Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 55

Tổng truy cập: 1376977

LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI

LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI

(Suy niệm của Lm. Phaolô Nguyễn Nguyên)

Trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên. Chúng ta thấy, không có một tạo vật nào được giáo hội dành nhiều ưu ái cho bằng Mẹ Maria. Nói đến Mẹ, giáo hội luôn dành cho Mẹ muôn vàn tước hiệu, tước hiệu nào cũng cao quí, cũng đặc biệt. Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Mân côi. Sở dĩ có ngày lễ hôm nay vì có liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Và đúng như lời “xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời” đã ứng nghiệm, với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Để ghi ơn Đức Mẹ, ĐGH Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi. Tuy nhiên, ngày nay Giáo hội không kêu gọi chúng ta nhớ lại một biến cố xa xưa cho bằng mời gọi chúng ta khám phá ra vị trí của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và nhắc nhở về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống của người tín hữu kitô chúng ta.

Thật vậy, khi chương trình sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa bị tội lỗi con người làm cho đổ vỡ, thì nay Thiên Chúa thay thế bằng một chương trình mới, khởi đi từ một cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa thần sứ Gabriel với cô thôn nữ Maria. Như bao cô gái nhà quê khác, Maria cũng từng ấp ủ những mộng ước, những dự phóng thật bình thường cho đời mình. Nhưng Thiên Chúa đã xen vào, đã khuấy động đời cô và đã làm thay đổi tất cả. Với lời thưa “Xin vâng” thật đơn sơ cô đã trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, và trở nên người đầy ân phúc. Đầy ân phúc không chỉ vì Chúa đã chọn Mẹ, nhưng còn vì Mẹ đã luôn chọn đứng về phía Thiên Chúa, lấy Ý Chúa làm ý của mình, luôn cố gắng để cho chương trình của Ngài thành hiện thực. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Nhờ đó, Mẹ trở nên như mẫu gương, như người hướng dẫn và như sự nối kết những tâm hồn thành tâm kiếm tìm, lắng nghe và thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa.

Do đó, mừng lễ Mân Côi hôm nay, mỗi người trong chúng ta hướng nhìn lên Mẹ Maria, để noi theo Mẹ, chúng ta biết lắng nghe và tuân hành thánh ý Chúa, để như Mẹ, chúng ta vượt qua được những gian nan, thách đố, những lo âu, khắc khoải của dòng đời, để sống tốt lành thánh thiện, sống tươi vui và tử tế với nhau hơn. Muốn được như vậy, giáo hội mời gọi chúng ta hãy đến với Mẹ, hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi như là phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời.

Vì lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng lớn lao hơn. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, mà muốn có chiến thắng thì không thể xao lãng việc lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Cho nên, ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Ước gì mỗi người chúng ta hãy thử một lần để nhận ra được giá trị của kinh Mân côi, để khi gặp những khúc quanh, gánh nặng, khổ đau, những lúc mây mù giăng kín cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu xin Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử”. Amen.

 

52. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà

HỌC SỐNG KHIÊM NHƯỜNG VỚI CHÚA QUA KINH MÂN CÔI

Để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.

Trong những lần hiện ra, Mẹ Maria thường cầm tràng hạt trên tay. Khi hiện ra với ba trẻ ở Fatima, Mẹ còn lần hạt với ba trẻ tại đó. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng như nhiều vị giáo hoàng khác rất siêng năng lần hạt và kêu gọi tín hữu năm châu sốt sắng lần hạt hằng ngày. Như thế, Mẹ Maria cũng như Hội Thánh luôn khuyến khích chúng ta lần hạt vì Kinh Mân Côi là một phương thế giúp cho người ta nên thánh. Nhưng để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, thì chỉ đọc suông ngoài miệng không đủ, mà cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.

Giờ đây, chúng ta cùng chiêm ngắm lòng khiêm nhường sâu thẳm của Ngôi Hai Thiên Chúa qua Kinh Mân Côi. Gương khiêm nhường của Ngôi Hai Thiên Chúa nổi bật trong những phần suy gẫm sau đây: - Gẫm thứ nhất năm sự vui: Ngay khi Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng cao sang quyền phép đã chấp nhận hóa thân thành một phôi thai nhỏ, chỉ bằng hạt cát thôi, nằm trong tử cung của Mẹ Maria để chờ ngày được sinh ra làm người. Một Thiên Chúa cao sang là Chúa Tể trời đất mà lại hạ mình đến thế thì tôi là ai mà dám nhắc mình lên cao! - Gẫm thứ ba năm sự vui: Khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu trong hang đá, Thiên Chúa Ngôi Hai là Vua Trời đầy quyền uy phép tắc hiển trị trên các tầng trời đã chấp nhận chọn hang bò lừa làm nơi nương náu, chọn máng súc vật làm nôi để đến ở cùng nhân loại. Hạ mình và khiêm nhường như vậy là hết mức, không thể hạ mình sâu hơn được nữa. - Gẫm thứ nhất trong năm sự sáng: Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đan; Chúa Giêsu là Thiên Chúa hoàn toàn vô tội, ngàn trùng chí thánh, vậy mà Người chấp nhận hòa mình với những người tội lỗi bên bờ sông Gio-đan, xếp hàng đứng chung với những người tội lỗi, những tay đâm thuê chém mướn, những cô gái điếm, những gã côn đồ… để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, cúi mình xuống để cho Gioan làm phép rửa cho. Đấng không hề biết tội là gì lại khiêm nhường cúi mình nhận tội, còn tôi thì cứ cho mình vô tội và tìm mọi cách trút tội lên đầu người khác. - Và đặc biệt là trong năm sự thương, chúng ta thấy nổi lên hình ảnh Chúa Giêsu quá đỗi khiêm nhường khi Người tự xóa mình đi, trở thành tên tử tội, để cho người ta hành hạ Người đủ cách cho đến chết.

- Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Chúa tốt lành thánh thiện vô cùng nhưng lại bị đưa ra tòa xét xử như một tên gian phi, bị vu cáo, bị khạc nhổ vào mặt, bị đánh đòn tan nát thân mình mà vẫn khiêm nhường chịu đựng chẳng hé môi kêu trách hay phản kháng. - Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Thay vì đội mão triều thiên vinh hiển của các bậc vua chúa cao sang, Chúa Giêsu chịu đội vòng gai nhọn đâm sâu vào đầu, để cho người ta sỉ nhục nhạo cười mà không hận thù hay oán trách. Khiêm nhường hạ mình đến thế thật là hết mức. - Chúa Giêsu vác thập giá: Là Chúa Tể trời đất, lẽ ra Chúa Giêsu bắt mọi người quy phục mình, nhưng trái lại, trên chặng đường thương khó, Chúa để cho quân lính chế ngự Người, bắt Người vác thập giá lảo đảo tiến lên pháp trường theo lệnh truyền và những lời quát tháo của những tên lính hung hăng. Chúa Tể trời đất đã khiêm nhường chịu thua hết thảy mọi người và để mặc cho người ta hành hạ. - Chúa chết trên thập giá: Cuối cùng, tuy là Chúa Tể càn khôn, Chúa chịu để cho quân lính lột áo ra, đóng đinh tay chân Người vào thập giá và bị treo thân trên thập giá giữa hai tên đạo tặc, chia chung án chết với những kẻ côn đồ. Dù bị hành hạ đến mức nào đi nữa, Chúa Giêsu vẫn khiêm nhường chịu mọi nhục hình cho đến chết.

Kiêu ngạo là đầu mối, là nguồn mạch phát sinh nhiều tội lỗi, là một trong bảy mối tội đầu; còn khiêm nhường là nhân đức cao vời và là liều thuốc thần diệu cứu con người khỏi kiêu căng tự mãn. Ước chi mỗi lần đọc Kinh Mân Côi, chúng ta biết nhìn ngắm tấm gương khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giêsu, học sống khiêm nhường như Chúa để nhờ đó, chúng ta triệt bỏ được tính kiêu căng và làm cho đời sống mình trở nên cao đẹp và giống Chúa hơn.

 

53. Lễ Đức Mẹ Mân Côi – Antôn Lương Văn Liêm

“Vâng! Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói” (Lc 1,38)

Lễ Đức Mẹ Mân Côi hay còn gọi là Lễ Đức Mẹ Chiến Thắng. Thánh lễ được Đức Thánh Cha Piô V thiết lập để tạ ơn Chúa, tạ ơn Mẹ Maria đã giải thoát Giáo Hội bằng lời kinh Mân Côi, qua trận chiến oanh liệt nơi vịnh Lépante ngày 7-10-1571.

Mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi, ngoài việc ta cùng với toàn thể Giáo Hội dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã đồng hành, che chở dân Người ngang qua Đức Trinh Nữ Maria; ta đồng cảm tạ Mẹ Maria đã luôn yêu thương, luôn cất lên lời khẩn nài Thiên Chúa cho con cái mình vượt qua những phong ba bão táp của cuộc sống, như xưa Mẹ đã thực hiện nơi tiệc cưới Cana; ta nhắc nhở nhau thực hiện ba mệnh lệnh mà Mẹ đã trao, khi Mẹ đến với con cái mình nơi Thánh địa Fatima. Cuối cùng, ta hướng về Mẹ với tước hiệu “Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi”. Tước hiệu đã được chính Mẹ mặc khải cho ta vào ngày 13-10-1917 tại Fatima.

Qua những ý nghĩa trên, ta cũng được mời gọi chiêm ngắm Mẹ Maria với danh xưng thật kiêu hãnh. Đó là Mẹ Maria “Mẹ Chiến Thắng”. Vâng! Mẹ Maria chiến thắng không chỉ được biết đến qua biến cố lịch sử kiêu hùng nơi vịnh Lépante năm xưa. Nhưng, Mẹ đã được Chúa ban cho đặc ân chiến thắng. Trước tiên, đặc ân đó khởi đi từ lòng xót thương của Thiên Chúa, kế đến là qua đời sống đạo đức thánh thiện, đời sống khiêm nhu của Mẹ. Giờ ta lần giở Kinh Thánh để cùng nhau lược lại những gì đã từng xảy ra trong cuộc đời của Mẹ, giúp Mẹ trở thành “Mẹ Chiến Thắng”.

- Mẹ được Chúa ban cho đặc ân chiến thắng tội nguyên tổ. Tội mà mọi phàm nhân đều phải gánh lấy do hệ luỵ tội lỗi mà ông Adong và và Eva đã sai lầm gây nên nơi vườn Địa Đàng như trình thuật sách Sáng Thế đã miêu tả.

