Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 44

Tổng truy cập: 1377255

LẠY CHA

Lạy Cha

Có một nhà văn vô thần. Ông ta không biết đến Thiên Chúa, đến linh hồn, đến đời sau. Ông ta bị đau nặng, được đưa vào bệnh viện và đang ở trong tình trạng hấp hối.

Nhìn thấy một nữ tu đến giúp đỡ ông nhưng tay lại cầm cỗ tràng hạt, ông ta bèn lên tiếng hỏi:

- Chị làm gì thế?

Vị nữ tu trả lời:

- Tôi đang cầu nguyện để ông được giảm bớt những cơn đau.

- Vậy chị cầu nguyện như thế nào?

Vị nữ tu bèn đọc thật chậm và sốt sắng lời kinh Chúa dạy:

- Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…

Ông ta phát biểu:

- Lời kinh thật đẹp, chị hãy đọc tiếp nữa đi.

- Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Rồi sao nữa:

- Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.

Sau khi đã nghe đọc hết kinh Lạy Cha, ông ta nói:

- Tôi muốn chị dạy cho tôi lời kinh bất hủ ấy.

Và sau cùng, một người vô thần đã nhận biết Thiên Chúa nhờ lời kinh Lạy Cha.

Trong phần tìm hiểu sáng hôm nay, tôi chỉ muốn dừng lại và phân tích bốn chữ vắn gọn: Lạy Cha chúng con.

Trước hết là hai chữ “Lạy Cha”.

Trong đời sống chúng ta có thể gọi Thiên Chúa bằng nhiều danh hiệu khác nhau: nào là Thiên Chúa vĩnh cửu, nào là Thiên Chúa quyền năng, nào là Thiên Chúa tạo dựng, nào là Thiên Chúa thánh thiện. Mỗi danh hiệu đều nói lên một góc cạnh, một đặc tính nào đó của Thiên Chúa.

Nhưng theo tôi nghĩ, không một danh hiệu nào lại đậm đà, lại trìu mến, lại ý nghĩa, lại hy vọng cho bằng danh hiệu là Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta mỗi khi cầu nguyện hãy thưa lên:

- Lạy Cha chúng con ở trên trời.

Thiên Chúa là một người Cha tuyệt vời và đúng nghĩa nhất, bởi vì Ngài đã trao ban cho chúng ta sự sống phần xác, ngày chúng ta mở mắt chào đời, cũng như sự sống phần hồn ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Danh hiệu này cũng đã đem lại cho chúng ta chiếc chìa khoá để giải quyết vấn đề thân phận con người:

- Chúng ta bởi đâu mà đến và rồi chúng ta sẽ đi về đâu?

Tôi xin thưa:

- Chúng ta từ Thiên Chúa mà đến và rồi sẽ trở về cùng Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Tiếp đến là hai chữ “chúng con”.

Chúng ta không đọc: Lạy Cha con, mà đọc Lạy Cha chúng con. Như thế lời kinh tuyệt vời này không phải chỉ nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với Thiên Chúa, mà còn nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với nhau.

Thiên Chúa là Cha, cho nên tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Như thế lời kinh này không phải chỉ tỏ lộ cho chúng ta tình phụ tử, mà còn tỏ lộ cho chúng ta tình huynh đệ.

Đã là anh em thì chúng ta có bổn phận phải yêu thương, phải tha thứ, phải hoà giải cùng nhau, vì thế không lạ gì khi thấy Chúa bảo chúng ta cầu nguyện:

- Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.

Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta hãy gắn bó mật thiết với Ngài. Đồng thời là anh em với nhau, nên chúng ta phải yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.

Đó chính là những sứ điệp mà bốn chữ đầu của kinh lạy Cha muốn gửi đến mỗi người chúng ta.

 

49. Cầu nguyện

Hãy cầu nguyện luôn, hãy cầu nguyện với hết lòng tin tưởng vào tình yêu thương quan phòng của Chúa, đặc biệt cầu nguyện với lời kinh Lạy Cha mà Chúa đã dạy các đồ đệ: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Lời kinh Lạy Cha mà chúng ta thường dùng để cầu nguyện là một tập hợp chung lại của hai bản văn Phúc âm theo thánh Luca và theo thánh Matthêu. Bản văn của thánh Luca ngắn gọn hơn và chỉ có bảy lời cầu: “Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.

Như vừa đọc trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ lời cầu nguyện này theo lời yêu cầu của các ông và sau khi đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện. Trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhiều lần tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã cầu nguyện như thế nào? Thật khó mà đoán hết nội dung lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, nhưng căn cứ vào những lời Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ chúng ta có thể nói rằng, lời cầu nguyện Ngài dạy cho các tông đồ phản chiếu phần nào lời cầu nguyện của chính Ngài với Thiên Chúa Cha.

Chúa Giêsu nêu gương cho các đồ đệ trong mọi sự. Chắc chắn trong việc cầu nguyện cũng thế, Ngài muốn cho các đồ đệ của Ngài cầu nguyện và sống lời cầu nguyện như chính Ngài đã làm gương. Trước hết, lời cầu nguyện hướng về Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Hơn ai hết, Chúa Giêsu ý thức mối tương quan mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, giữa Ngài và Thiên Chúa Cha. Ngài là Con Một Thiên Chúa, Ngài luôn luôn đối thoại và sống kết hiệp với Thiên Chúa Cha. Khi dạy các tông đồ cầu nguyện: “Lạy Cha”, Ngài chia sẻ tình phụ tử, hay đúng hơn Ngài đưa các đồ đệ, đưa con người vào trong tình phụ tử với Thiên Chúa Cha. Sứ mạng cứu chuộc của Ngài là hòa giải con người với Thiên Chúa, làm cho con người được phục hồi phẩm giá làm con cái Thiên Chúa.

