Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 24
Tổng truy cập: 1380283
LỜI TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ
LỜI TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ- Chú giải mục vụ của Jaques Hervieux
Chúa Giêsu đưa các môn đệ đi rất xa (c.27a). Chỉ cần nhìn sơ trên bản đồ Palestin thời đó là chúng ta cũng rõ: Xêdarê Philipphe nằm tuốt ở mạn bắc, cận dòng sông Giođan và chân núi Hecmon. Đây là một vùng xa xôi giữa miền đất dân ngoại.
Lợi dụng cuộc đi bộ đường dài với các bạn hữu, Chúa Giêsu đã thăm dò ý kiến của họ về Ngài (c. 27b). Các từ ngữ được dùng ở đây đều nhằm mục đích đó. Chính nhờ đồng hành với Chúa Giêsu, lắng nghe Ngài đặt ra câu hỏi mà chúng ta có thể hiểu được khuông mặt đích thực của Ngài hơn. Câu đầu tiên Ngài hỏi các môn đệ là: “Người ta bảo Thầy là ai?” (c. 27c). đây đúng là một sự thăm dò ý kiến. Trước hết cần phải biết quảng đại quần chúng nghĩ gì về thân thế của Thầy. Đây là một câu hỏi trắc nghiệm thú vị có thể tiết lộ cho thầy được nhiều điều. Trước đây Maccô đã vén lên bức màn cho thấy những ý nghĩ đang lưu hành trong quần chúng Do Thái từ tầng lớp thấp nhất đến tầng lớp cao nhất (x. 6,14- 16). Từ quần chúng vô danh đến ngay chính bản thân Hêrôđê Antipa cũng đưa ra những ý kiến tương tự các ý kiến hiện đang được chính miệng các môn đệ nói ra. Đối với một số người, Chúa Giêsu được đồng hoá với Gioan Tẩy Giả hoặc Êlia; đối với một số khác, Chúa Giêsu được đồng hoá với một trong các tiên tri thời xưa (c. 28). Cái nhìn của quảng đại quần chúng này quả thật thú vị bởi vì nó liệt Thầy vào hàng một vị Mêsia. Tuy nhiên đây cũng chỉ là cái nhìn của người mù ở Betsaiđa lúc mới được Chúa chữa sơ, nghĩa là anh ta vẫn còn thấy lờ mờ (x. 9,23b-24a). Nhận biết Chúa Giêu là vị đại tiên tri như thế cũng rất có giá trị bởi vì đó là bước đầu tiên của của đức tin. Tuy nhiên điều này vẫn còn xa vời chân lý. Vì thế mà Chúa Giêsu đã yêu cầu nhóm môn đệ nói lên rõ ràng hơn về thân thế của Ngài (c. 29).
Và ngay lúc này đây đặt ra cho các môn đệ câu hỏi về thân thế của Thầy họ quả thực là khẩn thiết. Từ nhiều tháng nay, có lẽ khoảng một hai năm rồi, nhóm môn đệ này đã theo nghe Chúa Giêsu giảng dạy cũng như đã chứng kiến các hành vi và cử chỉ của Ngài. Họ đã sát cánh bên Ngài trải qua một cuộc hải hành không chỉ thuộc bình diện địa lý mà còn thuộc bình diện thiêng liêng nữa. Bẫy giờ đã đến lúc thuận tiện để vị Sư Phụ trắc nghiệm các đệ tử sau một thời gian đào tạo đức tin lâu dài cho họ. Chúng ta hoàn toàn có quyền tự hỏi liệu đám bạn hữu Chúa Giêsu có còn bị nhốt kín trong sự “mù loà” mà Ngài từng trách cứ không? (8,17- 18). Liệu họ đã có một nhận thức rõ rệt hơn về thân thế đích thực của Thầy mình chưa?
Câu trả lời của Phêrô vang dội như một tia chớp sáng ngời trong bầu trời tăm tối (c. 29). Cuối cùng thì đây là một lời tuyên xưng đức tin rành mạch. Qua miệng người huynh trưởng, đám môn đệ chứng tỏ được rằng cuối cùng thì họ đã nhận ra được thân thế chính xác của Chúa Giêsu: Ngài là “Đấng Mêsia” nghĩa là Đặc Sứ của Thiên Chúa, Ngài đã được Thiên Chúa chính thức “thánh hiến” để dứt khoát thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian này.
Maccô để cho phần đầu của Phúc Âm đạt tới tột đỉnh ở đây. Từ đầu tác phẩm, ông không ngừng chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng đã dùng lời nói và hành động của mình để đặt ra câu hỏi này: “Người này là ai vậy?”. Lũ ma quỷ thì đưa ra được câu trả lời rất hay (1,24; 3,,11 v.v…) còn đám người đương đại thì vẫn u mờ tăm tối. Trong tư tưởng của dân Do Thái thời đó, Đấng Mêsia mang khuôn mặt một nhà giải phóng chính trị hơn là một nhà giải phóng tôn giáo. Vì đó trước hết phải phục hồi các quyền lợi của Thiên Chúa bằng cách đẩy bọn Rôma chiếm đóng ra khỏi bờ cõi vương quốc của Đavit, phải mang lại cho dân lợi lộc kinh tế dồi dào, phải tiêu diệt mọi đớn đau bệnh hoạn. Đây phải là vị anh hùng “trần gian” khét tiếng (x.Mt 4,1-11). Như người ta đã thấy, chính Chúa Giêsu đã từng phải điều chỉnh những niềm kỳ vọng lệch lạc về thân thế Ngài sau mỗi khi Ngài đã thực hiện các phép lạ cũng như gặt hái thành công qua việc chiến thắng sự Dữ và sự Chết. Ngài phải không ngừng đưa các thính giả ra khỏi hình ảnh lầm lạc về một Đấng Mêsia thuần tuý trần gian đến để phục hồi cho Israel “thiên đàng đã mất”.
Maccô đã nhấn mạnh thái độ dè dặt của Chúa Giêsu trước những sự đợi chờ quá trần tục này: Ông đã lặp đi lặp lại không ngớt ‘bí mật về Đấng Mêsia”. Và không gì phải ngạc nhiên khi thấy ở đây một lần nữa ông lại đề cập đến “bí mật” này (c. 30). Đây chính là sự câm nín mà Chúa Giêsu từng truyền bảo lũ quỷ (1,25.43- 44), đám bệnh nhân được chữa lành (5,43: 7,36), và ngay cả các môn đệ nữa. Lý do thật đơn giản. Phải theo dõi tiếp trình thuật, quan sát đám môn đệ thời đó, cũng như các độc giả mà họ đại diện, ta mới có thể có được một ý niệm đúng đắn về Chúa Giêsu là loại Mêsia nào. Chỉ nhờ cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu mới có thể ban cho những kẻ theo Ngài mãi tới lúc đó, phương cách nắm bắt được chân lý toàn vẹn về mầu nhiệm của thân thế và sứ mệnh Ngài.