- Như bao thiếu nữ cùng trang lứa, Mẹ cũng có những ước mơ, dự tính, hoài bão cho bước đường tương lai. Theo lẽ thường, Mẹ cũng ước mơ trở thành cành hồng rực rỡ làm say lòng các bậc nam nhi. Nhưng, Mẹ đã chiến thắng khi Mẹ gạt những ước mơ, những dự tính đó sang một bên. Ngoài việc Mẹ phụ giúp song thân trong bổn phận của một người con, quỹ thời gian còn lại Mẹ dành cho Thiên Chúa qua việc cầu nguyện và học hỏi Kinh Thánh. (trích trong quyển Thần Đô Huyền Nhiệm)

- Bước vào tuổi thành thân, Mẹ đã được song thân gửi gắm cuộc đời cho một chàng trai tuấn tú, khôi ngô, đầy lòng đạo đức, đó là Thánh Cả Giuse. Mẹ rất vui, nhưng Mẹ đã chiến thắng khi Mẹ gác lại niềm vui riêng mình để cất lên hai tiếng “Xin Vâng”, từ bỏ ý riêng để thuận theo ý Chúa trong ngày Truyền Tin (x. Lc 1,26-38).

- Mẹ chiến thắng những lời dị nghị, những thắc mắc của dư luận xoay quanh việc Mẹ mang thai không theo cách của tự nhiên của con người. Vì chỉ một mình Mẹ biết sự thụ thai của mình là do Ý Chúa, qua quyền năng của Chúa Thánh Thần.

- Mẹ đã chiến thắng sự mệt nhọc của một người phụ nữ “bụng mang dạ chửa” thực thi việc bác ái qua việc Mẹ đi thăm viếng, săn sóc người chị em (x. Lc 1,39-59), cùng với người bạn đời lên đường về quê quán khai báo hộ khẩu theo luật truyền (x. Lc 2,1-5).

- Mẹ đã chiến thắng sự nghèo nàn, thiếu thốn, sự ruồng bỏ của người đời trong ngày Mẹ sinh hạ Đấng Cứu Thế (x. Lc 2,6-7). Mẹ chiến thắng sự sợ hãi, cái giá lạnh của trời đông qua việc Mẹ vội vã lên đường cùng với Thánh Cả Giuse đem con đi trốn (x. Mt 2,13-15).

- Mẹ chiến thắng sự cô quạnh, cô đơn khi Đức Giêsu từ giã Mẹ lên đường thi hành sứ vụ của Cha trên trời, khi Thánh Cả Giuse được Chúa gọi về trời.

- Mẹ chiến thắng những mệt nhọc của tuổi già, chiến thắng những gian lao vất vả để song hành với Con trên đường sứ vụ. Cuối cùng Mẹ chiến thắng những sợ hãi, những khinh khi, những lời đàm tiếu, những lời sỉ nhục khi Mẹ cất bước đi cùng Con yêu trên đường thập giá và kiên cường đứng dưới chân thập giá với Con yêu.

Bởi đâu Mẹ có sức mạnh chiến thắng tất cả những biến cố, những sự việc vui cũng như buồn xảy ra trong cuộc đời của Mẹ? Xin thưa, trước tiên là nhờ ơn Chúa. Vâng! Nhờ ơn Chúa, ơn đầu tiên mà Thiên Chúa ban tặng cho con cái mình là ơn tự do. Ngài cũng tôn trọng ơn tự do mà Ngài đã ban một cách tuyệt đối. Nhờ ơn tự do, con người muốn hoặc không muốn thực hiện tất cả những công việc lành thánh cũng như xấu xa. Nếu như ta chỉ dừng lại những gì mà Mẹ Maria đã thực hiện, đã trải nghiệm trong phạm trù ơn Chúa, thì Mẹ có công trạng gì, Mẹ có gì để ta học hỏi…!

Ngày Sứ thần truyền tin cho Mẹ, sau những giây phút bối rối, ngỡ ngàng trước lời Sứ thần chào: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28); sau những thắc mắc, đan xen nỗi lắng lo khi Sứ thần tiếp lời: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu…” (Lc 1,30-31), với ơn tự do Chúa ban, Mẹ có thể nhận lời và cũng có thể từ chối lời mời gọi cộng tác của Thiên Chúa qua Sứ thần. Gác lại ơn tự do, khiêm hạ nghe lời giải thích của Sứ thần, Mẹ đã cất tiếng trả lời. Tiếng trả lời ấy như một bản tình ca, như một hồi chuông tràn ngập niềm vui và hy vọng được vọng tới Thiên Đình, lan toả ra khắp cõi nhân gian. Ta hãy nghe Mẹ trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).

Vâng! Tiếng “Xin Vâng” của Mẹ Maria trong ngày Truyền Tin không chỉ làm đẹp lòng Thiên Chúa, khơi dòng chảy Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa xuống cõi trần. Tiếng “Xin Vâng” ấy là một bài học, là tấm gương cho ta trong hành trình sống Đức Tin, hành trình bước theo làm môn đệ của Đức Kitô.

