mà đi”. Chúa Giêsu đi qua với những lời mời gọi và những dâng hiến của Ngài. Nói chung, nói vâng với Ngài là điều rất dễ. Tin Mừng không phải được viết ra cho những người xuất chúng, mà là cho những người bé mọn. Dầu sao nếu điều này trở nên khó hơn, chúng ta đừng buông Đấng duy nhất “có lời ban sự sống đời đời”. Ngài đi con đường của Ngài, hướng về những người khác có niềm tin và lòng can đảm hơn.

 

17. “Người nhà đã không tiếp nhận Ngài”

Sau khi đã sai nhóm Mười Hai đi từng hai người để thực tập việc tông đồ tại miền quê xứ Galilê, Chúa Giêsu trở về thăm Nagiarét, nơi mà Ngài đã được nuôi dưỡng và lớn lên trong mái ấm gia đình dưới sự chăm sóc của Mẹ Maria và thánh Giuse. Sau khi làm cho cô bé con ông Giairô viên trưởng hội đường sống lại, Ngài dừng chân tại Capharnaum. Các môn đệ đi theo Ngài ít ngày đầu, nhưng sau đó, một mình Ngài trở về thăm quê, và dự một buổi thờ phượng nhằm ngày sabát. Được mời lên tiếng, Ngài có cơ hội đưa ra một thông điệp quan trọng.

Các khán giả nghe Ngài với nỗi kinh ngạc. Họ không thể nào chống lại vẻ dịu dàng của bài giảng, hoặc chối bỏ vẻ quyến rũ của lời Ngài nói, nhưng họ cũng không thể chấp nhận lời tuyên bố của Ngài. Họ biểu lộ thái độ không tin bằng một câu hỏi: “Không phải ông ấy là con bác Giuse sao?”. Ý họ muốn nói: “Đây không phải là người thân cận với chúng ta, một người thợ mộc mà chúng ta đều quen biết, chúng ta đã không biết bản thân anh ta và cả gia đình anh ta sao? Chắc chắn anh ta không thể là Đấng Messia được!”.

Câu trả lời của Chúa Giêsu ngụ ý nói sở dĩ họ không nhận Ngài, vì Ngài không làm trước mặt họ những phép lạ mà Ngài đã làm ở nơi khác. Khi Ngài trích dẫn câu tục ngữ: “Thầy lang ơi! hãy chữa lấy mình!” là Ngài có ý nói: “Hãy chứng thực lời tuyên bố của anh ở đây như anh đã làm ở các nơi khác, nếu anh muốn chúng tôi nhận anh là Đấng Kitô”. Chúa cũng trích dẫn câu tục ngữ khác cắt nghĩa đầy đủ hơn về mối nghi ngờ ghen ghét của họ: “Không có tiên tri nào được sủng mộ nơi quê quán mình!”. Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của các vĩ nhân đó. “Quen quá hoá lờn” (Bụt nhà không thiêng) vì người ta có khuynh hướng phán đoán kẻ khác theo tiêu chuẩn giả dối, theo hình thức bên ngoài, vì người ta không hiểu biết những kẻ mà họ tưởng họ từng quen biết hơn cả. Chính những nhận xét nông cạn này đã làm tàn hại cho đời sống ngày nay. Nó khiến ta không nhận thức được giá trị của bạn hữu, của cơ hội để khi biết được thì quá trễ. Chính cái đó đã có một ảnh hưởng bi đát trên sứ vụ của Chúa Giêsu. Người ta chối bỏ Ngài vì những lý do hết sức nông cạn và điên rồ. Họ tưởng rằng họ đã biết Ngài vì đã quen thuộc với tên Ngài từ lâu, trong khi thực tế họ không thể hiểu được vẻ đẹp của nhân vị Ngài và quyền năng của Ngài.

Thái độ của khán giả trở thành tức giận khi Chúa Giêsu lấy hai thí dụ trong Cựu Ước, cả hai đều ám chỉ rằng dầu người đồng hương của Ngài biết rõ về Ngài, nhưng họ vẫn không xứng đáng hưởng ơn sủng do chức vụ của Ngài đem lại hơn những người ngoại. Ngài tự sánh ví mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã đem ân phúc lớn cho người ở Siđon và Êlisê cho người ở Syri, trong khi dân Israel vẫn không nhận được ơn vì lòng họ cứng cỏi. Như vậy, các dân tộc trên thế giới sẽ nhận được ân phúc do Chúa Cứu Thế mang lại trong khi những kẻ quen biết Ngài lại phải khổ sở vì không tin. Họ đâu có chịu nổi lời quở trách nghiêm khắc ấy. Điều làm họ tức giận là Ngài khen tụng dân ngoại. Người Do thái vẫn đinh ninh rằng chỉ có mình họ là dân của Thiên Chúa, cho nên họ khinh thường các dân tộc khác. Họ tin rằng “Chúa đã dựng nên các dân ngoại để làm chất đốt cho lửa hoả ngục”. Thế mà giờ đây, chàng thanh niên Giêsu này, người mà hết thảy họ đều biết, lại giảng như thể dân ngoại được Thiên Chúa ưu đãi. Họ nổi xung lên, đuổi Chúa Giêsu ra khỏi thành và toan làm hại mạng sống Ngài.