Tuy nhiên, chúng ta tin rằng cùng với lời tuyên xưng đức tin của Phêrô, ngưỡng cửa tưởng như không thể vượt đó đã bị vượt qua. Đức Giêsu Nadaret không thể bị giản lược và hình ảnh chung chung người ta có về Ngài: một người như mọi người (x. 6,3), Ngài cũng không thể bị giản lược vào hình ảnh một lương y nổi tiếng có tài năng khiến mọi người kinh ngạc (x. 37- 11); đồng thời cũng không thể đồng hoá Ngài với khuôn mặt một vị tiên tri (x. 6,4- 6). Ngài không phải chỉ là một tiên tri mà Ngài chính là “Đấng Kitô” (từ Hy Lạp này được dùng để dịch tước hiệu “Mashia” trong tiếng Hy Bá có nghĩa là Đấng Mêsia).
Đóng vai kiểu mẫu đức tin tông đồ ở đây, đức tin của Phêrô sẽ là đức tin của Giáo Hội sơ khai sau cuộc Phục Sinh của Ngài. Chúa Giêsu “Kitô” sẽ được công bố là Đấng đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người: Do Thái cũng như dân ngoại. Ngài giải phóng họ triệt để khỏi mọi tôi ác nặng nề để từ đây họ có thể hợp thành một “nhân loại mới” (Ep 2,13- 22).
LẦN ĐẦU TIÊN LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN (8,31-33)
Điều mà bây giờ Chúa Giêsu bắt đầu nói với các môn đệ không phải là một lời giảng dạy bổ sung mà là một giáo huấn đích thực thiết lập nên một bước khởi đầu mới mẻ. Trường hợp ở đây quả thực tiện lợi. Các môn đệ, đứng đầu là Phêrô, vừa mới nhìn nhận Thầy mình là Đấng Mêsia (8,29). Lẽ ra khám phá mới có được này phải cho phéphọ nghĩ ngơi chút ít.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã quyết định cách khác. Ngài bắt đầu nói ngay cho họ biết là Ngài là Đấng Mêsia sẽ chịu đau khổ (c. 31a). Lời Chúa Giêsu dùng đã được Ngài chọn lựa một cách khôn ngoan. Kể cũng lạ, Ngài không sử dụng tước hiệu “Kitô” mà họ vừa gán cho Ngài, bởi vì tước hiệu này vẫn còn quá mơ hồ trong tâm trí họ, nhằm đến các mục đích chính trị hơn là thiêng liêng. Ngài chủ ý sử dụng tên gọi nổi tiếng “Con Người” mà ngay từ nhận cho mình (x. 2,10 v.v…). Từ ngữ này nhắc nhở đến một nhân cách dấn thân sâu xa và mầu nhiệm của Thiên Chúa cũng như vào ý định Chúa muốn cứu độ trần gian (Đnl 7,13- 14). Tuy nhiên nét mới mẻ ở đây là “Con người” được chỉ định mang lại chiến thắng của Vương Quốc Thiên Chúa trên sự Dữ lại phải chịu khổ nạn và chết đi. Chúng ta cần ghi nhận rằng số phận của “Con Người” ấy sẽ không phải là một sự kiện mà người ta không biết được cứu cánh của nó. Thành ngữ vắn gọn “sẽ phải” muốn ám chỉ kín đáo sự đau khổ và sự chết của Đấng Mêsia nằm trong ý định khôn dò của Thiên Chúa là muốn cứu độ nhân loại (x. Lc 24,25- 27).
Như thế, Chúa Giêsu đặt các môn đệ trước một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của họ. Ngài nói cho họ về cái chết không thể nào tránh khỏi của Ngài, đồng thời xác định cho họ đôi điều về cái chết này. Đây là cái chết do những kẻ tội lỗi gây ra, nó mặc lấy hình thức bị các vị cầm quyền tôn giáo của dân Chúa chọn khai trừ của cộng đoàn Do Thái (c. 31b). Đặc biệt là Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu một cái chết hung bạo, nghĩa là sẽ bị người ta giết (c. 31c). Theo quan niệm đương thời về Đấng Mêsia thì tất cả điều này hoàn toàn không thể chấp nhận được. Trong tâm trí người Do Thái thời đó, Đấng Mêsia sẽ không thể nào bị đau khổ, chứ đừng nói là sẽ bị giết chết. Ngài phải là một “mẫu” người đặc biệt gần như là thần thoại, được thiên Chúa miễn trừ cho số phận hay chết vốn là thuộc tính chung cho cả loài người. Người ta chờ đợi Ngài sẽ đến qua cuộc trở lại của Êlia, vị tiên tri có khuôn mặt thần thoại là được Chúa lôi về trời mà không phải trải qua cái chết (2V 2,1-18; Mc 6,15; 8,28). Chúa Giêsu đã đưa ra lời phủ nhận tính cách thần thoại của một kiểu mẫu Mêsia lý tưởng, thần bí thoát khỏi mọi quy luật nghiệt ngã của bản tính loài người. Chắc hẳn ngài cũng có phụ hoạ thêm vào lời loan báo về các chết của Ngài một động cơ giúp các môn đệ hy vọng: đó là Ngài sẽ Phục Sinh (c. 31c). Tuy nhiên ngay lúc này, thì lời hứa ấy chỉ được các môn đệ nghe một các rất hời hợt. Dù sao thì lần đầu tiên này về một cái chết dữ dằn đang chờ đón Ngài cũng làm các môn đệ thất điên bát đảo. Maccô đã nêu bật tính chất rõ ràng không úp mở trong các lời nói của Chúa Giêsu (c. 32a).
Phần đầu của Phúc Âm đã đóng lại (1,1-8,30). Trong phần này cái chết của Chúa Giêsu xem ra chỉ thoáng hiện nơi một cuộc tạo phản có thể xẩy ra do phía các địch thủ Ngài (3,6). Còn giờ đây thì Chúa Giêsu mặc khải rõ số phận đang chờ đón Ngài. Chuyện này hẳn làm cho các môn đệ choáng váng. Người ta thấy điều đó qua sự bác bỏ thẳng thừng của người đứng đầu trong họ (c. 32b). Thủ lãnh nhóm Mười Hai, người mà mới thay mặt họ tuyên xưng đức tin vào Đấng Mêsia giờ đây đang dùng hết sức mình phản kháng lại. Ông còn dám la rầy Thầy mình: bởi vì làm sao có thể đi theo một người tự ý gieo mình vào cái chết? Có lý do để ông mất niềm tin đó chứ!