Đọc lời kinh Lạy Cha, mỗi người chúng ta hôm nay hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha. Từ ngữ mặc lấy không diễn tả hết thực tại mới mẻ mà người Kitô lãnh nhận được trong Bí tích Rửa tội. Từ ngữ mặc lấy có thể gợi lên trong chúng ta hình ảnh hời hợt trùm lên bên ngoài mà bên trong chẳng có gì thay đổi cả. Thật sự đối với người Kitô không phải như vậy, thực thể người Kitô đã được ơn Chúa biến đổi trong Bí tích Rửa tội. Thực tại con người đã được biến đổi trở nên con người mới, một thực tại mới, được ân sủng Thiên Chúa tái tạo, biến đổi. Thực tại mới này không phải do công trạng của con người, của mỗi người chúng ta, nhưng đó là ân ban của Thiên Chúa nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta được làm con Thiên Chúa trong Con Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Vậy khi cầu nguyện với lời kinh Lạy Cha, mỗi người Kitô chúng ta cần phải ý thức rằng, mình cần phải trở nên Chúa Kitô hơn, cần phải được biến đổi để trở nên giống Chúa Giêsu Kitô để có thể bước vào trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa Cha, như Chúa Kitô đã nêu gương và muốn chúng ta thực hiện như vậy. Do đó, một kết luận thực hành cho đời sống đạo của chúng ta là chúng ta không thể nào cầu nguyện thực sự lời kinh Lạy Cha, nếu tâm hồn chúng ta không được biến đổi trở nên giống Chúa Giêsu. Khi tâm hồn chúng ta không biến đổi, khi cuộc sống chúng ta không trở thành Kitô đích thực thì lời kinh chúng ta đọc: “Lạy Cha chúng con ở trên trời” chỉ là một lời hời hợt bên ngoài trên môi trên miệng mà thôi.

Chúa Giêsu Kitô đã thực hiện ơn cứu rỗi cho con người. Mỗi người Kitô chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội đã được ơn Chúa biến đổi để có thể cầu nguyện kinh Lạy Cha thật sự. Nhưng sự biến đổi đó chưa hoàn toàn kết thúc, vì bao lâu chúng ta còn sống trên trần gian này thì bấy lâu con người chúng ta còn phải chiến đấu với những tật xấu, những khuynh hướng tội lỗi nơi bản thân. Mỗi ngày chúng ta đều được mời gọi cộng tác với ơn Chúa để thanh tẩy, để trở nên giống Chúa Giêsu Kitô mỗi ngày một hơn, để cầu nguyện kinh Lạy Cha mỗi ngày một xứng đáng hơn.

Lời kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện nói lên thực thể căn bản của người Kitô là con cái Thiên Chúa Cha trong Chúa Giêsu Kitô. Lời kinh Lạy Cha còn là lời kinh gia tăng sức mạnh để giúp mỗi người chúng ta hằng ngày trở nên con cái Thiên Chúa Cha nhiều hơn nhờ ơn Chúa Giêsu Kitô.

Nguyện xin Chúa ban ơn cho mỗi người chúng ta càng ngày càng trở nên xứng đáng hơn để cầu nguyện lời kinh Lạy Cha như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Amen

 

50. Kiên trì

Đề tài của bài Tin Mừng thật rõ ràng, nói về vấn đề cầu nguyện. Nội dung gồm ba phần: Phần thứ nhất là những điều Chúa dạy phải cầu xin mỗi khi cầu nguyện. Phần thứ hai là lời khuyên hãy kiên trì trong khi cầu nguyện. Phần thứ ba là hiệu nghiệm của lời xin đích thực.

Trước hết, một môn đệ đã thay mặt cho anh em xin Chúa Giêsu dạy cho bài học về sự cầu nguyện. Chúng ta có thể nêu lên hai lý do khiến các ông muốn xin Chúa dạy cầu nguyện: Lý do thứ nhất, vì các ông thấy Chúa thường cầu nguyện và các ông cũng muốn cầu nguyện như Ngài. Lý do thứ hai, vì các ông cũng thấy Gioan Tiền hô dạy các môn đệ của ông cầu nguyện. Vì thế, theo lời xin của các môn đệ, Chúa Giêsu đã dạy các ông những điều phải cầu nguyện. Những điều này chúng ta vẫn gọi là kinh Lạy Cha. Như vậy, kinh Lạy Cha là kinh chính Chúa Giêsu đã trực tiếp dạy cho chúng ta, nên chúng ta phải coi đây là kinh mẫu, kinh quí giá nhất, quan trọng nhất, hoàn hảo nhất mà mọi tín hữu phải ưa chuộng hơn cả, phải năng đọc hơn các kinh khác, và phải đọc với niềm mến yêu tin tưởng, đọc với ý thức tương quan và bổn phận của chúng ta đối với Cha trên trời và đối với nhau. Sau khi đã dạy phải cầu xin những gì, Chúa Giêsu lại dạy thái độ cần phải có khi cầu nguyện, đó là kiên trì. Chúa đã dùng dụ ngôn “người bạn quấy rầy” để minh họa cho chúng ta thấy rõ sự cần thiết và hiệu quả của sự kiên trì khi cầu nguyện. Dụ ngôn này nói về người trong nhà đang ngủ, dù rất khó chịu bực mình khi bị quấy rầy vào nửa đêm, nhưng cũng đành chỗi dậy cho mượn bánh, nếu không vì tình nghĩa thì ít là được bình an ngủ tiếp. Người đời còn đối xử với nhau như thế huống chi là Chúa. Ngài đâu đến độ cứng lòng như người bạn bị quấy rầy này. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ nản lòng cầu nguyện. Nếu xin mãi mà chưa được cũng đừng bao giờ bỏ cuộc, cứ cầu nguyện tiếp. Thiên Chúa làm thinh giả điếc để chúng ta được lợi thêm. Ngài muốn bị quấy rầy ít lâu để tăng thêm lòng ao ước, lòng tin cậy của chúng ta hơn.