Nhiều và rất nhiều lần trong đời ta cất lên tiếng xin vâng, xin vâng với cha mẹ, thầy cô, với anh chị, với người lãnh đạo, với bạn bè… Nhưng, đôi khi tiếng xin vâng của ta đan xen sự giả dối, đan xen những tiêu cực, xin vâng cho qua chuyện và xin vâng để có được tiếng khen của người đời, có được mối lợi nào đó… Riêng tiếng “Xin Vâng” của Mẹ Maria được cất lên với một tấm lòng đơn sơ và phó thác, lòng tin tưởng và cậy trông, “xin vâng” đồng nghĩa với việc Mẹ gánh lấy những hệ luỵ, khó khăn và cả khổ đau qua lời “xin vâng” ấy. Điều đặc biệt, Mẹ đặt cả cuộc đời vào bàn tay Quan Phòng của Thiên Chúa qua lời của Mẹ: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói”.

Xin Chúa cứ làm, xin Chúa cứ thực hiện, xin Chúa vẽ cuộc đời con theo như Thánh ý của Ngài. Bức tranh đời con đẹp, tốt là do nơi Ngài, phận con xin được thuận theo, xin được cộng tác với Ngài bằng khả năng nhỏ bé, bằng niềm tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa… Mẹ Maria đã chiến thắng khi thực hiện được điều đó trong cuộc đời của Mẹ. Đây chính là tấm gương, là những bài học cho ta trong từng ngày sống.

Trong đời sống cầu nguyện, ta thường xin với Chúa với Đức Mẹ ban cho ta ơn này, ơn nọ: mua may bán đắt, thành công trong công việc, học tập; ơn chữa lành thể xác, ơn cho con cái ngoan hiền, gia đình đầm ấm và tất cả những gì giúp ích cho ta nơi cuộc sống tạm bợ này. Nhiều khi ta còn vạch chương trình cho Thiên Chúa thực hiện khi ta cầu nguyện: “Lạy Chúa! Xin giúp con có việc làm, có đồng ra, đồng vô để con giúp xây nhà thờ, giúp cho người nghèo, để con trả nợ…”.

Thú thực, mấy khi ta xin Chúa và Đức Mẹ giúp ta vâng theo Thánh Ý, giúp ta nhận ra Thánh ý của Ngài để mau mắn thi hành. Chính đời sống Đức Tin, đời sống cầu nguyện đó không giúp ta chiến thắng, khó giúp ta đón nhận ân sủng của Thiên Chúa. Nếu không có ơn Chúa và sự cộng tác, cố gắng của ta, thì lẽ tất nhiên ta mãi là người thất bại. Thất bại trước những cám dỗ, thất bại trước những thử thách, gian truân trong cuộc sống, thất bại trên con đường trọn lành.

Mẹ Maria là tấm gương, là Người Mẹ, Người Thầy tuyệt vời nhất, luôn yêu thương ta. Mẹ sẽ giúp ta sống như Mẹ đã sống, với điều kiện ta năng chạy đến với Mẹ. Điều làm Mẹ vui lòng nhất, đó là ta dành thời gian học và lắng nghe tiếng Chúa nơi Tin Mừng, ta dành thời gian tâm sự với Mẹ qua tràng chuỗi Mân Côi, đặc biệt trong Tháng Mân Côi này. Mẹ Maria đã là người chiến thắng, ta tin chắc Mẹ sẽ giúp ta chiến thắng như Mẹ. Chiến thắng sự ươn lười của bản thân, chiến thắng những đam mê thấp hèn, chiến thắng những gian nan, thử thách luôn ở bên ta và với ta trên bước đường lữ hành.

Lạy Mẹ Maria! Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi, Nữ Vương Chiến Thắng, xin cầu cùng Chúa cho con bây giờ và mãi mãi; xin giúp con có được nghị lực để chiến thắng tất cả như Mẹ đã chiến thắng; xin giúp con noi gương Mẹ phó thác cuộc đời cho Thiên Chúa với tấm lòng đơn sơ, nhỏ bé. Amen.

 

54. Lễ Đức Mẹ Mân Côi – Lm. Ignatiô Hồ Thông

Trong ngày lễ kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi, Phụng Vụ Lời Chúa nêu bật Tình Mẫu Tử của Đức Maria. Chính ở nơi Tình Mẫu Tử của Đức Maria mà Chúa Cha đã trao phó “Con Một làm người” của Ngài cho Mẹ để Mẹ nuôi dưỡng và săn sóc. Và cũng chính nơi Tình Mẫu Tử nầy mà Đức Giêsu đã trao phó cho người mẹ tuyệt vời của Ngài ân cần săn sóc Thân Thể Mầu Nhiệm của Ngài, tức Giáo Hội mà Ngài đã mang nặng đẻ đau trên thập giá (Ga 19: 25-37).

Mỗi lần chúng ta lần tràng chuỗi Mân Côi là mỗi lần chúng ta chiêm ngắm Tình Mẫu Tử tuyệt vời nầy ở nơi niềm vui thầm lặng nhưng sâu thẩm của Mẹ khi đón nhận Người Con mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ (Năm Sự Vui), ở nơi sự kết hợp của tình Mẹ với Con trên con đường khổ nạn (Năm Sự Thương), và ở nơi niềm vui vỡ òa của Mẹ khi Mẹ gặp lại Con Mẹ phục sinh để từ nay sự sống đã chiến thắng sự chết, vận mệnh của con người đã sang trang (Năm Sự Mừng).

