Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 29

Tổng truy cập: 1376698

LỜI KINH MÂN CÔI

LỜI KINH MÂN CÔI

Ngày 10.3.1615 tại Glascow, một vị thừa sai nổi tiếng, đó là cha Ogilive bị hành quyết vì tội rao giảng Phúc Âm. Trong giây phút cuối cùng đứng trên đoạn đầu đài, nhìn thấy hàng ngàn người đến xem, ngài muốn để lại cho họ một kỷ niệm, nên đã lấy cỗ tràng hạt của mình mà ném vào đám đông. Xâu chuỗi rơi trúng một ông hoàng nước Hung Gia Lợi đang trên đường du học và đã có một đời sống không mấy tốt đẹp. Ông hoàng này đã thực sự xúc động khi nhận lấy xâu chuỗi, và cũng nhờ xâu chuỗi, ông đã từ bỏ được nếp sống tội lỗi, trở nên một người đạo đức và yêu mến kinh Mân Côi.

Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nhớ lại những mệnh lệnh của Mẹ tại Fatima. Đúng thế, vào năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima với 3 em nhỏ. Và qua 3 em nhỏ Mẹ đã truyền dạy chúng ta: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy mệnh lệnh thứ ba bao gồm cả hai mệnh lệnh trên. Bởi vì nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến đối với Mẹ, đồng thời nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc cải thiện đời sống để mỗi ngày một trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã gọi kinh Mân Côi là hơi thở của mọi tâm hồn, là bông hồng thiêng liêng dâng kính Mẹ, là việc đạo đức thích hợp cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Và riêng chúng ta, nếu ngay từ bây giờ chúng ta siêng năng lần hạt, thì phần rỗi của chúng ta sẽ được bảo đảm chắc chắn như lời Mẹ đã nói về cậu bé Phanxicô tại Fatima như sau: Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.

Để kết thúc phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại một mẩu chuyện: Có một người nhà quê không biết chữ xin vào tu bậc trợ sĩ trong một nhà dòng. Được ít lâu, ông buồn phiền chán nản vì thấy mình không biết đọc sách để được hát kinh nhật tụng với mọi người. Ông cũng cố học nhưng vì đã có tuổi, nên học trước quên sau, chẳng chữ nào ra chữ nào. Sau một thời gian miệt mài, ông thấy rõ là mình bất lực nên bỏ học và chuyên tâm lần hạt. Ông thường xuyên phàn nàn với Đức Mẹ: “Vi không biết chữ, nên con chẳng ngợi khen Mẹ được nhiều hơn. Con không biết đọc sách nguyện như các thầy khác, thì Mẹ ráng chịu vậy”. Không chịu thua lòng đơn sơ thành thật của ông, Đức Mẹ đã hiện ra sáng láng đẹp đẽ với một chiếc áo choàng lộng lẫy, nhưng mới thêu được một nửa bằng những chữ vàng óng ánh: Kính mừng Maria... Ông đơn sơ hỏi: “Sao Mẹ mặc áo đẹp mà lại thêu dở dang như vậy?” Mẹ trả lời: “Đây là những kinh Kính Mừng con đọc hằng ngày để dâng kính Mẹ. Vì con mới đọc được có bằng ấy kinh, nên áo Mẹ còn dang dở như thế. Vậy con hãy cố đọc nhiều hơn nữa để chóng thêu xong tấm áo cho Mẹ. Khi nào xong, Mẹ sẽ đến để choàng cho con và dẫn con vào Nước Trời”. Nói xong Mẹ biến đi, để thầy dòng không biết chữ ở lại ngây ngất với những kinh Kính Mừng đã đọc.

Từ đó, chúng ta hãy thực hiện lệnh truyền của Mẹ bằng cách siêng năng lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, để dâng lên cho Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, xin Mẹ sẽ nâng đở và phù trợ chúng ta luôn mãi.

 

42. Hiệu quả của Kinh Mân Côi

Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi xin trình bày về những ơn lành mà chuỗi Mân côi đã đem đến cho nhân loại.

Trường hợp thứ nhất đó là vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp, thế nhưng với chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.