Tuy nhiên Chúa Giêsu vẫn không muốn để cho các môn đệ rơi vào ảo tưởng về sống phận mà họ mường tượng về Ngài. Quang cảnh được ghi nhận ở đây sống động đến độ làm ta ngỡ ngàng giống hệt bức tranh tả chân (c. 33a). người ta như trông thấy rõ diễn biến. Theo thói quen của các đạo sư Do Thái thời ấy, Chúa Giêsu bước đi trước các môn đệ Ngài, họ đi theo sau cách Ngài chừng vài bước. Vì thế Ngài đã phải quay quắt lại để khiển trách Phêrô và ban ông. Lời Ngài quở trách thực sự rất gay gắt (c.33b) có thể nói được rằng đây là một thứ mệnh lệnh. Lập tức vị tông đồ phải trở về vị trí của mình tức là lùi lại phía sau Thầy mình. Ông không có quyền thay thế cho Chúa Giêsu là người duy nhất biết được con đường mình phải đi. Và Chúa Giêsu đã không ngần ngại gán cho người thủ lãnh nhóm bạn hữu Ngài tên gọi “Satan”. Trong tiếng Hy Bá, Satan có nghĩa rõ ràng là “kẻ đối nghịch” nghĩa là kẻ xúi giục con người bất tuân ý Thiên Chúa. Ở đây qua bản thân Phêrô, Chúa Giêsu đã vạch mặt tên cám dỗ là kẻ đã nổi lên chống lại Ngài ngay khi Ngài vừa bắt đầu thi hành sứ mệnh của mình (x. 1,12- 13).
Sự tình có vẻ quá bi đát. Thực ra qua việc bác bỏ mãnh liệt ý định của Chúa Giêsu, Phêrô chỉ muốn diễn tả niềm hy vọng hoàn toàn mang tính trần tục được dân Do Thái thời đó cưu mang trong lòng: đó là Đấng Mêsia phải là một kẻ chiến thắng, khổ đau và chết chóc không thể làm gì được Ngài. Và để đưa các môn đệ vào lại chính lộ, Chúa Giêsu buộc phải tiêu huỷ giấc mộng ngu dốt của họ về Ngài: tư tưởng của họ thuộc về con người chứ không thuộc về ta (c. 33c).
Có một hố sâu phân cách giữa ý định của Thiên Chúa và những tầm nhìn của loài người. Sẽ còn phải lâu lắm mới vượt qua nổi “điều kỳ chướng” về cái chết của Đấng Mêsia. Trong khi Maccô thảo ra đoạn văn này, Giáo Hội sơ khai vẫn còn luôn luôn đụng phải viên đá vấp phạm của sứ điệp Kitô giáo: “Phần chúng tôi, chúng tôi công bố Đức Kitô chịu đóng đinh, đó là điều kỳ chướng đối với dân Do Thái, là sự điên rồ với dân ngoại” (1Cr 1,23).
Người ta có thể hiểu được tại sao Maccô sẽ dành trọn vẹn phần thứ hai của Phúc Âm (8,31 – 16,20) chinh phục độc giả của ông về cái nhìn then chốt trong đức tin Kitô giáo: đó là Thiên Chúa đã muốn cho Đấng Mêsia của Ngài mặc lấy trọn vẹn thân phận loài người, kể cả việc phải chịu đau khổ và chết, trước khi ban cho Đấng Mêsia ấy, qua cứu cuộc Phục Sinh, quyền xét xử và cứu độ toàn cầu vào thời gian chung cục.
THEO CHÚA GIÊSU BẰNG CÁCH HIẾN DÂNG MẠNG SỐNG CHO NGÀI (8,34-9,1)
Chúa Giêsu đang kêu gọi đám đông theo làm môn đệ Ngài (c. 34a). Có lẽ nào Maccô quên rằng Chúa Giêsu hiện đang ở trong vùng đân dân ngoại và chung quanh Ngài chỉ có các môn đệ mà thôi? (x. 8,27). Điều này không chắc. Nếu ở đây Maccô nối kết “đám đông” vào vòng đai thân hữu của Chúa Giêsu là chính vì ông nghĩ đến “giáo huấn mới mẻ” của Chúa về việc Ngài cần phải chết có liên quan đến quần chúng độc giả của ông. Tác giả Phúc Âm đã lợi dụng Lời loan báo đầu tiên về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu (8,31) để đựa vào đây một bài giáo lý hợp thời nói về cách thức các Kitô hữu được kêu gọi bước theo Thầy mình (c.34b). Lời mời gọi này quả thật khá khó nghe. Và ở chỗ này Phúc Âm đã sử dụng những từ ngữ đáng gây kinh ngạc! Thập giá là thứ nhục hình quân Rôma sẽ bắt Chúa Giêsu chịu. Vào lúc này đây, Maccô không thể nào biết được Chúa sẽ bị chết kiểu đó. Vì thế, khi soạn lại lời khuyên này và quãng ba mươi lăm đến bốn mươi năm sau khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, hẳn thành ngữ “vác thập giá để theo Ngài” mang một ý nghĩa cực kỳ sâu đậm. Giáo Hội Rôma hiện đang trải qua cơn bách hại. Việc tử đạo, hay nói chính xác hơn, con đường thập giá, đang chờ đón tất cả mọi Kitô hữu đang bị dẫn tới cùng giống y hệt số phận Đấng Mêsia. Bất cứ ai muốn thức sự theo chân Chúa Kitô thi chắc chắn đều bị đòi hỏi phải từ bỏ mình hoàn toàn.
Lý do Chúa Giêsu đưa ra bao hàm một nghịch lý kỳ lạ! (c. 35). Từ chối không dâng hiến mạng sống mình cho Chúa Kitô- tức là cho Phúc Âm- thì đồng nghĩa với đánh mất đi chính mình. Đối với mỗi người, “ơn cứu độ” không hệ tại ở việc cứu vớt cuộc sống hiện tại của mình.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Is 50,5-9a) : Hình ảnh Người Tôi Tớ Giavê bản thân vô tội nhưng phải chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài người.
– Tin Mừng (Mc 8,27-35) : Đức Giêsu loan báo cho các môn đệ biết Ngài sắp chịu nạn chịu chết.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Ai mà không thích sung sướng và sợ đau khổ. Tuy nhiên có những thứ khổ rất đáng kính trọng, chẳng hạn cha mẹ chịu cực chịu khổ để nuôi dạy con cái. Lời Chúa hôm nay sẽ cho chúng ta biết chính Đức Giêsu cũng chọn cách cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ của Thập Giá.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa những đau khổ của chúng ta và xin Ngài giúp chúng ta biết thánh hóa đau khổ, biến đau khổ thành nguồn ơn thánh cho chúng ta và cho mọi người.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Vì sợ khổ và muốn trốn tránh đau khổ bằng mọi giá, nhiều khi chúng ta không chu toàn bổn phận.