Cv 1: 12-14

Sau khi chứng kiến Đức Giêsu lên trời, các Tông Đồ theo lời căn dặn của Thầy trở về nhà ở Giê-ru-sa-lem: “Các ngài đã đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ và Đức Maria thân mẫu của Đức Giêsu”. Ngay từ những bước khởi đầu của Giáo Hội tiên khởi, Đức Maria đã ở bên và che chở Giáo Hội với trọn tấm lòng từ mẫu.

Gl 4: 4-7

Khi viết: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà”, thánh Phao-lô nhấn mạnh Con Thiên Chúa đã thực sự đảm nhận trọn vẹn thân phận con người. Lời nầy được đọc trong ánh sáng của Tin Mừng Truyền Tin hôm nay mặc khải rằng Con Thiên Chúa không sinh ra bởi bất kỳ một người đàn bà nào, nhưng là một người đàn bà được tuyển chọn, một Tình Mẫu Tử được viết hoa, kiệt tác của công trình sáng tạo người nữ.

Lc 1: 26-38

Tin Mừng là bài tường thuật biến cố Truyền Tin. Nơi Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Maria, Đền Thờ đẹp nhất, được Thiên Chúa sủng ái nhất.

BÀI ĐỌC I Cv 1: 12-14

Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ nầy được định vị trong bối cảnh các Tông Đồ, sau khi chứng kiến việc Đức Giêsu khuất dạng trong đám mây trời, liền trở về Giê-ru-sa-lem. Các ông tề tựu một nơi và chuyên tâm cầu nguyện trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến như lời căn dặn của Thầy mình trước khi từ giả các ông: “Phần Thầy, Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).

1. Trở về nhà, các ông lên lầu trên.

Căn phòng được định vị ở lầu trên. Lầu trên thường là căn phòng chính trong nhà Do thái, chắc hẳn đây là phòng Tiệc Ly, nơi các ông đã dùng bữa ăn cuối cùng với Đức Giêsu. Như vậy nơi mà Đức Giêsu cử hành thánh lễ đầu tiên với các ông trước khi Ngài bước vào con đường Tử Nạn, cũng là nơi các ông chờ đợi để đón nhận Chúa Thánh Thần, Đấng đưa các ông vào trong sự thật công trình cứu độ của Thầy mình.

2. Tất cả mười một Tông Đồ đều hiện diện ở đó:

Việc kể tên mười một Tông Đồ dâng hiến một nét đặc thù đáng chú ý. Trong các sách Tin Mừng, thánh Phê-rô và thánh An-rê được nêu tên trước tiên. Ở đây lại là thánh Phê-rô và thánh Gioan. Sách Công Vụ giới thiệu hai vị Tông Đồ nầy như hai trụ cột của Giáo Hội tiên khởi, thường xuyên hoạt động cùng nhau.

3. Chuyên tâm cầu nguyện:

“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện”. Thánh Lu-ca thường nhấn mạnh các tín hữu tiên khởi đồng tâm nhất trí và siêng năng cầu nguyện. Các Tông Đồ làm Tuần Cửu Nhật giữa biến cố Thăng Thiên và biến cố Hiện Xuống.

4. Mấy người phụ nữ, và Đức Maria, Thân Mẫu của Đức Giêsu:

Trong số những người phụ nữ tề tựu với các Tông Đồ, chỉ một mình Đức Mẹ được nêu tên, trong mối liên hệ với Đức Giêsu: “Đức Maria, Thân Mẫu của Đức Giêsu”. Đây là lần cuối cùng trong Tân Ước kể ra Đức Trinh Nữ. Sau biến cố nầy, Mẹ sẽ không còn xuất hiện nữa, người ta không còn nói gì về Mẹ. Sự hiện diện của Mẹ ở đây, giữa các Tông Đồ, là một dấu chỉ mang một tầm mức vĩ đại. Mẹ đã ban cho nhân loại thân thể hữu hình của Đức Kitô dưới quyền năng của Chúa Thánh Thần vào lúc Truyền Tin; Mẹ cũng có mặt ở đây vào lúc sinh hạ thân thể mầu nhiệm của Đức Giêsu, tức Giáo Hội, cũng dưới tác động của Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Hiện Xuống.

Chúng ta có thể phỏng đoán rằng những người phụ nữ ở bên cạnh Đức Maria cũng chính là những người phụ nữ đã ở bên cạnh Đức Mẹ gần bên Thập Giá. Sự hiện diện của những người phụ nữ nầy gợi nhớ hoạt cảnh trên thập giá ở đó Đức Giêsu đã trao gởi Giáo Hội của Ngài cho Mẹ Ngài làm Mẹ của Giáo Hội Ngài khi nói với Mẹ Ngài: “Thưa Bà, đây là con của Bà” và khi nói với người môn đệ Chúa yêu: “Đây là mẹ của con” (Ga 19: 26-27).

5. Anh em của Đức Giêsu.

Cùng có mặt với các Tông Đồ là “anh em” của Đức Giêsu, nghĩa là những anh em họ của Ngài. Ngôn ngữ Do thái cũng như ngôn ngữ Hy-lạp đều không có đặc ngữ để chỉ mức độ bà con thân thuộc nầy. Cựu Ước sử dụng cùng một từ “anh em” để chỉ mối liên hệ bà con họ hàng rộng lớn hơn: chú cháu (St 13: 8; 14: 14; 14: 16) hay bà con gần (G 19: 13-17) hoặc thậm chí bà con họ hàng xa (cf. Lv 10: 1). Trong Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô kể ra bốn người anh em họ của Đức Giêsu: ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn (Mc 6: 3).