Trường hợp thứ hai đó là vào thế kỷ 16 ảnh hưởng của Tin lành trở nên mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Nhưng dân thành Luxembourg vẫn nhất quyết trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, thì một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Và như thế nhờ kinh Mân côi dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và sự trung thành với Giáo Hội.

Trường hợp thứ ba đó là vào thế kỷ 16, quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa và xâm chiếm Âu Châu, nhưng nhờ kinh Mân côi, đoàn chiến binh Công giáo, tuy ô hợp, nhưng cũng đã dành được chiến thắng tại Lépante. Chính vì thế, để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô 5 đã thiết lập lễ Mân côi hôm nay.

Trường hợp thứ tư, đó là vào thế kỷ 20. Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi, để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Và Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.

Cũng từ đó những sự đổi mới đã xảy ra. Tinh thần đạo đức thấm nhiễm vào các tổ chức xã hội. Ơn kêu gọi gia tăng, các tạp chí Công giáo phát triển và Giáo Hội bừng sống sau một thế kỷ tàn lụi. Chính các Đức giám mục Bồ Đào Nha, trong một bức thư chung đã xác quyết: Sở dĩ Bồ Đào Nha đã thay đổi tốt đẹp là do những lần Mẹ hiện ra tại Fatima và kinh Mân côi.

Nhìn vào hiện tại chúng ta thấy thế giới cũng đang trải qua những biến động và xáo trộn về kinh tế, chính trị và nhất là về tôn giáo. Mặc dù không có những cuộc bách hại gay gắt, mặc dù không có ảnh hưởng của các bè rối, nhưng có một đe dọa khác tệ hại hơn, đó là những học thuyết, những trào lưu tư tưởng, những thể chế chính trị chối bỏ Thiên Chúa, đả phá tôn giáo mỗi ngày một bành trướng, khiến cho một số người không nhỏ xa lìa đức tin. Để nhân loại được hòa bình, để thế giới được an vui, để Giáo Hội được phát triển, chúng ta không có một phương pháp nào hơn là phương pháp mà Mẹ đã truyền dạy, đó là hãy siêng năng chăm chỉ lần hạt Mân côi.

 

43. Kinh Mân Côi và Phúc Âm

(Lc 11,15-26)

Kinh Mân Côi là một việc đạo đức xuất phát từ Phúc Âm. Đúng thế, trước hết là những lời kinh chúng ta đọc. Kinh lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh chính Chúa đã truyền dạy cho các môn đệ.

Còn kinh kính mừng là gì nếu không phải là lời chào của sứ thần Gabriel và của bà Elisabeth, đã được Phúc Âm ghi lại. Nhưng điều quan trọng hơn là những mầu nhiệm chúng ta suy gẫm, tóm lược toàn bộ Tin Mừng và cuộc đời của Chúa.

Có một thời người ta đã không lần hạt như ngày nay, thay vì 15 mầu nhiệm, người ta đã suy gẫm tới 150 mầu nhiệm, nghĩa là mỗi kinh kính mừng tượng trưng cho một mầu nhiệm, từ khi sứ thần Gabriel truyền tin cho đến ngày vinh quang của Mẹ Maria, cũng như cho đến ngày tận thế. Chắc hẳn như vậy cũng khí thái quá, làm cho kinh Mân Côi trở nên phức tạp và dài dòng.

Ngày nay chúng ta qui tụ lại thành 15 ngắm, tượng trưng cho 15 mầu nhiệm, 15 biến cố chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu và chúng ta có thể xác quyết: Kinh Mân Côi chính là một bản tóm lược Tin Mừng và cuộc đời của Chúa. Hay nói cách khác, đó chính là lịch sử ơn cứu độ được Thiên Chúa ươm mơ và thực hiện trong dòng thời gian. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi sẽ dẫn chúng ta đến với Tin Mừng, vì vậy kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trợt trạt ngoài miệng, nhưng còn là một lời kinh để cho chúng ta suy gẫm, nhiều người hẳn đã rùng mình khiếp sợ. Nhưng thực sự đây là một việc làm hết sức đơn giản và dễ dàng. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến những mầu nhiệm, mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Dĩ nhiên không đòi buộc chúng ta phải suy nghĩ từng chữ hay từng lời chúng ta đọc, mà chỉ cần tưởng nhớ đến những sự kiện mà mỗi ngắm đã gợi lên. Cũng không cần phải dừng lại lâu giờ nơi mỗi ngắm, vì đây không phải là một giờ nguyện ngắm, một giờ suy niệm theo đúng nghĩa của nó.