– Vì chưa ý thức giá trị của đau khổ nên khi gặp khổ, chúng ta chán nản thất vọng, thậm chí còn kêu trách Chúa.
– Chúng ta không vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Is 50,5-9a)
Trong phần II sách Isaia, còn gọi là Đệ nhị Isaia (Is 40-55), có 4 bài ca viết về một nhân vật rất đặc biệt được gọi là Người Tôi Tớ của Giavê (Is 42,1-4 49,1-6 50,4-9 và 52,13—53,12). Bài ca được trích đọc hôm nay là bài thứ ba.
Người Tôi Tớ Giavê này bản thân vô tội nhưng phải chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài người.
Người Tôi Tớ này là ai ? Ý nghĩa đầu tiên của nó là nói về dân Israel, họ phải chịu bao đau khổ trong kiếp lưu đày để chuộc tội cho muôn dân. Về sau, hình ảnh này được hiểu về Đấng Messia. Đức Giêsu làm ứng nghiệm lời tiên tri này : Ngài chịu nạn, chịu chết trên Thập giá để cứu chuộc loài người.
Đáp ca (Tv 114)
Tâm tình của người tín hữu trung kiên : dù đang bị bủa vây giữa muôn vàn đau khổ nhưng vẫn một lòng tin tưởng Chúa và hy vọng Chúa sẽ giải thoát.
Tin Mừng (Mc 8,27-35)
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần :
a/ Đức Giêsu dò hỏi các môn đệ xem dư luận nghĩ sao về Ngài. Các môn đệ phản ảnh : có nhiều dư luận hơi khác nhau, nhưng tựu trung mọi người đều nghĩ Đức Giêsu là một ngôn sứ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cả Nhóm 12 : “Thầy là Đức Kitô”.
b/ Sau đó Đức Giêsu tiên báo về cuộc chịu nạn của mình. Phêrô ngăn cản liền bị Chúa trách nặng nề là Xatan. Rồi Ngài cho biết ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường Ngài đi, đó là con đường thập giá.
– Các câu 33-35 “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”
. “Ai muốn theo tôi” nghĩa là ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu (“đi theo” ai là làm môn đệ cho người đó)
. “Từ bỏ chính mình” : xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hoá, vong thân (aliénation), mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt : tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hóa nên giống Đức Giêsu thì thật tuyệt vời. Lý tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hóa” mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị “tha hóa”. Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu.
. “Vác thập giá mình” : Kiểu nói này có nhiều nghĩa : a/ Đón nhận những khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài ; b/ Theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, “vác thập giá mình” nghĩa là coi như mình đã bị kết án tử ; c/ câu 35 giải thích câu 34 : “Quả thật ai liều mất mạng sống mình vì tôi…”. Như thế “vác thập giá” có nghĩa là “liều mất mạng sống”, hay nói nôm na là “liều mạng” vì Chúa.
Bài đọc II (Gc 2,14-18) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê bàn về đức tin và hành động. Cả hai đều cần thiết và phải đi đôi với nhau : “Đức tin mà không có hành động thì là đức tin chết”.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Giêsu là ai ?
Đức Giêsu là ai ? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Ngày xưa, nhiều người Do thái trả lời rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Êlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ, tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhưng nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống bình an của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết chết các tiên tri : họ đã lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan Tẩy Giả và họ cũng đã đóng đinh Giêsu.
Riêng Phêrô thì trả lời rằng Giêsu chính là Đức Kitô, nghĩa là một người có thừa khả năng để cứu rỗi đời mình và đáng cho mình đi theo cho đến hơi thở cuối cùng. Chính vì thế mặc dù muốn theo Thầy thì phải bỏ mình vác Thập giá, nhưng Phêrô đã sẵn sàng trung thành với Thầy cho đến chết.
Giêsu là ai ? Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo lôi theo một nếp sống khác nhau. Có hai câu trả lời tiêu biểu sau đây ở trong 2 quyển tiểu thuyết :
. Quyển “The last temptation” (Cơn cám dỗ cuối cùng) mô tả Giêsu như một chàng thanh niên khoẻ mạnh, đẹp trai, nhiều khả năng. Chàng có một người yêu tên là Mađalêna. Nhưng một ngày nào đó, Giêsu bỗng bị ám ảnh rằng mình không thể sống nếp sống tầm thường mà phải sống như siêu nhân. Vì thế chàng từ bỏ tình yêu của nàng Mađalêna và lên đường rao giảng một thứ giáo thuyết siêu nhiên. Mađalêna thất tình buông trôi cuộc đời trong nếp sống truỵ lạc, đĩ thoả. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng siêu nhiên. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng siêu nhiên, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Nhưng sau đó gục đầu tắt thở.
Đó là một câu trả lời, rằng : Giêsu chỉ là một người phàm, tuy người phàm này theo đuổi một lý tưởng siêu nhiên và do đó cũng đáng được người khác kính trọng, nhưng cái lý tưởng đó không thể thực hiện được. Thành thử chúng ta dù kính trọng Ngài nhưng không thể sống theo Ngài được.
Có lẽ đó là câu trả lời của rất nhiều người thời nay. Họ nhìn nhận Giêsu là một vĩ nhân, họ nhìn nhận đạo Đức Giêsu là đạo tốt. Nhưng cái đạo đó chẳng giúp ích gì cho cuộc sống. Cuộc sống của họ cần có vật chất, cần có tiền bạc, cần có sự nghiệp, công danh, chứ không cần đến lý tưởng tôn giáo bao nhiêu. Vì thế họ lao mình vào cuộc sống vật chất, để sang một bên những vấn đề lý tưởng tôn giáo cho hạng đàn bà, trẻ nít, hay có cho mình thì cũng là tới khi về già, gần đất xa trời.