Ngay từ khi mới sinh ra, Chúa Giêsu nhận được một định mệnh “Ngài có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm dấu gợi lên chống đối” (Lc 2,34), lời tiên tri ấy nay đã thành sự thật.

Hẳn thật, sau khi đã suy gẫm lâu dài về cuộc đời Thầy mình, thánh Gioan tông đồ đã phải đưa ra một nhận định cay đắng: “Ngài đã đến nơi nhà của Ngài, mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Ga 1,11). Việc xảy ra thật đáng buồn nhất là cho Chúa Giêsu là người giàu tình cảm đối với quê hương xứ sở. Đáng lẽ họ phải mở rộng vòng tay đón tiếp Ngài, đáng lẽ Ngài được tiếp rước như một người đi xa trở về, người đã làm nở mày nở mặt cho quê hương xứ sở. Nhưng Ngài đã bị chối bỏ.

Bài học của Nagiarét đây vẫn luôn được lập lại, nhiều người có cơ hội để biết Chúa lại chối bỏ Ngài, nhưng nơi nào có đức tin thì những tấm lòng tan vỡ được hàn gắn như thời Êlia, và những người phong sẽ được lành mạnh như Naaman nhờ lời của Êlisê. Vậy trong khung cảnh nhà hội Nagiarét, Chúa Giêsu đã nói, chẳng những về ơn lành của chức vụ Ngài mà còn về quyền năng phổ quát của chức vụ ấy nữa. Ngài đến để thoả mãn những nhu cầu của nhân loại trong cả thế gian.

Jelana là một trong sáu em đã được phúc nhìn thấy Đức Mẹ trong suốt mười tám năm, và được Đức Mẹ đích thân dạy dỗ, có lần có người hỏi cô về số phận của những người theo đạo Công giáo, cô kể lại lời Đức Mẹ dạy: “Có lần Đức Mẹ cho biết có một phụ nữ đang sống ở Mễ Du, bà ấy đã gần đạt tới sự thánh thiện. Các thị nhân hỏi tên bà ấy, Đức Mẹ trả lời: bà ấy là một người Hồi Giáo. Nghe câu trả lời ấy, các thị nhân sửng sốt hỏi lại: sao lại thế được. Đức Mẹ trả lời: “Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán về những điều ấy”. Sau đó Đức Mẹ giải thích: “Các con hãy nói cho mọi người biết là chính các con tự chia rẽ nhau ở trần gian. Người Hồi Giáo và Chính Thống Giáo cũng một thể như người Công Giáo, đều bình đẳng với nhau trước Con Mẹ và Mẹ. Các con hết thảy đều là con cái Mẹ. Thật ra mọi tôn giáo không phải đều bằng nhau, nhưng hết mọi người đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Không phải cứ thuộc về Giáo Hội Công Giáo là đủ để được cứu rỗi … Những người không Công Giáo không phải là những thụ tạo kém hơn đâu. Họ cũng được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được định phần chung cuộc là sống trong nhà Thiên Chúa, Cha chúng ta. Ơn cứu độ được cống hiến cho hết mọi người không trừ ai. Chúa Giêsu Con Mẹ đã cứu chuộc toàn thể nhân loại trên địa cầu. Chỉ những ai từ chối Thiên Chúa một cách cố tình thì bị kết án, do bởi sự lựa chọn của chính họ.

 

18. Kiên vững và dịu hiền – Thiên Phúc.

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề. Thôi Trữ bảo: Nếu ngươi nghe ta, khi lấy được nước, ta sẽ cho một nửa. Bằng không, ta giết ngay lập tức. Án Tử vẫn không biến sắc ung dung nói: lấy lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội vua là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu. Thôi Trữ nghe nói vậy, không dám làm gì. Án Tử đứng dậy, ung dung bước ra.

Thôi Trữ quyền hành là thế, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm ông phải chùn bước. Thế mới biết sự thật có sức mạnh hơn bạo lực quyền uy.