Tôi xin đưa ra một vài thí dụ, chẳng hạn chúng ta chỉ cần mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thập giá, lần từng bước tiến lên đỉnh đồi Canvê, đồng thời chúng ta hãy nghĩ tới thập giá cuộc đời chúng ta là những hy sinh, những gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Và như vậy cũng đã đủ lắm rồi.

Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, xét đoán dựa vào những kết quả đã thu lượm được. Trái lại, Ngài là một người Cha nhân từ, Ngài chỉ cần nhìn thấy thiện chí và sự cố gắng của mỗi người chúng ta. Như vậy không có nghĩa là bảo chúng ta không cần tiến tới sự trọn lành và thánh thiện.

Sau cùng, kinh Mân Côi còn là một lời kinh thích hợp với thời đại chúng ta. Trong đời sống không ai trong chúng ta lại chán cơm. Nếu chúng ta chán cơm thì đó là dấu chỉ chúng ta đau yếu hay sắp chết. Cũng vậy, trong đời sống siêu nhiên, chúng ta không ngừng lập lại lời kinh Lạy Cha và kinh kính mừng để lấy lại sức sống cho tâm hồn.

Bởi đó, hãy siêng năng lần chuỗi để nhờ đó chúng ta có đủ sức chịu đựng những khổ đau và thắng vượt được những cám dỗ trong cuộc sống.

 

44. Kính Mừng Maria Đầy Ơn Phúc

(Suy niệm của Lm Px. Đào Trung Hiệu)

Kính mừng Maria đầy ơn phúc...

Lời kinh kính mừng ấy, tôi đã thuộc từ thuở mới lên năm. Nhưng ngày qua ngày, tôi có nhiều cảm nghiệm mới khác nhau về kinh Mân Côi. Nay nhìn lại, tôi cảm thấy mình trải qua một quá trình sống các mầu nhiệm Mân côi trong đời.

Từ lời cầu nguyện đơn giản...

Xin cảm ơn Mẹ Giáo hội, vì ngay từ thuở ấy, khi chưa biết chữ để đọc thánh vịnh, khi chưa biết dâng những lời nguyện tự phát, thì nhờ kinh Mân Côi tôi đã có thể tích cực tham gia cầu nguyện với cộng đoàn.

Kinh Mân Côi với tôi khi đó, như những lời cầu khẩn, vì tôi quan tâm hơn đến vế thứ hai của kinh: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con...”. Khi chúc tụng Mẹ Maria như một Vị trung gian thần thế, tôi thân thưa với Mẹ những nhu cầu của tôi, và gửi gắm cho Mẹ những người tôi thân yêu.

Và thông qua lời gợi ý mỗi mầu nhiệm trong mẫu kinh Mân Côi tiếng Việt, tôi xin cho mình các nhân đức liên hệ. “Ta hãy xin cho được” lòng khiêm nhường, được biết yêu người, biết sống khó nghèo, biết tuân theo Ý Cha, và biết giữ nghĩa cùng Chúa... Xin cho biết sám hối thật lòng, biết kiên nhẫn và hi sinh vác thập giá theo chân Chúa... Xin được sống lại với Chúa, biết ái mộ những sự trên trời để sống yêu thương, trên hành trình theo Mẹ về Thiên quốc. Đôi khi trong lúc đọc kinh như vậy, tôi có những quyết tâm thể hiện các đức tính ấy bằng một hành vi cụ thể.

Qua những nỗ lực suy niệm...

Dần dà lớn lên, được tiếp cận với Phúc Âm và các sách suy niệm kinh Mân Côi, tôi đã trải qua một giai đoạn mới, với khả năng giới hạn của mình để “suy niệm và ghi nhớ trong lòng” những ý tưởng và tâm tình đa dạng chung quanh từng mầu nhiệm.