Trước khi kết thúc bài học về cầu nguyện. Chúa Giêsu còn nói về sự hiệu nghiệm của lời cầu xin chính đáng. Chúa khẳng định như một lời hứa bảo đảm: “Hãy xin thì sẽ được”. Rồi Chúa đưa ra một thí dụ để chúng ta hiểu rõ hơn và xác tín hơn: người cha người mẹ trần gian, không mấy tốt lành mà còn muốn dành phần tốt nhất cho con cái, thì huống chi Thiên Chúa lại không biết chọn phần hơn cho con cái mình hay sao? Miễn là những điều chúng ta cầu xin là những điều thích hợp. Xin điều gì tốt thì nhất định sẽ được Chúa nhận lời.

Lời Chúa hôm nay là một bài học rất hữu ích, nhắc nhở chúng ta hãy kiểm điểm lại việc cầu nguyện. Trước hết, chúng ta có cầu nguyện không? Có người cho rằng: cần gì phải cầu nguyện, vì Chúa biết rõ những gì chúng ta cần thiếu. Chắc chắn Chúa biết mọi sự chúng ta cần thiếu. Nhưng biết là một chuyện, ban ơn lại là chuyện khác, nên chúng ta rất thiệt thòi nếu dám kết luận là được miễn cầu nguyện. Thiên Chúa không cần lời cầu của chúng ta. Đúng lắm. Những cầu nguyện và thờ lạy của chúng ta không thay đổi gì hạnh phúc vĩnh cửu của Chúa. Nhưng Chúa buộc chúng ta phải thờ lạy, tạ ơn và cầu xin, vì chúng ta là tạo vật của Chúa, bổn phận của chúng ta đòi buộc chúng ta dâng lên Chúa những cử chỉ đó. Chúa biết mọi sự chúng ta cần thiếu, nhưng chúng ta phải trình bày để luôn nhớ mình là bất lực. Chúa dạy cầu nguyện vì lợi ích cho chúng ta chứ không phải vì Chúa. Nên chúng ta phải cầu nguyện và cầu nguyện luôn.

Thứ hai, chúng ta xin những điều thiết yếu như cơm no áo ấm, ăn ngon mặc đẹp, bình an, khỏe mạnh, thành công, may mắn… là những điều cần thiết mà sao ít khi được hay chẳng bao giờ được như ý, có phải tại nhiều người xin quá không? Có phải Chúa ngủ quên chăng? Chúng ta thường có khuynh hướng xin những gì chúng ta muốn trước mắt, ít khi chúng ta suy xét đến những hậu quả và những thay đổi của hoàn cảnh. Chúng ta cho rằng những điều chúng ta xin là tốt đẹp, là cần thiết, chúng ta đòi Chúa phải nhận lời ngay. Nhưng chúng ta có khôn ngoan và hiểu biết bằng Chúa không? Chúng ta phải tin rằng Chúa nhìn xa trông rộng, thông minh vô cùng, Ngài biết những gì tốt và cần cho chúng ta. Do đó, nếu vì yêu thương, Chúa đáp ứng lời chúng ta cầu xin, thì trái lại, cũng vì yêu thương mà nhiều khi Ngài phải từ chối. Trong cả hai trường hợp, chúng ta đều phải xin vâng và cảm tạ Ngài. Sau hết, chúng ta phải kiên trì cầu nguyện. Thiên Chúa muốn chúng ta kiên trì. Ngài muốn nghe lời van xin kiên nhẫn của chúng ta. Chúa muốn thì tại sao chúng ta lại không muốn? Kiên trì là một đức tính tối cần cho thành công: “Có công mài sắt có ngày nên kim”. “Kiến tha lâu đầy tổ”, “Nước chảy đá mòn”, “Không có gì là quá sức, miễn là chúng ta bền gan”. Từ đó chúng ta hiểu: kiên trì cầu nguyện là một cách cầu nguyện bảo đảm sẽ được Chúa nghe và nhận lời. Thánh nữ Monica, mẹ thánh Âu tinh, đã không uổng công mất thời giờ trong 16 năm cầu nguyện và khóc lóc, sau cùng bà đã được như ý. Con bà đã trở lại đạo và nên thánh tiến sĩ thời danh của Giáo Hội. Đúng như lời thánh Amrôxiô đã an ủi bà khi bà than thở với ngài là cầu nguyện mãi mà chưa được: “Bà cứ yên tâm, đứa con của bao nhiêu nước mắt không thể nào hư đi được”. Thánh Phanxicô đờ San rất nóng tính, ngài rất buồn vì tật xấu này, ngài đã cầu nguyện trong 22 năm để được ơn hiền lành, và ngài đã được xưng tụng là vị thánh gương mẫu về hiền lành. Đó là những gương sáng về kiên trì cầu nguyện.

Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta phải coi việc cầu nguyện là một vấn đề cần thiết cho đời sống. Tinh thần cầu nguyện của chúng ta phải giống như việc lên giây chiếc đồng hồ: lên giây một lần không đủ, mặc dầu biết rằng lên giây ngày hôm nay để rồi ngày mai phải lên giây lại, chúng ta cũng cứ đều đặn làm công việc đó mỗi ngày, thì cầu nguyện cũng vậy, chúng ta phải cầu nguyện đều đặn mỗi ngày, cầu nguyện với lòng tin tưởng và dù được hay không những điều chúng ta cầu xin, chúng ta cũng luôn vâng theo ý Chúa.