. Câu trả lời thứ hai chúng ta gặp trong quyển “Quo vadis” : quyển truyện này lấy khung cảnh thời Hoàng Đế Neron của đế quốc Lamã đang thịnh trị. Tất cả các nước chư hầu đều phải gửi một con tin sang thủ đô Rôma. Đó là một cách để bảo đảm sự tùng phục của các chư hầu. Trong số các con tin ấy có một nàng con gái đẹp tuyệt vời làm cho người cháu của Hoàng Đế Néron si mê. Chàng này vừa có địa vị, vừa có thế lực, vừa có bạc vàng. Chàng tin chắc mình sẽ chinh phục được con tim của người đẹp. Lúc đó bạo chúa Neron cũng đang thẳng tay bắt giết những người theo đạo Đức Giêsu. Phêrô đã phải sợ hãi bỏ thành Rôma chạy trốn. Nhưng đang khi đi trên đường thì Phêrô gặp Đức Giêsu từ ngoài thành vác thập giá đi vào. Phêrô hỏi “Quo vadis”, tiếng Latinh nghĩa là “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy ?” Đức Giêsu trả lời : Ta vác thập giá vào Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa, vì con đã không dám chịu đóng đinh. Phêrô nghe vậy vội trở vào Rôma và cùng với các tín hữu khác chịu đựng những cuộc bắt bớ, cho đến chết. Tấm gương anh dũng của các tín hữu Đức Giêsu đã làm cho nàng con gái đang làm con tin ấy cảm phục và tìm ra được lý tưởng cho đời mình.
Đó là câu trả lời : Thầy là Đức Kitô con TC hằng sống. Con xin theo Thầy cho dù phải vác thập giá và phải bỏ mình vì Thầy !
Đức Giêsu không phải chỉ là siêu nhân mà còn là Con Thiên Chúa. Và vì là Con Thiên Chúa cho nên lý tưởng Ngài đề ra cho ta không phải chỉ là một thứ lý tưởng viễn vong không thể thực hiện. Là Con Thiên Chúa, Ngài thừa sức giúp chúng ta thực hiện được lý tưởng của Ngài cho dù có phải trải qua muôn ngàn gian truân khổ sợ. Mà chính cái lý tưởng ấy mới khiến chúng ta sống xứng đáng là người. Con người nếu chỉ biết mê ăn uống, có tiền bạc, có vật chất, sinh ra để ăn, ăn rồi đói, đói rồi phải kiếm ăn, cứ như vậy cho đến lúc chết thì chẳng khác gì hơn con vật. Đức Giêsu muốn giúp chúng ta sống hơn con vật, cho nên Ngài đã chọn kiếp là người, sống cho chúng ta thấy và sống theo để chúng ta sống xứng đáng là người. Chẳng những là người mà còn là Con Thiên Chúa như Ngài. Mà muốn được như Ngài, chúng ta phải đi theo Ngài, phải bỏ mình đi, phải vác thập giá… Nghĩa là phải cố gắng vươn lên, vươn lên cao hơn những nhu cầu vật chất xác thịt tầm thường. CG đã tiên phong sống được như thế và Ngài sẽ giúp chúng ta sống được như thế, nếu chúng ta nhớ làm theo Lời Ngài : ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ được sống đời đời”.
Trên đây là hai câu trả lời tiêu biểu cho câu hỏi “Giêsu là ai ?” Còn câu trả lời của chúng ta là gì ? Nếu chúng ta trả lời như Phêrô “Thầy là Đức Kitô” thì chúng ta cũng hãy cam đảm bỏ mình và vác thập giá đi theo Thầy.
* 2. Từ bỏ chính mình
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc : “Họa mi và bông hồng đỏ”. Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ : “Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này ? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin :
– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không ?
– Họa mi ơi ! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.
– Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ ?
– Họa mi ơi ! đời cần hoa chi cho thương đau ?
– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.
– Được, nhưng phép màu cần phải có màu đỏ.
– Bằng mọi giá chị ạ.
– Bằng giá sinh mạng ?
– Kể cả sinh mạng em.
– Họa mi ơi ! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
*
Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực : Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình” (Mc.8,34). Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.
Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể “được cả” mà cũng có thể “ngã về không”. Chính cái bắp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.
Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.
Nhưng “Từ bỏ chính mình” không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.
“Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống” (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng Tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì “Ai biết chết thì sẽ biết sống”.
*
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng mang mầm ích kỷ ; thích hưởng thụ hơn là hy sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.
Xin dạy chúng con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng : chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola). (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Hai loại đức tin
Có hai loại đức tin : Loại thứ nhất là tin theo niềm tin của ông bà, cha mẹ, thầy cô… Có thể gọi đây là đức tin thừa hưởng ; Loại thứ hai là tin vì mình đã suy nghĩ, cân nhắc rồi thấy đáng tin nên tin. Có thể gọi đây là đức tin cá nhân.
Người có đức tin thừa hưởng có được cái lợi này là không dễ bị cám dỗ làm lung lạc đức tin : cho dù gặp phải những lập luận ngược với điều anh vẫn tin thì anh cũng không nao núng, bởi vì anh được cả một truyền thống nhiều thế hệ nâng đỡ đức tin của anh. Tuy nhiên anh cũng có cái bất lợi là đức tin ấy không đủ vững để làm nền tảng cho cuộc sống của anh, và cũng không đủ mạnh để thôi thúc anh loan truyền đức tin cho người khác.
Người có đức tin cá nhân cũng có cái lợi là bởi vì đức tin ấy do chính anh nghiền ngẫm suy nghĩ mà tìm ra cho nên nó rất vững mạnh. Tuy nhiên cái bất lợi là nó khiến anh phải tiếp tục tra vấn và suy nghĩ. Có thể một lúc nào đó anh lại hồ nghi và cũng có thể anh sẽ bỏ đức tin. Bởi vì đức tin thực chất là một ơn ban miễn phí chứ không phải là kết quả tìm tòi của con người.
Người hạnh phúc nhất là người có đức tin thuộc cả hai loại : vừa do thừa hưởng từ những thế hệ trước, vừa được củng cố bởi những xác tín cá nhân.
Bởi thế, trong bài Tin Mừng này, trước hết Đức Giêsu hỏi các môn đệ : “Người ta nghĩ Thầy là ai ?” Câu hỏi nhằm kiểm tra những gì các ông thu nhận được từ người khác. Nhưng Đức Giêsu còn hỏi tiếp “Phần chúng con, chúng con nghĩ Thầy là ai ?” Câu hỏi này nhằm khuyến khích các ông suy nghĩ và có lập trường cá nhân, để đạt tới một xác tín cá nhân.
Chúng ta cám ơn Chúa vì cho chúng ta thừa hưởng đức tin từ các thế hệ cha ông. Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng suy nghĩ và đào sâu đức tin ấy để nó trở thành một niềm xác tín cá nhân. Và luôn luôn chúng ta hãy xin Chúa gìn giữ và củng cố ơn ban đức tin của chúng ta. (Viết theo Flor McCarthy)
Đức tin và việc làm
Một chiếc đồng hồ bằng vàng mà không chỉ đúng giờ thì vô ích.
Một cây xum xuê cành lá mà không có trái thì cũng vô ích.