Đến lúc này tôi hiểu ra Đức Kitô mới là nhân vật trung tâm của 15 mầu nhiệm Mân Côi. Vâng, chính ngài thể hiện thánh ý Chúa Cha trong công cuộc cứu độ: đã hoàn toàn trở nên người phàm, đã ban ơn cứu độ cho Gioan Tẩy Giả và là hiến lễ dâng trong đền thờ.

Cũng chính ngài, Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian, đã tình nguyện uống trọn chén đắng Cha trao, đón nhận mọi nhục hình và được giương cao trên thập giá để “kéo mọi sự lên với Người” (Ga 12,32). Chính Ngài là “sự sống lại và là sự sống” (Xc Ga 11,25) để những ai tin vào ngài sẽ được sống, Ngài về trời để dọn chỗ cho chúng ta (Ga 14,2), và cử Thánh Thần đến để đưa các chúng ta vào chân lý toàn vẹn (Ga 16,13). Chính ngài ngự bên hữu Chúa Cha để ân thưởng cho tất cả những ai thuộc về ngài.

Và trong hành trình cứu độ của đức Kitô, không chỉ có đức Maria, tôi đã gặp nhiều nhân vật khác, bình thường hơn, gần gũi hơn, nên dễ rút ra nhiều mẫu gương cho những ai muốn theo Chúa.

+ Khi đó tôi chiêm ngắm Gabriel kẻ loan báo tin vui, tìm gặp niềm hân hoan của bà Elisabeth, sống những tâm tình của ba vua, của các mục đồng, của các cụ Siméon và Anna tại đền thờ...

+ Trên bước đường Chúa đi rao giảng, tôi ước ao được thành Gioan tiền hô, là gia nhân trong tiệc cưới Cana, lẩn vào đám đông nghe tiếng Chúa, chiêm ngưỡng Ngài trên núi cao, hay được đồng bàn với Thày...

+ Trong cuộc khổ nạn, tôi có dịp suy niệm về những yếu đuối của những người theo Chúa, của Giuđa, của Phêrô, về thái độ trốn tránh trách nhiệm của Philatô hay bóng dáng kiên cường của Đức Maria dưới chân Thập Giá...

+ Tôi cũng có dịp để chung chia niềm vui của Mađalêna và 11 tông đồ khi Chúa sống lại, được nghe lời Đức Giêsu căn dặn trước khi lên trời, sai đi làm chứng tá cho Ngài đến tận cùng trái đất; được quây quần bên đức Maria trong ngày Ngũ tuần, và đồng hành với Mẹ trong cuộc lữ hành đức tin của Giáo hội hôm nay.

Đến lời nguyện cầu cho một thế giới mới

Càng ngày tôi càng hiểu hơn về tính hiện sinh của Tin Mừng. Đức Giêsu vẫn là một: hôm qua, hôm nay và mãi đến muôn đời. Kinh Mân Côi tạo nên cho chúng tôi một không gian cần thiết giúp chúng tôi chiêm niệm chân dung Đức Kitô vẫn đang hiện diện trong cuộc đời. Từ đó, tôi hiểu ra tại sao: Đức Gioan XXIII thường dành từng “chục kinh” trong chuỗi năm mươi, để cầu nguyện cho một trong năm lục địa trên địa cầu.

Và thế là mỗi chục kinh, tôi cầu nguyện đặc biệt cho một giới nào đó trong xã hội. Chẳng hạn

Mùa vui, cầu nguyện: 1. cho lương dân được đón nhận tin mừng khi suy niệm về lễ truyền tin; 2. cho các bà mẹ qua biến cố thăm viếng; 3. cho tuổi thơ qua biến cố giáng sinh, 4. cho người già khi suy niệm về hai cụ Simêon, Anna, và 5. cho các nhà giáo dục...

Mùa sáng, cầu nguyện cho: 1. những người đấu tranh cho công lý, 2. những gia đình gặp thử thách, 3. cho việc rao giảng tin mừng, 4. Xin ơn biến đổi canh tân mỗi ngày, và 5. được hiệp thông vào sự sống của Chúa.

Mùa thương, cầu nguyện cho 1. những người khô khan, 2. các tội nhân, 3. những nhà lãnh đạo, 4. những ai đang đau khổ, và 5. cho các linh mục.