Bài Tin mừng hôm nay kể lại: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy lòng tức tối; đứng dậy họ đuổi Ngài ra ngoài thành, và điệu Ngài lên tận triền núi nơi thành họ đã được xây cất, có ý xô Ngài xuống. Nhưng Ngài đã ngang qua giữa họ mà đi” (Lc 4,28-30). Những người đồng hương với Chúa Giêsu cảm thấy khó chịu vì họ không thể tin rằng “Thần khí Chúa” lại ngự xuống trên con ông Giuse thợ mộc. Họ cảm thấy nghi ngờ vì không thể chấp nhận một con người nghèo khổ làng Nagiarét lại là tiên tri, lại là Đấng Thiên sai. Họ càng căm phẫn khi con người ấy không chịu thực hiện những phép lạ mà họ yêu cầu. Thế là bạo động nảy sinh, họ muốn tiêu diệt Ngài cho khuất mắt. Đúng như lời Ngài đã nói: “Không một tiên tri nào được tiếp đón nơi quê hương mình”. Thế mới ứng nghiệm lời ông già Simêon: Trẻ này là dấy hiệu bị người đời chống báng. Lời tiên tri này còn theo Người suốt cả cuộc đời.

Nếu dân làng Nagiarét ép Ngài làm phép lạ để minh chứng Ngài là tiên tri, thì các đầu mục Do Thái cũng đòi Ngài chứng minh giáo lý của Ngài là chính thống. Nếu dân làng Nagiarét tố cáo Ngài là lộng ngôn phạm thượng thì bọn pharisêu cũng kết tội Ngài dựa vào thế gía của quỉ vương. Nếu dân làng Nagiarét cố tìm cách giết Ngài, thì dân thành Giêrusalem cũng quyết tâm đóng đinh Ngài vào thập giá. Mỗi người Kitô hữu đều có thể hiểu được thế nào là bị xua đuổi, bị loại trừ, bị kỳ thị và bị bỏ rơi, vì “nếu thế gian đã ghen ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước”. Thế nhưng ít có ai cảm nghiệm được tâm trạng của Chúa Giêsu vào những lúc như thế này: Ngài có căn thù những kẻ ruồng rẫy Ngài không? Ngài có đầu hàng trước nghịch cảnh không? Nói như Martin Luther King: Tôi vui mừng vì Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa có tinh thần kiên vững và có con tim dịu hiền.

Vâng, nếu Thiên Chúa chỉ là Đấng có tinh thần kiên vững, thì Ngài sẽ là một Thiên Chúa xa cách, lạnh lùng, ngự trị một nơi nào đó trên chốn trời cao để ngắm nhìn thế sự thăng trầm. Nhưng nếu Ngài chỉ có con tim dịu hiền, thì Ngài sẽ là một Thiên Chúa ủy mị nhu nhược, không thể hành động khi mọi sự đi lệch hướng. Đứng trước cảnh bị ruồng rẫy hôm nay, con tim của Ngài không hề chai đá và tinh thần của Ngài không chút bạc nhược. Ngài có đủ tinh thần kiên vững để vượt trên thế giới và có con tim đủ dịu hiền để ở giữa con người.

Bài học chúng ta cần rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay, đó là: Thiên Chúa mạnh mẽ vô song, có thể băng qua giữa họ mà đi, nhưng Ngài cũng là Đấng giàu lòng thương xót. Khi chúng ta ngỗ nghịch xúc phạm đến Ngài, khi chúng ta muốn xô Ngài xuống vực thẳm, thì chúng ta cần biết rằng chính lúc đó Ngài đang yêu thương chúng ta và sẵn sàng cho chúng ta một cơ hội để quay trở về. Thiên Chúa là Đấng có tinh thần kiên vững trong phán quyết công minh, nhưng Ngài cũng là Đấng có tình dịu hiện trong tình thương và ân sủng.

Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho hết mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho một số người được đặc ân.

Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ để chúng ta sinh ích cho mình và làm lợi cho anh em, chứ không phải để chúng ta khư khư giữ lấy cho riêng mình.

Lạy Chúa, Tiên Tri là ơn gọi và là sứ mạng của mỗi người tín hữu chúng con. Xin cho chúng con luôn can đảm nói điều Chúa muốn nói, và nói nhân danh Chúa, cho dù có phải bị chống đối, phẫn nộ.

Xin cho chúng con luôn xác tín rằng: Chúa đầy quyền năng cao cả nhưng cũng rất giàu lòng xót thương, luôn dẫn dắt chúng con từ những hố sâu tăm tối đến những nẻo đường chan hoà ánh sáng, tràn đầy hy vọng, nhờ đó, cuộc đời chúng con được viên mãn. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