 

51. Hiệp thông

Thế giới chúng ta đang sống ngày nay đầy những thông điệp được chuyển trao cho nhau, người ta trao đổi nhau những thông tin qua mạng Internet, qua thư tín. Những cánh thiệp chuyển tải bao lời chúc nồng nàn. Email, điện thoại cho người ở đây và người ở kia có thể gặp gỡ nhau… Luôn luôn và không ngừng chúng ta gởi đi và tiếp nhận những thông điệp. Thế nhưng, giữa lòng cuộc sống nhộn nhịp và quá bận bịu ấy, có lẽ ít khi chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa cũng luôn gởi đến những thông điệp tình yêu, cùng sự quan tâm chăm sóc của Người. Đối lại, khi tiếp nhận ân ban từ trời, ta cũng gởi về Người những thông điệp gói ghém đầy tâm tư và khắc khoải của kiếp sống nhân sinh. Như thế, có thể nói những gì chúng ta gởi trao thường xuyên sẽ gắn kết giữa Thiên Chúa và con người một mối dây hiệp thông bền chặt. Hay nói cách khác, mối tình hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người đó vẫn được chúng ta xây dựng qua mỗi phút sống trong đời cầu nguyện. Như vậy, phải chăng cầu nguyện là sống mối tình hiệp thông?

Vâng! Cầu nguyện trước hết là sống hiệp thông với Thiên Chúa, điều này được biểu lộ nơi kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha vừa được đọc lên trong đoạn Tin Mừng có lẽ không xa lạ gì với chúng ta, ít nhiều trong đời Kitô hữu có mấy ai lại không một lần thốt lên lời kinh ấy. Lời kinh được Chúa Kitô truyền dạy rất súc tích và đầy ý nghĩa cho phép chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, cho phép ta được gắn kết với vị Cha chung giàu lòng nhân hậu hằng yêu thương chăm sóc ta, đến nỗi đã trao nộp cả Con Một mình. Nên khi cầu nguyện với người Cha như thế là ta đang được nối kết với nguồn mạch yêu thương duy nhất, là ta được mời gọi sống mối tình hiệp thông khăng khít với Thiên Chúa.

Đẹp biết bao khi ta nguyện xin cho “danh Cha được hiển sáng”, nếu thực sự chúng ta sung sướng được làm con ngoan của Chúa Cha, thì có lẽ nào điều quan tâm trước tiên của người con lại không là danh thơm tiếng tốt của Cha mình? Vả lại ước nguyện này cũng hàm ẩn một điều nhắc nhở người Kitô hữu phải có bổn phận sống sao cho đẹp lòng Cha, sống sao cho danh Cha không bị tổn thương mà sẽ sáng mãi nơi lòng nhân thế. Như thế thì ý nguyện tiếp theo chắc chắn sẽ sáng tỏ như một tất yếu: “mong cho ý Cha thể hiện trên trời cao cũng như nơi đất thấp”. Vâng! một mong ước hết sức giản dị, tự nhiên, nhưng biểu lộ mối tương quan kết nối bền chặt mà chúng ta vẫn hằng dệt nên mỗi khi cất lời cầu xin đó. Để từ đây, đất với trời được nối kết bằng bài ca giao duyên, và con người găp được Thiên Chúa qua mối tình hiệp thông.

Nhưng mối tình ấy không chỉ dừng lại ở đây. Vâng! nếu tiếp tục vâng lời Đức Kitô để cất lên lời kinh ấy, chúng ta sẽ nhận ra rằng cầu nguyện không chỉ là gặp gỡ, đối thoại thân tình với Chúa Cha, mà còn là sống hiệp thông với mọi người chung quanh. Điều này được minh họa rõ nét trong bài đọc I, khi Abraham cầu xin với Thiên Chúa cho Sôđôma như một cuộc mặc cả, với số người công chính mỗi lúc mỗi giảm đến độ thê thảm, nhưng trong hình thức so kè ấy, lại toát lên mối bận tâm của Thiên Chúa đối với số phận con người, và đồng thời cũng cho thấy khi cầu nguyện, con người liên đới với nhau cách mật thiết. Quả thực, như một nét đẹp được vẽ nên khi Abraham xin Chúa tha cho Sôđôma nếu tận cùng bằng số ông chỉ tìm thấy một người công chính. Tương tự như vậy, khi thốt lên kinh Lạy Cha, chúng ta xin Chúa tha thứ cho mình nếu ta cũng tha thứ cho anh em mình.

Như thế, cầu nguyện không còn là chuyện cá nhân nữa, mà mỗi lời kinh dâng lên Thiên Chúa chính là tâm tình làm thành một vòng tròn rộng lớn nối kết tất cả mọi người, bởi lẽ đó đây lời cầu của người này có thể là quà tặng bất ngờ cho người kia, trong khi lời cầu của người kia có thể là sức mạnh trợ lực cho cả tôi lẫn những người khác nữa. Để rồi cứ thế, vòng tròn mãi vần xoay khi mỗi người chúng ta nhận được sức sống của Thiên Chúa qua lời kinh bất tận của mối tình hiệp thông, một sức sống làm cho kẻ xa xôi trở nên gần gũi, cho người xa lạ trở thành thân quen, cho người đói ăn có đủ lương thực, để người với người thứ tha cho nhau, để lòng mở lòng đón nhận ai đó lỡ xa lìa có dịp trở về. Như vậy, mỗi lời kinh vang lên giữa lòng cuộc sống luôn có khả năng nối kết mình với kẻ khác và gắn kết mọi người vào đời sống của Thiên Chúa.