Và mùa mừng, cầu nguyện: 1. cho các anh em vô thần, 2. cho Giáo hội, 3. cho các tu sĩ. Trong hai biến cố liên quan đến việc vinh thăng của đức Maria, tôi cầu nguyện cho 4. sự tiến bộ của nhân loại và 5. cho hòa bình thế giới.

Cho ý Cha được thể hiện

Cho đến một ngày, tôi bỗng như gặp được một luồng sáng mới, để thấy được rằng điều cần phải có khi đọc kinh Mân Côi, quan trọng hơn mọi suy niệm và ý nguyện, chính là một thái độ “xin vâng” của đức Maria và tâm tình tụng ca Tình yêu của Thiên Chúa qua công cuộc cứu độ.

Vâng đúng vậy, nếu Đức Maria, là đại diện của nhân loại mới để đón nhận lời chúc tụng “đầy ơn sủng”, để trở thành cung điện đầu tiên cho Ngôi Lời mặc lấy xác phàm và “ở cùng” nhân loại, thì lời kinh kính mừng hôm nay, vẫn mãi là lời chúc tụng Thiên Chúa vẫn đang ở cùng nhân loại “mọi ngày cho đến tận thế”, và là lời tán tụng ân sủng Chúa trong cuộc đời qua đức Kitô, đã được ban “dồi dào hơn biết mấy” (Rm 5,15).

Nếu nhân loại lầm than vì sự bất tuân của Adam, thì nay nhân loại mới được khai sinh nhờ Adam mới là đức Giêsu, đấng “hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2, 8). Cũng thế, nếu Eva là biểu tượng của bất tuân, thì lời Ave gửi đến Đức Maria, Đấng đã thưa “xin vâng”, sẽ là biểu tượng của những người Tin trong Tân ước. Đó là ý nghĩa của hai câu thánh thi quen thuộc được giáo hội sử dụng trong phụng vụ kinh chiều lễ kính Đức Mẹ:

“Chữ E-va Mẹ đảo vần,

Thành A-ve gửi bình an cho đời”.

Từ nay, lời kinh kính mừng “Ave Maria”, trở thành lời kinh của cả nhân loại và của từng con người, được cất lên từ cuộc sống hằng ngày của mình. Cùng với đức Maria, nhân loại đó đang hân hoan vì nhận ra tình thương cứu độ, vì khám phá ra lối thoát khỏi những nỗi tuyệt vọng để dám sống những mối phúc thật được công bố trong bài giảng trên núi.

Tâm tình “xin vâng” ấy sẽ thâu tóm tất cả mọi ý nguyện trong lời cầu xin cho “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Tâm tình ấy sẽ đem đến cho người tín hữu nguồn sinh lực mới để cùng với đức Maria bước đến tận bên chân khổ giá, để đón nhận mọi nỗi vui buồn, âu lo và hi vọng của con người thời đại. Lời kinh ấy trở thành lời kinh của những người tin tưởng, hy vọng và yêu mến, để đảm nhận những trách vụ theo ơn gọi của mình góp phần dựng xây đất mới đang khi mong chờ trời mới.

_________

NB. Bài này viết đã lâu,

nay được bổ sung thêm vài dòng về Mùa Sáng

 

45. Chuỗi Mân Côi và Thánh Đaminh - Robert Feeney

Bà Jane ở Aza thánh thiện đến nỗi chiếu sáng như những vì sao trên bầu trời ban đêm. Bà sinh năm 1140, sống ở một lâu đài tại Tây Ban Nha với chồng là Felix, một người được kính trọng với chức hiệp sĩ. Bà là một phụ nữ hay thương người, đầy lòng trắc ẩn với những người kém may mắn, và giúp đỡ vật chất cho người nghèo.

Bà Jane có 2 con trai là Mannes và Anthony, nhưng bà muốn con thêm nhiều con. Một hôm, bà tới tu viện Silos để cầu xin có thêm một con trai nữa, xin Dòng Silos cầu nguyện giúp bà. Một tu sĩ Dòng Đa Minh nói: “Này chị, lời cầu của chị đã được nghe và Thiên Chúa sẽ ban cho chị một người con trai. Người con đó sẽ là tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa và có thể làm nhiều điều phi thường cho Chúa Kitô và Giáo hội”.

Khi tạ ơn, bà Jane đặt tên cho con trai là Dominic (Đa Minh).