Sự hiện diện của những bà con thân thuộc của Đức Giêsu ở phòng Tiệc Ly vào lúc nầy chứng thực thái độ của họ đã thay đổi đối với Đức Giêsu. Trước đây, thánh Gioan nói “Anh em Người không tin vào Người” (Ga 7: 5); thậm chí họ không hiểu chút gì về sứ mạng của Ngài và cố tìm cách ngăn cản Ngài thi hành sứ mạng của mình nữa (x. Mt 12: 46; Mc 3: 31-35; Lc 8: 19-21).

Họ thay đổi thái độ lúc nào? Các bản văn Tân Ước không cho chúng ta bất kỳ một thông tin nào. Chắc chắn họ sắp lãnh nhận Chúa Thánh Thần như các Tông Đồ và họ sẽ cho thấy niềm tin tích cực của họ. Thánh Gia-cô-bê hậu sẽ là vị lãnh tụ của Giáo Hội Giê-ru-sa-lem và được phúc tử đạo vào năm 62. Người kế vị thánh nhân, một ông Si-môn hay Si-mê-on nào đó, bị đóng đinh vào thời Trajan, cũng là bà con họ hàng của Chúa. Như vậy, những người bà con nghi kỵ xưa kia đều đã là những chứng nhân bằng máu.

BÀI ĐỌC II Gl 4: 4-7

Các Kitô hữu Ga-lát bị những người Kitô hữu gốc Do thái làm lung lạc. Những người Kitô hữu gốc Do thái nầy muốn đưa vào trong Kitô giáo những nghi thức Do thái được cho là luôn luôn có giá trị, như phép cắt bì. Vì thế, thánh Phao-lô chứng minh cho thấy Luật Cũ là sự nô lệ, Luật mới là sự tự do. Thánh nhân sánh ví Luật Mô-sê với thời kỳ người thừa kế “phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định” (Gl 4: 2). Tuy nhiên, vai trò của Luật là tạm thời. Với Đức Giêsu, kế hoạch của Thiên Chúa đã đến hồi viên mãn, chúng ta không còn phải sống dưới chế độ của Lề Luật nữa, nhưng trong sự tự do của những người làm con cái Thiên Chúa, mà đã là con thì cũng đã là người thừa kế.

1. Con Thiên Chúa làm con của loài người (4: 4-5)

“Khi thời gian đến hồi viên mãn”: thánh Phao-lô so sánh sự bảo hộ của lề luật (Gl 4: 2) với thời điểm khi Thiên Chúa can thiệp vào trong lịch sử để thực hiện công trình cứu độ qua Con của Ngài là Đức Giêsu. Sự tự do của con người đã đạt được nhờ Đức Kitô. “Thiên Chúa đã sai Con mình tới”: động từ “sai” phát triển trong Giáo Hội tiên khởi một nét nghĩa tôn giáo đặc thù: sai ai vào việc phục vụ Nước Trời là ban cho người đó đầy đủ uy quyền ở nơi Thiên Chúa. Ở đây cuộc sống tiền hữu của Chúa Con không được nói đến một cách minh nhiên, nhưng mặc nhiên. “Sinh làm con một người đàn bà”: động từ “sinh” được dùng ở thể quá khứ để chỉ một “tình trạng hay một hành động đã xảy ra trong quá khứ và hoàn tất trong quá khứ”, nhằm nhấn mạnh rằng Đức Giêsu đã đảm nhận trọn vẹn thân phận làm người cho sứ mạng của Ngài. Cách nói nầy bắt nguồn từ Cựu Ước (G 14: 1; 15: 14; 25: 4). Được sinh ra như vậy, Đức Giêsu chịu phục tòng lề luật “để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”.

2. Để con người trở thành con Thiên Chúa (4: 6-7).

“Để chứng thực anh em là con cái”. Giới từ “hoti” bắt đầu với câu này có thể hiểu theo hai cách: “vì” (kết quả) hay "nên" (nguyên nhân). Nếu chúng ta hiểu “vì anh em là con cái”, điều này sẽ là nền tảng cho việc Thiên Chúa sai Thánh Thần đến với người Kitô hữu một cách nhưng không. Tuy nhiên, Rm 8: 14-17 xem ra gợi ý rằng ân ban Thánh Thần cấu thành chức năng làm con cái Thiên Chúa của người Kitô hữu; vì thế nhiều nhà chú giải thích hiểu giới từ nầy theo nghĩa "nên anh em là con cái" ("để chứng thực…") hơn.

Thánh Thần của Con”: Thánh Thần cũng là đối tượng sứ mạng từ Chúa Cha; ở nơi khác, Thánh Thần chính là ân ban của Chúa Con Phục Sinh. Thánh Thần của Chúa Con Phục Sinh là một nguyên lý năng động của chức năng làm con Thiên Chúa. Nhờ Ngài, người Kitô hữu mới có thể gọi Thiên Chúa “Áp-ba, Cha ơi!” với trọn niềm xác tín. Không có Thánh Thần người Kitô hữu sẽ không thể thốt lên tiếng kêu đầy trìu mến thân thương nầy. Vì thế, thánh Phao-lô kết luận: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”.