Đến đây mỗi người chúng ta tự hỏi: để sống tinh thần hiệp thông, chúng ta phải cầu nguyện như thế nào? Thực ra, nhận định về việc cầu nguyện dưới khía cạnh hiệp thông không mới mẻ gì. Nhưng vấn đề sẽ không thừa khi thực tế cuộc sống vẫn còn đó lối sống khép kín, ích kỷ nhỏ nhen. Cho nên, thiết tưởng cần phải có một cung cách cầu nguyện sao cho mỗi tâm tình được khơi lên sẽ là mỗi hành vi hiệp thông: hiệp thông với Thiên Chúa, hiệp thông với tha nhân trong Chúa Kitô. Và sẽ càng đẹp hơn nữa khi mỗi lời kinh được cất lên luôn đặt hiệp thông như mục đích phải hướng đến, như một trách nhiệm phải chu toàn. Trách nhiệm ấy đòi hỏi mỗi người chúng ta góp phần xóa đi lối sống cá nhân chủ nghĩa, xua tan những sai lệch có thể có trong đời sống Kitô hữu, vốn coi cầu nguyện đi liền với sự xin xỏ theo ý mình, dễ có nguy cơ dẫn đến mâu thuẫn giữa ý nguyện của người này và của người khác.

Như thế, có thể nói mục đích cuối cùng của cầu nguyện không phải để báo cáo cho Thiên Chúa biết các nhu cầu của chúng ta, vì Ngài còn biết rõ hơn chúng ta. Và mục tiêu của cầu nguyện cũng không phải là xin Ngài vui lòng thỏa mãn các nhu cầu ấy, vì lòng nhân từ vô biên của Ngài luôn muốn điều lành cho chúng ta. Mà cầu nguyện chính là làm cho ý chúng ta khớp với thánh ý Ngài, ngõ hầu tình yêu của Thiên Chúa tìm thấy trong tình yêu của chúng ta một lời đáp trả ngày càng hoàn hảo hơn. Thế nhưng thực tế phũ phàng vẫn còn nhiều lấn cấn: làm sao gắn kết ý mình với ý Thiên Chúa được khi mà những lời cầu trong cơn khốn cùng xem ra không được Ngài đáp lời, nhiều khi ta gõ hoài mà cửa chẳng mở, tìm hoài mà chẳng thấy. Có thể vì lời nài xin còn nhiều ích kỷ? Có khi điều ta xin còn nhiều cặn bẩn? Lắm khi chúng ta xin rắn mà không hay. Xin hãy ra khỏi bận tâm hẹp hòi của chính mình mà đồng cảm với mối bận tâm của Thiên Chúa, chắc chắn Ngài không nuông chiều con cái nhưng sẽ ban cho ta những ơn lành cần thiết, và ơn lành lớn lao nhất là Thánh Thần – Đấng chính là tình yêu hiệp thông.

Trong thánh lễ hôm nay, cùng với việc đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy sống tâm tình hiệp thông, xin tiếp tục gởi trao về Thiên Chúa những Email tình yêu, đồng thời cũng đón nhận mọi biến cố mà Người gởi đến, bởi lẽ mọi biến cố trong đời đều có thể là quà tặng yêu thương.

 

52. Xin thì sẽ được – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm

Lời Chúa hôm nay cho thấy lời cầu nguyện có giá trị như thế nào! Và không chỉ thế, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần cho tất cả những ai cầu xin Ngài.

Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần

Đức Yêsu dạy các tông đồ cầu nguyện. Qua đó Ngài cũng dạy tất cả chúng ta.

“Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”. Danh Thiên Chúa cả sáng khi con người tin Thiên Chúa, và để Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn mình. Nước Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu. Khi con người sống yêu thương nhau, Nước Thiên Chúa đang hiện diện.

“Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến” không phải là chuyện con người có thể làm được. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho con người tin nhận Ngài và sống theo luật tình yêu. Đó là lý do tại sao chúng ta nài xin.

“Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”. Cơm bánh hằng ngày, là những điều rất bình thường nơi người ta no đầy sung túc, và người ta tưởng đó là những điều tự nhiên, và không cần tạ ơn Chúa; nhưng ở những nơi đói kém, con người dễ nhận ra “cơm bánh” mình ăn hằng ngày, là những hồng ân đặc biệt Thiên Chúa ban. Nếu không nhận biết “cơm bánh” hằng ngày là ơn, con người đã hành xử như người vô ơn.

“Xin tha tội chúng con, để chúng con cũng tha lỗi cho những người xúc phạm đến chúng con”. Xin cho chúng con cảm nhận lòng từ bi nhân hậu của Chúa, để chúng con cũng giúp người khác cảm nhận tình yêu tha thứ của Chúa, qua việc chúng con tha thứ lỗi lầm cho họ.

“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Con người mỏng dòn, mong manh, dễ vỡ! Ai dám nói mình không bao giờ sa ngã? Bây giờ tôi rất mạnh, nhưng lúc khác có thể tôi rất yếu. Không sa ngã phạm tội, đó là hồng ân vô cùng lớn mà nhiều lần tôi đã không ý thức để tạ ơn Thiên Chúa. Ở trong tình nghĩa với Chúa, là một ơn mà mỗi tối khi xét mình, chúng ta cần nhận ra để tạ ơn Chúa.

Người đời, những con người bất toàn và ích kỷ, mà còn không thể dửng dưng trước những lời van xin của đồng loại, huống chi Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người vô cùng. Nếu con người còn biết cho con cái mình những điều tốt, huống chi là Thiên Chúa, chẳng lẽ Ngài không ban điều tốt cho con người sao? Quả thực, Thiên Chúa đã ban “Thánh Thần” cho con người. Thánh Thần là quà tặng quý nhất mà Thiên Chúa và Đức Yêsu ban cho con người. Khi người ta tặng quà ai, món quà càng giá trị càng diễn tả tình yêu. Món quà quý nhất mà Thiên Chúa trao tặng con người, là chính Thiên Chúa, Chúa Con và Thánh Thần.

Được Thiên Chúa, được Thánh Thần, chúng ta được tất cả những điều khác.