Trước khi sinh con, bà Jane đã có giấc mơ tiên tri linh cảm việc giảng thuyết mà thánh Đa Minh, trong hình con chó trắng đen, chạy đi với ngọn đuốc sáng ngậm ở miệng, thắp sáng khắp thế giới. Bà Jane sinh bé trai Đa Minh tại Calaroga, thuộc Old Castile, năm 1170. Khi Đa Minh được rửa tội tại nhà thờ xứ, mẹ đỡ đầu của ngài cũng thấy ánh sáng chói lọi, nhìn như ngôi sao, trên lông mày của bé Đa Minh. Lúc đó Đa Minh được tiền định là một luồng sáng, một người sẽ soi sáng những người ở trong bóng tối.

Thánh Đa Minh được trông mong nhiều, nhưng ngài không làm thất vọng. Ngài là một thanh niên thông minh, vui vẻ, có chiều cao trung bình, điển trai, diện mạo khá hồng hào, có tiếng nói ấm và vang. Ngài thừa hưởng ở người mẹ lòng súng kính Đức Mẹ, biết giá trị của việc kết hợp việc cầu nguyện bằng lời và bằng tâm linh, nghe biết những câu chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu mà ngài biết đó là những mầu nhiệm, và ngài sẽ rao giảng.

Thánh Đa Minh tận hiến cho Thiên Chúa, trở thành linh mục và phục vụ 9 năm ở Osma, sống theo tu luật thánh Augustinô. Có lòng trắc ẩn trước nỗi đau khổ của người khác, ngài cầu nguyện và khóc thương những người tội lỗi và những người đau khổ. Ngài được nhiều người yêu mến và kính trọng.

Năm 1203, lúc 33 tuổi, ngài rời Osma đi thành phố Fanjeaux thuộc vùng Languedoc, miền Nam Pháp quốc, tại đây ngài giảng đạo gần 13 năm. Trong những hành trình tông đồ, ngài thường dừng lại để cầu nguyện ở Nguyện đường Maria ở Prouille, một làng nhỏ nằm giữa Fanjeaux và Montreal, không xa núi Pyrenees.

Công việc của ngài không hề dễ dàng. Lúc đó, Pháp quốc bị tà thuyết An-bi-gen đe dọa. Những người theo tà thuyết này cho rằng sự sống trên trái đất là công việc của ma quỷ. Niềm tin này sản sinh một nền văn hóa sự chết khủng khiếp. Những người theo tà thuyết này từ bỏ tính thánh thiện của hôn nhân và sự sinh sản con cái. Việc tự tử được khen ngợi vì nó chấm dứt vấn đề hiện hữu. Những người theo tà thuyết này hoàn toàn bác bỏ các giáo huấn của Giáo hội, kể cả mầu nhiệm Nhập thể.

Mọi thứ có vẻ không suôn sẻ, khi thánh Đa Minh cầu nguyện và khóc ở Nguyện đường Đức Maria năm 1208, ngài than thở với Đức Mẹ về việc thiếu kết quả của việc rao giảng cho những người theo tà thuyết An-bi-gen. Đang lúc đó thì Đức Mẹ hiện ra với ngài.

Đức Mẹ nói: “Đừng lo, đến nay con đã đạt được một ít kết quả như vậy nhờ sức lao động của con. Con phải dùng kết quả đó trên vùng đất khô cằn, chưa được tưới bằng sương hồng ân. Khi Thiên Chúa muốn canh tân bộ mặt trái đất, Ngài sẽ bắt đầu bằng cách cho mưa tuôn sự chào đón của thiên thần (rain of the Angelic Salutation). Hãy truyền bá Chuỗi Mân Côi gồm 150 câu chào của sứ thần và 15 kinh Lạy Cha, con sẽ bội thu”.

Thánh Đa Minh không có thời gian. Theo mệnh lệnh của Đức Mẹ, ngài bắt đầu truyền bá Chuỗi Mân Côi, bắt đầu từ Toulouse, một thành phố không xa Prouille. Theo ghi chép của thánh Louis Montfort, một nhà truyền giáo người Pháp hồi thế kỷ 18, thánh Đa Minh đã tới nhà thờ, nơi các thiên thần rung chuông mời gọi mọi người. Khi thánh Đa Minh rao giảng, Thiên Chúa đã hỗ trợ: Trái đất rung chuyển, mặt trời tối sầm, sấm chớp dữ dội. Hầu như cả dân thành Toulouse đều bỏ niềm tin lầm lạc và bắt đầu sống đời Kitô hữu.