TIN MỪNG Lc 1: 26-38.

Hoạt cảnh “truyền tin cho Đức Maria” nầy (1: 26-38) hình thành nên một bức tranh bộ đôi với hoạt cảnh “truyền tin cho ông Da-ca-ri-a” trước đó (1: 5-25). Nhờ kỷ thuật song đối nầy, thánh Lu-ca nêu bật hai thời kỳ: Cựu Ước và Tân Ước, hai nhân vật tinh hoa của hai thời kỳ: ông Da-ca-ri-a, vị tư tế ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, và Đức Maria, cô thôn nữ ở miền quê hẻo lánh làng Na-da-rét, và đặc biệt hai hài nhi của họ: Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu.

1. Khung cảnh truyền tin.

Câu mở đầu “Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng” đóng chức năng như nhịp cầu nối của hai hoạt cảnh truyền tin, chúng ta rời bỏ đền thờ Giê-ru-sa-lem, thành đô của Do thái giáo, thuộc miền Giu-đê được xem là thuần chủng và thấy mình ở trong một ngôi nhà dân giả, thuộc làng quê Na-da-rét nhỏ bé, khiêm hạ, của miền Ga-li-lê, được gọi “miền đất của dân ngoại”. Thay vì một đôi vợ chồng tư tế đã cao tuổi, biểu tượng của những truyền thống Ít-ra-en cổ kính và trung tín, bây giờ chúng ta gặp cô Maria, đã đính hôn với chàng Giu-se, hướng đến cuộc sống hôn nhân của mình.

Hoạt cảnh truyền tin trước đó đã xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi cực thánh nhất của việc Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài. Chính ở nơi cực thánh nầy mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tư tế Da-ca-ri-a, nhưng cốt để hướng đến một nơi khác còn thánh thiêng hơn, nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Ngài, đó là cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria.

Vì thế, ngay từ khởi đầu Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca cho chúng ta thấy có một sự hoán chuyển vai trò: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài sẽ được thay thế bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ, nơi Thiên Chúa chọn cho Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài.

2. Lời chào của sứ thần:

Sứ thần vào nhà và chào Đức Maria: “Hãy vui lên, hỡi bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”.

“Hãy vui lên” là cách thức chào hỏi thông thường của người Hy lạp, tuy nhiên, “Hãy vui lên” cũng thuộc về diễn ngữ của các ngôn sứ, đặc biệt trong viễn cảnh thời Mê-si-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với Ngươi” (Dcr 9: 9); hay: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on…Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi” (Xp3: 14-15). Niềm vui thời Mê-si-a nầy, chính là niềm vui mà “sứ thần Thiên Chúa” sẽ loan báo cho các mục đồng trong hoạt cảnh Giáng Sinh: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân…” (Lc 2: 10). Như vậy lời mời gọi “hãy vui lên” được ngỏ lời với Đức Maria là nhằm hướng lòng Đức Mẹ về thời đại Mê-si-a và chuẩn bị Đức Mẹ trước sứ điệp gây sửng sốt sau đó.

“Hỡi bà đầy ân sủng”. Đức Maria được gọi là người đầy ân sủng hay được Thiên Chúa yêu thương đặc biệt không chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giêsu, Con của Ngài. Suy tư thần học còn thấy ở đây lòng sủng ái đặc biệt mà Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ, “ơn vô nhiễm nguyên tội” (“được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, kể cả tội tông truyền”).

“Thiên Chúa ở cùng bà”. Lời nói trấn an nầy thường thường được gặp thấy trong Cựu Ước. Nó được ngỏ lời với những nhân vật run sợ và e ngại trước sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho họ, như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê như thế trong hoạt cảnh “bụi cây bốc cháy” (Xh 3: 12). Tổng quát hơn, xuyên suốt lịch sử, Đức Chúa lập lại lời nầy cho dân Ngài chọn. Lời nầy cũng chính là định nghĩa Giao Ước. Vào giây phút nầy, Đức Maria cô động mười tám thế kỷ của việc Thiên Chúa tuyển chọn ở nơi mình. Mẹ đưa vận mệnh của dân Chúa chọn vào vận mệnh của riêng Mẹ. Mẹ là “Thiếu Nữ Xi-on” tuyệt vời. Thiên Chúa ở với Mẹ.

3. Sứ điệp về Đức Giêsu.

Cũng như ông Da-ca-ri-a, nghe những lời chào ấy, Đức Maria hoảng sợ. Sứ thần trấn an Mẹ, đoạn xác định mặc khải của mình.

a. Mẹ của Đấng Kitô (Mê-si-a).

Tên của Hài Nhi, Giêsu, nghĩa là “Đức Chúa là Đấng Cứu Độ”. Ơn cứu độ được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa sẽ được thực hiện qua con trẻ của Đức Maria. Người sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao” hay “Con Thiên Chúa”. Tước hiệu “Con Thiên Chúa” xảy ra chỉ ba lần trong Cựu Ước, mỗi lần đều quy chiếu đến vị vua thuộc dòng dõi Đa-vít (2Sm 7: 14; Tv 2: 7; Tv 89: 27-28). Vì thế, cũng như bà Ê-li-sa-bét, Đức Maria sẽ được thụ thai và sinh hạ một con trai, tuy nhiên, con trẻ của Đức Maria là Đấng Mê-si-a, Đấng mà ở nơi Ngài lời hứa cho vua Đa-vít được thành tựu. Trong bối cảnh nầy, tước hiệu “Con Thiên Chúa” không có nghĩa nào khác hơn là một tước hiệu dành cho một hậu duệ của vua Đa-vít, nhưng tước hiệu nầy chuẩn bị mặc khải tiếp theo sau.

b. Mẹ của Con Thiên Chúa.