Thiên Chúa nhân từ hơn con người tưởng

Cuộc “trao đổi” giữa Abraham và Thiên Chúa, làm người ta lầm tưởng Abraham nhân từ hơn Thiên Chúa. Thực ra đoạn Lời Chúa cho thấy Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, và Ngài sẵn sàng làm tất cả những gì Abraham nài xin. Abraham xin gì, Thiên Chúa cũng ban. Ngài sẵn sàng bớt từ 50, đến 40, 30, 20 và 10. Tại sao Abraham không rút xuống nữa? Có lẽ vì lòng nhân từ của con người “có hạn”, hay tại Abrahm chưa đủ lòng tin rằng Thiên Chúa nhân từ, chứ nếu Abraham có đủ can đảm và lòng tin xin rút xuống nữa, chắc chắn Thiên Chúa cũng ban cho.

Sôđôma, là mẫu gương để con người xa tránh tội lỗi. Thật không đúng nếu nói Thiên Chúa không thương những người ở Sodoma. Đức Yêsu nói: Sodoma còn được xét xử khoan dung hơn nhiều thành ở Israel (x. Mt.10, 15).

Hình ảnh của Abraham trong St.18, 20-32 rất đẹp. Lòng nhân từ và thương xót, làm con người trở nên xinh đẹp, vì điều đó làm con người giống Thiên Chúa hơn.

Chỉ cần mười người công chính, đủ để cứu cả thành. Chỉ cần là người công chính, là đã làm được bao nhiêu điều mà những người tài giỏi, quyền thế, giầu sang, không thể làm được. Ước gì mỗi người chúng ta đều có khao khát trở nên người công chính. Để với sự công chính Thiên Chúa ban, chúng ta có thể cứu được những người khác, chẳng hạn qua gương sáng đời sống đạo đức, chúng ta có thể giúp người khác trở lại, hoặc cố gắng vươn lên.

Thái độ của con người trước Thiên Chúa

Abraham xin với Thiên Chúa như một người “ăn xin”, ý thức những điều mình xin tuỳ thuộc Thiên Chúa đồng ý hay không. Con người tuy dù được Thiên Chúa yêu những tự bản chất chỉ là tạo vật, là hư không đối với Thiên Chúa. Con người đâu phải ngang bằng với Thiên Chúa mà đòi hỏi điều này điều kia. Thái độ khiêm tốn, chấp nhận những gì được ban như hiện tại, cảm tạ Thiên Chúa, là thái độ cần thiết của tạo vật trước Thiên Chúa.

Thiên Chúa không cần chúng ta nài xin, Ngài cũng ban những điều cần thiết cho chúng ta. Khi chúng ta thấy những gì cần cho chúng ta và nài xin Ngài, Ngài sẵn sàng ban để chúng ta nhận biết “Ngài là tình yêu” hơn nữa. Thiên Chúa đã ban Đức Yêsu cho chúng ta, nhờ Ngài chúng ta là tạo vật mới, và chúng ta được tất cả nhờ Đức Yêsu Kitô.

Đức Yêsu vì yêu thương đã coi chúng ta là bạn hữu với Ngài. Tuy dù được yêu thương, nhưng khi ngỏ lời với Thiên Chúa, Abraham rất kính cẩn. Đây cũng là bài học cho chúng ta, để mỗi khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta phải có thái độ như thế nào đối với Thiên Chúa.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Bạn có hay “xin” Thiên Chúa điều này điều kia không? Điều nào quan trọng nhất trong đời mà bạn đã xin? Bạn có được điều đó không? Xin chia sẻ nếu được.

2. Lời nào trong kinh Lạy Cha bạn thích nhất? Tại sao?

3. Có khi nào bạn cầu nguyện một điều rất chính đáng mà không được không? Bạn phản ứng ra sao với Thiên Chúa trong trường hợp đó? Phản ứng đó đúng hay sai? Tại sao?

 

53. Cầu nguyện – Lm. Bùi Quang Tuấn

Ví như xác không hồn là xác chết. Cũng thế, linh hồn không siêng năng cầu nguyện thì linh hồn cũng chẳng sống được. Thánh Gioan Kim Khẩu xác quyết như vậy. Thế nhưng đối với nhiều Kitô hữu, dường như cầu nguyện vẫn chưa là “hơi thở của linh hồn” theo ý nghĩa thường xuyên và cần thiết. Có lẽ vì bị chi phối bởi một tâm thức xem Chúa như “Ông thủ kho” và nỗi đợi chờ theo kiểu “mì ăn liền” nên cầu nguyện đã trở thành gánh nặng thiếu sức sống nơi nhiều tâm hồn tín hữu.

Không ít người sớm thất vọng vì nài nẵng hoài mà không được. Có người chán nản vì bị yếu tố thời gian chi phối quá mạnh. Cũng có người cảm thấy khô khan, thiếu hứng thú, mất thời giờ khi cầu nguyện. Những hoạt động hay tiếp xúc với thế giới hữu hình vẫn luôn là hấp dẫn hơn so với thế giới hữu hình. Thành thử đời cầu nguyện cứ càng ngày càng mờ phai. Nhưng dù sao, Lời Chúa vẫn luôn kêu mời: Hãy kiên trì cầu nguyện, đừng nhàm chán (Lc 18:1).

Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và tổ phụ Abraham đã nên như lời nhắc nhở và mẫu gương của đời sống nguyện cầu. Trong đời sống đó phải có kiên tâm bền chí, khiêm nhưỡng cậy trông, và mở lòng với tha nhân.

Vì muốn cứu hai thành phố đồi trụy Sôđôma và Gômôra, Abraham đã dám “mặc cả” với Chúa. Ông không khởi sự bằng việc xin đưa người lành ra khỏi thành trước khi lửa trời rơi xuống. Ông không dừng lại ở điểm công bình, nhưng đã đi xa hơn: vươn lên tới đức bác ái. Mục tiêu cầu khẩn của Abraham là cho người tội lỗi. Song, để cứu được người tội lỗi lại cần phải có người lành. Ông bắt đầu lý luận với Giavê: “Chẳng lẽ Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó hay sao?” Một loạt các câu hỏi được nêu ra đề rồi cuối cùng đúc kết bằng một lời thỉnh cầu: “Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ! Xin đừng làm thế!!”