Một chiếc đèn cẩn đầy kim cương mà không cháy sáng được thì cũng vô ích.
Cho nên Thánh Giacôbê nói : “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Hoa trái của cầu nguyện là đức tin
Hoa trái của đức tin là tình yêu
Hoa trái của tình yêu là phục vụ
Và hoa trái của phục vụ là bình an. (Viết theo Flor McCarthy)
Nhận ra Đức Giêsu
Nhận ra Đức Giêsu là Kitô
Trước khi Đức Giêsu đặt câu hỏi : “Anh em bảo Thầy là ai ?”, Ngài đã từng làm nhiều dấu lạ trước mặt các môn đệ. Tại Galilê, Ngài đã hai lần làm cho bánh hoá nhiều để nuôi đám đông dân chúng (Mc 6,30-44 ; 8,1-10). Ngài đã từng đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (6,45-52). Ngài cũng đã trừ quỷ cho một bé gái (7,24-30), chữa một người câm điếc (7,31-37), và một người mù (8,22-26). Tất cả những việc Ngài làm và những lời Ngài dậy đã từ từ vén mở cho họ thấy Ngài là ai, mặc dù họ thường bị Ngài chê là đần độn và chậm hiểu (7,18 ; 8,17.21). Đức Giêsu không trực tiếp nói cho các môn đệ biết căn tính của mình. Ngài dẫn họ đi trên con đường để họ tự khám phá ra Ngài. Xê-da-rê Phi-lip-phê là nơi mà Đức Giêsu thấy có thể đặt cho các môn đệ câu hỏi quan trọng này : “Anh em bảo Thầy là ai ?” Người ngoài chỉ có một cái nhìn mơ hồ và thiếu sót về Đức Giêsu. Họ coi Ngài là Gioan Tẩy Giả, là ngôn sứ Êlia hay một ngôn sứ nào đó. Đức Giêsu chờ đợi một câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn từ phía các môn đệ thân tín. Phêrô, đại diện cho cả nhóm, nói lên niềm xác tín của mình : “Thầy là Đức Kitô.” Phêrô đã nói đúng, nhưng hình ảnh của Phêrô về Đức Kitô vẫn không khác với quan niệm thông thường của đám đông dân chúng : một Đức Kitô oai phong lẫm liệt, không hề biết đến thất bại. Đức Kitô đó không phải là Đức Kitô Giêsu.
Đức Kitô : Con Người chịu đau khổ
Dù sao nhờ câu tuyên xưng của Phêrô mà Đức Giêsu bắt đầu nói đến cuộc khổ nạn của Ngài và nói một cách không úp mở. Đây là điều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức trình bày. Ngài không dùng dụ ngôn nữa, nhưng nói thẳng về định mệnh đang chờ đợi mình. Có người cho rằng lời tiên báo của Đức Giêsu về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh chỉ là lời được viết dựa trên các biến cố đã xảy ra. Thật ra, Đức Giêsu đã thấy những phản ứng chống đối lời giảng dạy của Ngài, Ngài biết mình phải đương đầu với các nhà lãnh đạo Do Thái giáo, và Ngài thấy bóng dáng của cái chết đang rình rập mình. Nhưng Đức Giêsu không thối lui, dù Ngài có thể thối lui. Ngài không đi tìm cái chết, nhưng Ngài muốn tiếp tục trung tín với Cha và phục vụ loài người, dù phải trả giá bằng mạng sống. Đó là sự lựa chọn của Giêsu, lựa chọn của một người có lòng tin. Đức Giêsu tin rằng dù kẻ thù có cướp được sinh mạng của Ngài ở đời này thì Cha cũng chẳng bao giờ bỏ rơi Ngài, chẳng “để cho Ngài phải thấy sự hư nát” (Tv 16,10 bản LXX). Đức Giêsu mang tâm tình của một chứng nhân hiên ngang ra pháp trường. Cái chết là giá phải trả để trung tín về một tình yêu.
Lời tiên báo về cuộc Khổ Nạn và Tử Nạn của Đức Giêsu làm cho Phêrô choáng váng. Ông không sao hiểu được những điều khủng khiếp như vậy, bởi ông còn mải mê với một Đức Kitô vinh quang. Ông phản ứng ngay, ông kéo Đức Giêsu lại mà trách Ngài. Chẳng rõ ông đã nói gì với Ngài, nhưng chắc chắn đó là những lời can ngăn đầy tình yêu thương chân thành. Một lời can ngăn như thế thật nguy hiểm. Đức Giêsu nhận thấy đây là một cơn cám dỗ của Satan qua môn đệ Phêrô. Ngài bảo ông : “Satan, hãy lui lại sau Ta”. Ngay từ khi gọi Phêrô ở ven hồ Galilê, Đức Giêsu đã cho ông thấy chỗ của ông : “Hãy đi sau Ta”. Chỗ đứng của môn đệ là ở sau Thầy. Đức Giêsu muốn đưa Phêrô về đúng chỗ của ông, bởi ông muốn dẫn đường cho Ngài, muốn đi trước Ngài. “Vì anh không nghĩ những điều của Thiên Chúa, mà chỉ nghĩ những điều của loài người.” Đức Giêsu thấy rõ đâu là con đường Thiên Chúa muốn mình đi, và đâu là con đường thế gian chờ đợi. Con đường của Thiên Chúa thì vượt trên những tính toán khôn ngoan nhân loại. “Bởi vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người.” (1C 1,25)
Thân phận của người môn đệ
Những câu cuối cùng của đoạn Tin Mừng trên đây nhắm vào cả dân chúng lẫn môn đệ. Nói cách khác, nhắm đến mọi Kitô hữu, không phân biệt bậc sống. “Nếu ai muốn đi sau Ta”. Đi sau Đức Giêsu là mẫu số chung của mọi Kitô hữu. Từ Đức Giáo Hoàng đến các giáo dân, tất cả đều là môn đệ đi sau Thầy Giêsu, với một lòng tự nguyện. Bất cứ ai muốn thì đều được mời gọi đi theo, mà theo là phải từ bỏ. Các môn đệ đầu tiên đã bỏ chài lưới, bỏ cả thân phụ cùng những người làm công để theo Đức Giêsu. Còn bây giờ, điều Đức Giêsu đòi hỏi thì tận căn hơn nhiều. Không phải chỉ bỏ một vật nào đó, mà là từ bỏ chính mình. Từ bỏ này là gốc rễ của mọi từ bỏ khác.