Sau thành công tại Toulouse, thánh Đa Minh đi từ thành phố này tới thành phố khác ở Pháp quốc, Tây Ban Nha và Ý để truyền bá Kinh Mân Côi. Trên hành trình, ngài tỏ ra rất chịu đựng, đến nỗi những người đương thời diễn tả ngài là “vận động viên mạnh mẽ”. Sức chịu đựng của ngài gây ấn tượng. Bất cứ đi đâu ngài cũng rao giảng chân lý Phúc âm tập trung vào cuộc đời vui mừng, sầu thương, và vinh quang của Đức Kitô. Nói đến một mầu nhiệm và giảng một câu về đời sống của Chúa Giêsu, ngài mời người nghe lần một hạt trong chuỗi hạt – thường được dùng để đếm các lời cầu nguyện – rồi đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng, các yếu tố của đức tin vẫn nhắm vào những người theo tà thuyết An-bi-gen. Chú ý những lời đầu tiên Đức Mẹ nói với ngài, và một lần Chúa Giêsu hiện ra hướng dẫn ngài khơi lòng người ta yêu mến cầu nguyện trước khi giảng thuyết chống lại tội lỗi, thánh Đa Minh và các linh mục khác đều đọc kinh Kính Mừng chung với giáo dân trước khi giảng thuyết để xin Ơn Chúa. Ngài giải thích rằng kinh Kính Mừng chứa đầy các ví dụ về cuộc sống hàng ngày.

Phương pháp đó tác dụng. Hầu như ở các thành phố ngài rao giảng, ngài đều thành lập Hội ái hữu Mân Côi (Confraternity of the Rosary). Thánh Montfort nói rằng các giáo huấn của thánh Đa Minh tạo sự nhiệt thành đến nỗi hoán cải được những người tội lỗi chai lỳ nhất. Thánh Montfort viết rằng một người đàn ông bị ma quỷ chiếm hữu đã kêu lớn tiếng rằng lời rao giảng của thánh Đa Minh đã làm hoảng sợ cả hỏa ngục. Chuỗi Mân Côi cũng được tin là tạo chiến thắng của đội quân Công giáo do Count Simon de Montfort dẫn đầu, trong trận Muret hồi tháng 9-1213 ở miền Nam Pháp quốc, gồm 800 binh sĩ chống lại vua Aragon và 40.000 quân của tà thuyết An-bi-gen.

Năm 1215, thánh Đa Minh thu hút 6 người bạn cùng làm việc tông đồ và cho họ mặc trang phục như ngài. Đó là một dòng tu đang hình thành với chương trình cầu nguyện, sống chung, và chương trình học tập với Alexander Stavensky, tiến sĩ thần học người Anh. Rao giảng, dạy dỗ, và làm việc để cứu các linh hồn là lý tưởng của thánh Đa Minh. Một người giàu có tên là Phêrô Siela đến xin theo thánh Đa Minh, giao cho ngài nhà cửa của mình ở gần Narbonne Gate tại Toulouse. Cũng trong năm 1215, thánh Đa Minh đi Rôma và quỳ trước mặt ĐGH Innocent III để xin phê chuẩn Dòng Anh Em Thuyết Giáo (OP – Order of Preachers). ĐGH hướng dẫn ngài dùng tu luật hiện có để sống theo. Thánh Đa Minh và các tu sĩ đồng ý chọn tu luật của thánh Augustinô. Ngày 22-12-1216 có tân giáo hoàng là ĐGH Honoriô III, ngài đã phê chuẩn và tuyên bố thánh Đa Minh là “ánh sáng thật của thế giới”.