Lời thỉnh cầu đó trở nên tha thiết, chân tình, và đầy lòng khiêm tốn: “Dù tôi chỉ là tro bụi, tôi cũng xin thưa cùng Chúa: nếu trong số năm mươi người công chính còn đó lại thiếu mất năm người thì sao?” Nhưng e rằng 45 người công chính cũng là một con số khó tìm, Abraham đã dịu dàng và kính cẩn thưa thêm: “Nếu chỉ có bốn mươi người thôi thì Chúa sẽ làm gì?” Tưởng rằng “quá tam bận”: mặc cả với Chúa ba lần rồi thôi. Đàng này Abraham còn bạo phổi nài nẵng Chúa đến ba lần nữa: “Lạy Chúa, nếu tôi lên tiếng, xin đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao?...Nếu trong thành tìm được hai mươi người thì sao?... Lạy Chúa, xin đừng nổi giận. Tôi chỉ xin thưa lần nầy nữa thôi. Nếu tìm được mười người công chính ở đó thôi thì sao?” Cuộc “mặc cả” đã đi từ con số 50 người lành, xuống đến 45, rồi 40, 30, 20, và cuối cùng là 10. Chỉ cần 10 người công chính thôi, tất cả sẽ được tha thứ. Tiếc là mười người mà cũng chẳng tìm ra!

Không hiểu sao Abraham không tiếp tục van xin Chúa thứ tha cho dân thành nếu như không tìm thấy được 10 người công chính. Phải chăng vì ông cho rằng đây là con số nhỏ quá rồi so với con số quá lớn của những người tội lỗi? Hay Abraham chưa hiểu thấu được chiều kích vô biên của lời cầu nguyện cũng như lòng thương xót bao la của Thiên Chúa?

Thật thế, Thiên Chúa luôn vui lòng lui bước trước lời nguyện cầu chân thành, bền bĩ, và đầy lòng kính sợ của con người. Chính Giavê đã phán trong sách Êzêkien và Giêrêmia: nếu chỉ tìm được ở Giêrusalem một người biết giữ công lý, biết tìm sự thật, thì Người cũng sẽ tha tội cho thành (Ex 22:30; Gr 5:1). Lời khẳng định này thúc dục ta cố gắng sống đời tốt lành để cầu xin và mang lại lợi ích thiêng liêng cho gia đình con cái, thân bằng quyến thuộc, và quê hương xứ sở.

Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho (Lc 11:9). Chắc hẳn lời đoan hứa của Chúa Giêsu đã làm các thánh vui sướng đến phát khóc. Nhưng đây không phải là lời đoan hứa dành riêng cho các thánh, mà là cho mọi người. Thiên Chúa yêu thương và muốn ban mọi sự tốt lành cho tất cả, không phải vì tất cả đều tốt, song vì tất cả là con cái của Ngài. Đức Giêsu đã mạc khải cho bạn và tôi như thế: các ngươi còn biết cho con mình những điều lành, huống chi là Cha các ngươi ở trên trời (Lc 11:13)

Được làm con Thiên Chúa, được gọi Đấng tác thành vũ trụ là Cha, đó là nhờ công nghiệp của Đức Giêsu và Thần khí của Ngài. Nhưng vấn đề không hệ tại ở đặc ân được kêu Thiên Chúa: “Abba, Lạy Cha,” song là làm sao để sống xứng hợp với hồng phúc cao cả đó.

Quan hệ Cha-con trở nên thân thiết nhờ sự cầu nguyện. Cầu nguyện là một cuộc đối thoại. Khác với độc thoại, đối thoại là nói và nghe. Vì thế, không phải chỉ đến với Chúa và “bắt” Ngài phải nghe tất cả những nhu cầu tôi liệt kê, song vẫn cần lắm một thái độ kính cẩn lắng nghe tiếng Chúa và sống theo ý Ngài.

Cầu nguyện không phải là để sở thích và đam mê của tôi được thỏa mãn, nhưng là để “danh Cha cả sáng và ý Cha thể hiện khắp nơi”. Đức Giêsu không nài cho được khỏi uống chén đắng, nhưng xin cho ý Cha thành sự. Đây là lối sống đầy tin tưởng, khiêm nhường, yêu mến và hoàn toàn phó thác của người con ngoan.

Là Kitô hữu, tôi được mời gọi để sống mỗi ngày mỗi nên giống Đức Kitô hơn: giống Ngài trong đời sống cầu nguyện, trong tinh thần và thái độ liên kết với tha nhân – không chỉ xin cho mình, nhưng là cho “chúng con” – và giống Ngài với trọn niềm tín thác vào tình thương của Cha, Đấng sẵn sàng ban Thánh Thần cho những ai khẩn cầu.

Lạy Chúa, xin cho chúng con được ơn bền đỗ cầu nguyện. Vì chúng con biết rằng hễ ai bền đỗ trong điều đó cho đến cùng, chắc chắn sẽ được ơn cứu độ. Xin Mẹ Maria phù giúp cho chúng con luôn được trung kiên trong cuộc chiến này

 

54. Tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật thứ XVII thường niên C, Phụng vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu. Bài đọc I (St 18, 20-32) là một minh họa đầy đủ ý nghĩa nhất. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã van nài Chúa, thậm trí mạc cả với Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính, Abraham đã tìm thấy tình thương của Thiên Chúa đối với con người bằng niềm tin. Tin Mừng Thánh Luca (Lc 11, 1-13) thuật lại cho chúng ta lời nguyện cầu chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa dạy các môn đệ: “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này: 'Lạy Cha...'“. Ngài mời gọi các môn đệ hướng về Cha, không phải Ngài dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ cầu nguyện trước hết phải đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha với trọn niềm tin vì: “Kẻ cô thân Thiên Chúa cho nhà cửa, chính Người ban tặng cho dân dũng lực uy quyền” (Ca nhập lễ).