Từ bỏ chính mình là không còn sống cho chính mình nữa, là vác lấy thập giá của mình mà theo Đức Giêsu. Như thế Đức Giêsu cho chúng ta một hình ảnh về người Kitô hữu. Kitô hữu là người vác thập giá mình đi sau Đức Giêsu vác thập giá. Vác thập giá là công việc dành cho chính tử tội trên đường đến nơi chịu đóng đinh. Có thể chúng ta không được phúc tử đạo, nhưng chắc chắn mỗi Kitô hữu đều được chịu cái chết thiêng liêng, chết cho chính mình để rồi sống cho Thiên Chúa. Con đường Khổ Nạn – Phục Sinh của Đức Giêsu là con đường Phêrô không thể hiểu được và cũng không chấp nhận, nhưng rồi đó cũng sẽ là con đường của ông, và của tất cả chúng ta. “Khi đã về già, anh sẽ giang tay ra và người khác sẽ thắt lưng cho anh và lôi anh đến nơi anh không muốn.” (Ga 21,18). Đức Giêsu đã vác thập giá, cái dụng cụ giết người mà cả người Do Thái lẫn Hy Lạp đều coi là nhơ nhuốc. Thập giá của Đức Giêsu là do Ngài gánh lấy tội lỗi của nhân loại. Còn thập giá của chúng ta là do chúng ta lãnh lấy sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu và muốn làm chứng cho Ngài. Chúng ta chấp nhận liều mất mạng sống mình vì Đức Kitô và vì Tin Mừng (c.35).
Từ bỏ chính mình là điều kiện tiên quyết, nếu không thì việc gánh vác sứ mạng của Đức Giêsu sẽ chỉ là một ảo tưởng chẳng đi tới đâu. Ngay cả người đã theo Chúa cũng bị cám dỗ vì chính lòng tận tụy trung tín của mình. Điều này đã xảy ra nơi các môn đệ. Sau khi họ đã bỏ cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tài sản… để theo Chúa, họ chợt thấy mình trở nên quan trọng. Cái tôi có nguy cơ lớn lên song song với lòng quảng đại hiến thân của họ. Nhóm Mười Hai bắt đầu tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong Nhóm (Mc 9,33). Vậy trở ngại đầu tiên và cuối cùng vẫn là cái tôi. Từ bỏ cái tôi là nỗ lực liên tục của mọi Kitô hữu, dù là tu sĩ hay giáo dân, già hay trẻ, trí thức hay ít học.
Thanh tẩy tội lỗi của mình nhờ ơn Chúa giúp, là điều không khó lắm. Nhưng thật là khó khi phải thanh tẩy mình khỏi những nhân đức và biết bao công trạng mình đã lập được. Với ơn Chúa, chúng ta có thể làm được điều khó khăn này. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu Kitô đã cứu độ mọi người bằng đi qua đường thập giá để đem họ vào vinh quang Nước Trời ; đó cũng là đường mà mọi người phải đi qua để có thể vào Nước Trời. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện :
- Xin cho các vị chủ chăn và mọi con chiên trong Hội thánh không lùi bước trước khó khăn gian khổ / nhưng luôn trung thành bước đi theo Đức Giêsu trên đường thập giá.
- Xin cho các nhà cầm quyền và dân chúng trong các nước chậm tiến, kém phát triển / biết sẵn sàng chấp nhận mọi gian nan thử thách / để xây dựng đất nước theo công lý và hòa bình.
- Xin cho mọi người đang gặp khổ nạn / biết liên kết với cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô / để tìm thấy ý nghĩa và niềm hy vọng cho cuộc sống.
- Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta là môn đệ Chúa / biết trung thành đi theo Chúa / và sẵn sàng liều mạng sống vì Chúa và vì Tin mừng của Người
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, xin cho Lời Chúa và Thánh Thể Chúa bồi dưỡng chúng con, để chúng con luôn sẵn sàng chia sẻ với cuộc khổ nạn của Chúa, và cũng được chia sẻ vinh quang thiên quốc với Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị.
TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Thánh Kinh nói “Chúa luôn gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung”. Mỗi người chúng ta đều mang cõi lòng tan nát vì bao nỗi khổ đau. Chúng ta hãy dâng hết lên Chúa cùng với Lời kinh Lạy Cha.
– Trước lúc rước lễ : Đức Giêsu mà chúng ta sắp rước vào lòng chính là Con Chiên Thiên Chúa gánh lấy mọi đau khổ và mọi tội lỗi của loài người.
GIẢI TÁN
Thánh lễ đã xong. Khi về nhà, anh chị em hãy ghi nhớ Lời Chúa dạy hôm nay : “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác Thập giá mình mà theo”.
CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN- Năm B
TIN THEO ĐỨC KITÔ– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
- DẪN NHẬP
Đức Giêsu là ai ? Đây là câu hỏi được đặt ra nơi người Do thái thời Chúa Giêsu, và ngày nay người ta vẫn tiếp tục lặp lại câu hỏi ấy. Thậm chí có người phủ nhận con người lịch sử của Đức Giêsu và coi đó chỉ là một con người huyền thoại.
Ngày xưa, người Do thái coi Đức Giêsu chỉ là một vị tiên tri có quyền phép làm được những dấu lạ hơn người khác như ông Gioan Tẩy giả, ông Eâlia hay một tiên tri nào đó. Riêng ông Phêrô biết con người thật của Đức Giêsu, ông đã tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô”. Tuy thế, đối với ông, Đấng Kitô có tính cách trần tục, Đấng Kitô vinh hiển, Đấng đến để giải phóng dân tộc Do thái và làm cho nước này trở nên hùng cường, bá chủ địa cầu.
Nhưng Đức Giêsu tiết lộ cho các môn đệ biết Ngài là Đấng Kitô, không phải là Đấng Kitô vinh hiển theo kiểu thế gian, mang mầu sắc chính trị, mà là Đấng Kitô bị đau khổ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Tiếp đó Đức Giêsu tuyên bố lập trường của Ngài cho các môn đệ và dân chúng : nếu ai muốn theo làm môn đệ Ngài thì phải thi hành hai điều kiện, đó là phải từ bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày.
Vậy chúng ta phải theo Đấng Kitô nào ? Đấng Kitô vinh hiển hay Đấng Kitô bị đau khổ ? Nếu muốn làm môn đệ của Chúa, chúng ta phải chọn Đấng Kitô bị đau khổ và đi theo đường lối của Ngài, đó là đường khổ giá, nhưng đường đó sẽ dẫn chúng ta đến ơn cứu độ và được thừa hưởng Nước Trời vinh quang.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 50,5-9a.
Đây là đoạn văn được gọi là “Bài ca thứ ba” của tiên tri Isaia nói về Người Tôi Tớ đau khổ. Đoạn văn này được viết phỏng theo kiểu những lời tâm sự của Giêrêmia.