Một vấn đề được đặt ra mà Đức Maria đã thẳng thắng nêu lên: “Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng?”. Lời thắc mắc nầy cho thấy rằng Mẹ ý thức Lời Thiên Chúa mà sứ thần truyền đạt cho Mẹ được ứng nghiệm ngay từ bây giờ. Vì thế, Mẹ tin vào Lời Chúa nhưng Mẹ muốn niềm tin của mình được soi sáng. “Biết” là động từ kinh thánh được dùng để chỉ chuyện vợ chồng như “ông A-đam biết bà E-và. Bà đã thụ thai và sinh hạ…” (St 4: 1). Đức Maria chưa chung sống với vị hôn phu của mình. Vấn nạn Đức Maria nêu lên trùng khớp với bản văn của thánh Mát-thêu: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai…” (Mt 1: 18).

Vấn nạn nầy giúp sứ thần khai triển mặc khải của mình: “Thần Khí sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên bà, vì thế hài nhi sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa”. Sứ thần muốn Mẹ nhớ lại vai trò của Thần Khí theo Kinh Thánh: “Thần Khí là quyền năng Thiên Chúa ban sự sống”. Vào lúc bắt đầu công trình Tạo Dựng, “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1: 2). Qua đó, sứ thần ngầm loan báo một công trình tạo dựng mới mà Đức Maria được mời gọi dự phần vào.

Để Đức Maria có thể thấu hiểu rằng đây là công trình của Thiên Chúa chứ không là công trình của phàm nhân, sứ thần nói thêm: “Quyền năng Đấng Tối Cao phủ bóng trên bà”. Động từ “phủ bóng” là động từ Kinh Thánh, như xưa kia, trong hoang địa “đám mây phủ bóng trên Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40: 34). Thật ý nghĩa biết bao, cũng chính thánh Lu-ca sử dụng động từ nầy để mô tả biến cố Biến Hình: “Bỗng có một đám mây phủ bóng…và từ đám mây có tiếng nói rằng: Đây là Con Ta…” (Lc 9: 34). Do đó, sứ thần khẳng định: “Vì thế Hài Nhi sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa”. Ở đây, sứ thần xác định rõ ràng hơn mặc khải của mình:“Con Thiên Chúa” không là một tước hiệu được dành cho Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít, nhưng là chân tính thần linh của Hài Nhi, Con của Đức Maria.

4. Sứ điệp về Đức Maria.

Đức Maria không xin dấu lạ. Chính sứ thần tự mình đề nghị ban cho Mẹ một dấu lạ: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đã thụ thai: một người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, điều mà về phương diện con người không thể được. Vì thế, sứ thần chấm dứt bởi cùng những lời mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với tổ phụ Áp-ra-ham, trước sự ngạc nhiên của ông, vì vợ ông, bà lão Sa-ra có thể sinh cho ông một cậu con trai: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (St 18: 14).

Đây là một trong số những chủ đề xuyên suốt Tin Mừng và sách Công Vụ: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Trong hoạt cảnh trước đó, dù bà Ê-li-sa-bét son sẽ, cũng không thể ngăn cản mục đích của Thiên Chúa. Cũng như vậy đối với bà Sa-ra (St 11: 30), bà Rê-bê-ca (St 25: 21), bà Ra-ken (St 29: 31) và mẹ của ông Sam-son (Tl 13: 2). Với Đức Maria, Mẹ của Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, chúng ta gặp thấy điều gì đó thậm chí còn kỳ diệu hơn nữa. Chính Thánh Thần Thiên Chúa thực hiện một công trình sáng tạo mới nơi cung lòng của Đức Nữ Trinh.

“Phủ bóng trên bà” nhắc lại Lều Hội Ngộ, nơi vinh quang Thiên Chúa cư ngụ ở giữa dân Ngài. Đức Maria được vây phủ bởi vinh quang rạng ngời của Ngài, và Thần khí của tình yêu Thiên Chúa thổi hơi sự sống vào trong cung lòng Mẹ. Sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Maria và lời đáp trả tròn đầy của Mẹ. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện nầy mà hài nhi được thụ thai trong cung lòng Mẹ.

Không có gì có thể ngăn cản #kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể nào bị ép buộc được. Thiên Chúa trao ban cho Mẹ tình yêu đặc biệt của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi ở nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Đức Ma-ria tự nhận mình là “nữ tì của Thiên Chúa”. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu nầy với lời“Xin Vâng” tròn đầy: "Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền". Chính vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện dự định yêu thương của Ngài cho nhân loại.

Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến với nhân loại là con người của Đức Maria, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần, Đấng phủ bóng trên Mẹ. Vì thế, cung lòng của Đức Nữ Trinh là Lều Hội Ngộ, là Đền Thờ đẹp nhất, là nơi cực thánh của Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.

 

home Mục lục Lưu trữ