Gương của tổ phụ Abraham

Từ cây sồi ở Mambrê Thiên Chúa đã tỏ ý định của Ngài cho Abraham biết (St 18,1), và Abraham đã tìm thấy tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã dám thưa cùng Thiên Chúa: “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao?” (St 18, 24-25) Và ông tiếp tục mặc cả với Thiên Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính. Vấn đề là Thiên Chúa không bao giờ muốn tiêu diệt thành Sôđôma. Quả thật, bản văn Thánh Kinh thuật lại những lời Chúa phán cùng Abraham: “Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ” (St 18, 20-21). Abraham sợ chứng kiến cảnh Thiên Chúa trừng phạt các thành Sôđôma và Gômôrrha. Với lòng thương dân sẵn có của Abraham, ông đã nguyện cầu, đến nỗi táo bạo can thiệp cả Thiên Chúa. Ông tin vào Thiên Chúa, nhưng giờ đây niềm tin đó đang bị thử thách, ông tự hỏi: Liệu Thiên Chúa có trung thành với lời Giao ước tình thương với dân Ngài không? Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, nếu nói rằng Abraham mặc cả với Chúa, không có sai, vì ông đã giảm giá dần, từ năm mười người xuống còn năm người. Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”. Abraham thấy các thành rơi vào cảnh bi đát, sắp bị Chúa tàn phá và ông tìm kiếm một con đường giải thoát cho hai thành. Ông kêu van, mặc cả nhưng không nói lộng ngôn phạm đến Chúa, Chúa lắng nghe, Ngài chú ý đến những kêu xin của ông.

Cầu nguyện như Đức Giêsu dạy

Niềm tin vào Thiên Chúa của Abraham bị thử thách, đó cũng là niềm tin của chúng ta nói chung. Vì nhiều khi chúng ta xin mãi mà không được, nên chán nản. Chúng ta cùng xem Đức Giêsu cầu nguyện thế nào và Ngài dạy các môn đệ cầu nguyện ra làm sao (x. Lc 11, 1-13).

Chuyện là khi các môn đệ Đức Giêsu chiêm ngắm Thầy cầu nguyện thì một trong số họ thưa rằng: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã đã dạy các môn đệ ông”. Đức Giêsu đáp ứng lời xin của môn đệ và Ngài dạy: “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này: 'Lạy cha...'“. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hướng về Cha, Ngài không dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ cầu nguyện. Cầu nguyện trước hết phải đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha. Bởi lịch sử cứu độ con người là một chuỗi dài tình phụ tử hỗ tương giữa Thiên Chúa với lòng hiếu thảo của con người. Thiên Chúa cất tiếng gọi con người đáp trả và con người tìm thấy lòng tốt hảo của Thiên Chúa là Cha. Con người khát khao Thiên Chúa gặp gỡ lòng trùi mến của Thiên Chúa đối với con người, con người được Chúa ban ơn.

Đức Giêsu dạy chúng ta thưa cùng Thiên Chúa “Lạy Cha” là Ngài đưa con người vào trong tương quan diện đối diện với Thiên Chúa. Ngài mời gọi chúng ta khiêm tốn và tin tưởng bước vào với tình con thảo. Tuy nhiên, lời cầu nguyện tạ ơn dài trong Thánh Vịnh “Lạy Chúa, con tạ ơn danh Chúa vì tình thương và chân lý”; “Nếu tôi đi giữa cảnh gian truân, Chúa giữ gìn tôi sống”; “Chúa ra tay phản đối quân thù tôi giận giữ”; “Chúa sẽ hoàn tất cho tôi những điều Ngài đã khởi sự! Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại đến muôn đời” (Tv 137, 1-8)... Cũng cách thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa. Nhưng, thánh vịnh gia còn phải đương đầu với quân thù và những cám dỗ đang rình rập, lúc mà hình như Thiên Chúa trung thành hoàn toàn vắng mặt.

Thiên Chúa luôn giữ lời hứa cứu độ, muôn đời không hề thay đổi. Vậy, tại sao ta lại nghi ngờ về tình phụ tử của Thiên Chúa đối với chúng ta? Đức Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng những lời nguyện cầu mà chúng ta dâng lên Chúa Cha sẽ luôn được nhận lời: “Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Ngài lưu ý chúng ta: “Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Ngài làm cho chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đấng không chỉ sẽ nhận lời mà còn trao ban cho chúng ta những điều tốt hơn điều chúng ta cầu xin.

Chúng ta đã chẳng đọc những lời của Đức Giêsu rằng, Đấng trao ban còn quí trọng hơn những gì là ân huệ Ngài trao ban sao? Chính Chúa, là kho tàng duy nhất và quí giá mà chúng ta nhận được trong lời cầu nguyện; Lời cầu nguyện dẫn chúng ta vào trong sự hiệp thông với Chúa, đặt mình trước mặt Chúa là Đấng ba lần Thánh và hiệp thông với Ngài. Cầu nguyện, là để Thiên Chúa đến ở với chúng ta và biến đổi chúng ta. Dần dà, chúng ta tìm thấy những gì tội lỗi đã làm hư mất. Và khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm cho mình trở lên trung gian của tình yêu Thiên Chúa giữa anh em.

Để trở nên môn đệ đích thực của Chúa, chúng ta không chỉ cầu nguyện trong tình con thảo mà lời cầu nguyện còn đưa chúng ta vào trong niềm tin hòa giải: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha, kẻ có nợ chúng con”.

Lấy lại những lời nguyện cầu của Đức Giêsu, chúng ta thưa: “Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Lúc đó, chúng ta sẽ thực sự trở nên môn đệ Đức Giêsu, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, và nên những sứ giả mang Lời thương xót của Chúa Cha muốn cứu độ người ta. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