Khi sinh thời, thánh Đa Minh đã chữa lành các bệnh nhân, phục sinh người chết, và biến lương thực ra nhiều (các phép lạ vẫn tiếp tục xảy ra cho đến sau khi ngài qua đời). Ngài khuyến khích người trẻ và trìu mến với những người mà ngài gặp. Dù ngài già theo thời gian, nhưng tâm hồn ngài vẫn trẻ trung và vui vẻ. Sau khi dòng được phê chuẩn 5 năm, thánh Đa Minh qua đời ngày 6-8-1221 tại Bologna, Ý. Ngay khi hấp hối, ngài vẫn an ủi người khác. Ngài nói: “Anh em đừng khóc. Tôi sẽ có ích hơn cho anh em dù tôi đi bất cứ nơi đâu, có ích hơn khi tôi sống trên đời này”.

Ước mơ từ lâu của chân phước Jane, mẹ của thánh Đa Minh, đã thành hiện thực: Con trai bà đã thắp lửa sáng khắp thế giới.

Thánh thi hay Chuỗi Mân Côi?

Trong thời thánh Đa Minh, Chuỗi Mân Côi được nhắc tới như “Thánh thi của Đức Maria”, và mãi tới thế kỷ 15 Chuỗi Mân Côi mới được sử dụng. Nhưng 100 năm sau khi thánh Đa Minh giới thiệu Chuỗi Mân Côi, người ta vẫn không hề nhớ tới.

Chữ ros có thể lấy từ tiếng Latin, nghĩa là “sương”, ám chỉ lời Đức Mẹ nói với thánh Đa Minh về “sương hồng ân” hoặc do tiếng Latin là rosarium, nghĩa là “triều thiên hoa hồng” – từ ngữ “Chuỗi Mân Côi” (Rosary) có sau khi Lm Alan de la Roche, Dòng Đa Minh, người Pháp, được thị kiến Chúa Giêsu, Mẹ Maria, và thánh Đa Minh khuyến khích ngài khôi phục Chuỗi Mân Côi.

Dạng Chuỗi Mân Côi như chúng ta thấy ngày nay cũng không có trong thời thánh Đa Minh. Việc thêm các mầu nhiệm đã mất nhiều thế kỷ để chỉnh sửa và xác định. Thánh GH Piô V, cũng là tu sĩ Dòng Đa Minh, đã làm điều này năm 1569. Ngày 16-10-2002, chân phước GH Gioan Phalô II đề nghị thêm 5 Mầu nhiệm Sự Sáng vào Chuỗi Mân Côi truyền thống. Gọi là “Mầu nhiệm Sự Sáng” vì gồm các mầu nhiệm trong sứ vụ công khai của Chúa Kitô từ khi chịu Phép Rửa tới Cuộc Khổ Nạn.

Tặng phẩm của scapular

Năm 1218, tại Rôma, Đức Mẹ hiện ra với một tu sĩ Dòng Đa Minh là Master Reginald, ở Orleans, là giáo sư nổi tiếng về giáo luật tại ĐH Paris trước khi gặp thánh Đa Minh và gia nhập dòng này. Các bài giảng thuyết của ngài đã thu hút nhiều người vào dòng. Lúc Đức Mẹ hiện ra, Reginald bị bệnh. Mỉm cười với ngài, Đức Mẹ xức dầu co ngài, chữa bệnh cho ngài, và giới thiệu với ngài một áo dòng trắng (scapular). Đức Mẹ nói: “Đây là áo dòng của con”.

Tại sao lần Chuỗi Mân Côi?

Thế kỷ 15, Lm Alan de la Roche, OP, bảo đảm Chuỗi Mân Côi là nguồn vô biên của các phúc lành:

1. Tội nhân được tha thứ.

2. Linh hồn nào khao khát sẽ được thỏa khát.

3. Ai khổ sầu sẽ tìm thấy hạnh phúc.

4. Ai bị cám dỗ sẽ được bình an.

5. Người nghèo được giúp đỡ.

6. Tu sĩ được canh tân.

7. Ai không hiểu biết sẽ được hướng dẫn.

Về Chuỗi Mân Côi, chân phước GH Gioan Phaolô II nói: “Lần Chuỗi Mân Côi là giao phó những gánh nặng cho Thánh Tâm Thương Xót của Chúa Kitô và Đức Mẹ”.

Robert Feeney - Chuyển ngữ: Trầm Thiên Thu

 

home Mục lục Lưu trữ