Người Tôi Trung tự nhận là môn đệ của Giavê, có sứ mạng đem những lời Thiên Chúa truyền cho ông mà loan báo và dạy dỗ. Sứ mạng ấy khiến người ta ghen ghét, ngược đãi dưới nhiều hình thức, nhưng một nguồn sức mạnh mãnh liệt nâng đỡ ông thi hành nhiệm vụ. Ôâng đã thắng vượt sự buồn lo đó bằng một lòng tín thác không lay chuyển vì ông tin tưởng rằng Thiên Chúa không ngừng đến cứu giúp ông.
Người Tôi Tớ này được hiểu là Đức Kitô, một người Tôi Tớ tuyệt hảo nhất. Trong cuộc khổ nạn, Đức Kitô đã đặt niềm tín thác nơi Chúa Cha. Từ đó, Ngài đã được sức mạnh phi thường trong tâm hồn. Thật là mẫu gương sáng ngời cho chúng ta, các môn đệ của Ngài.
+ Bài đọc 2 : Gc 2, 14-18.
Trong bài đọc 2, thánh Giacôbê nói về những đòi hỏi của đức tin trong hành động. Ngài khẳng định :”Đức tin mà không có hành động thì là đức tin chết”. Cả đức tin lẫn hành động đều cần thiết và luôn phải đi đôi với nhau, không thể tách rời .
Ngài còn đưa ra một mẫu gương sống bác ái huynh đệ để định nghĩa và dẫn giải về đức tin sống động. Điều đó muốn nói rằng: giá trị của đức tin chúng ta tùy thuộc ở mức độ bác ái đối với mọi người anh em của chúng ta.
+ Bài Tin Mừng : Mc 8,27-35.
Bài Tin Mừng hôm nay được chia thành hai phần :
-Đức Giêsu muốn các môn đệ phản ảnh cho Ngài biết dư luận của dân chúng về Ngài là ai ? Các môn đệ cho biết : theo dư luận quần chúng thì Ngài là một tiên tri, một đại tiên tri có quyền làm được những dấu lạ. Phần Phêrô thì lên tiếng nói thay cho Nhóm 12 :”Thầy là Đấng Kitô”.
-Sau đó, Đức Giêsu tiết lộ cho các ông biết về cuộc khổ nạn của Ngài :”Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại”. Ôâng Phêrô, tuy công nhận Ngài là Đấng Messia, nhưng niềm tin này mới là tạm thời : nó không chấp nhận Đấng Messia phải chịu đóng đinh. Các ông không thể hiểu nổi.
Trước sự bỡ ngỡ của Nhóm 12, Đức Giêsu đã khẳng định với tính cách quyết liệt :”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Theo Đức Kitô bị đóng đinh
ĐỨC KITÔ LÀ AI ?
Đức Giêsu là ai ? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu còn ở dưới thế, mà còn được đặt ta ngay trong thời đại chúng ta ngày nay. Câu hỏi đã được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.
Trong đời mỗi người, hữu thần hay vô thần, sẽ có lần trực diện với câu hỏi : Giêsu Kitô, ông là ai ? Trên bàn viết của Lênin, thủy tổ cộng sản, được lưu giữ như một bảo tàng nhỏ từ khi ông nằm xuống ngày 21/01/1924, người ta thấy bên cạnh cặp kiếng, có một cuốn sách … nói về Chúa Giêsu.
Bối cảnh việc tuyên xưng.
Thánh Marcô kể : bấy giờ Đức Giêsu đang đi với các môn đệ ở vùng Cêsarêa của Philip, tức miền cực bắc nước Do thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Giorđan sẽ chảy xuống phía nam. Người ta gọi nơi này là Cêsarêa của Philip, vì chính Hêrôđê Philip đã xây ở đây một thành mang tên Cêsarê, tức là tên của hoàng đế La mã. Do đó, đặt chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của ông. Và mặc nhiên người ta cũng phải nghĩ đến thân phận của mình.
Ngoài ra, Chúa Giêsu sắp kết thúc việc rao giảng ở Galilê, nay mai sẽ lên đường đi Giêrusalem, chặng đường cuối cùng kết thúc ở đồi Calvê, trong khúc quanh này, đã đến lúc Chúa phải sửa soạn giai đoạn chót cho các Tông đồ.
Có lẽ vì vậy Chúa Giêsu quay sang hỏi các môn đệ xem ý kiến của quần chúng và của các ông về Ngài như thế nào. Ngài muốn biết ý kiến của các ông, sau đó Ngài mới tiết lộ cho các ông về con người thật của Ngài.
Theo dư luận quần chúng.
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ :”Người ta nói Thầy là ai” ? Các ông đáp liền :”Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một tiên tri nào đó”(Mc 8,28),
Ngày xưa, nhiều người Do thái cho rằng Giêsu cũng chỉ là một người nào đó như các tiên tri, như Eâlia, như Gioan hay như bất cứ một tiên tri nào khác. Mà theo họ nghĩ thì tiên tri là những người tuy rao giảng một giáo thuyết hay, tuy làm được một số việc lạ lùng hơn người, nhiều khi cũng quấy rầy cuộc sống an bình của họ. Bởi thế khi không muốn bị quấy rầy nữa thì họ không ngại giết các tiên tri : họ lùng bắt Êlia, họ đã bỏ tù Giêrêmia, họ đã chém đầu Gioan Tẩy giả… Đức Giêsu đối với họ thì cũng chỉ có thế thôi.
Theo ý kiến các môn đệ.
Chúa Giêsu lại hỏi các ông :”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai” ? Ôâng Phêrô tức khắc trả lời :”Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29).
Các ông chưa kịp trả lời thì ông Phêrô đã thay cho Nhóm 12 mà tuyên xưng Đức Giêsu với danh hiệu là Kitô hay Messia. Câu trả lời của ông Phêrô vượt xa những câu trả lời thông thường của quần chúng. Họ là một thiểu số rất nhỏ. Không ai nghĩ ra một điều như thế, chỉ trừ Nhóm này.
Tước vị “Christos” “Messiah trong tiếng Hêbrơ có một ý nghĩa rất mạnh như một biến cố bùng nổ ở Israel : Đó là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Đó là Đấng được mọi ngươi mong đợi để đến “ hoàn tất lịch sử”. Đấng các tiên tri đã báo trước, Đấng sẽ cho đời sống con người có ý nghĩa.
Tuy tuyên xưng Đức Giêsu là Kitô, có lẽ Phêrô vẫn quan niệm như người Do thái về một Đức Kitô vinh quang. Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Maisen, như Đavít. Như Maisen, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời Salômôn. Cho nên, Đức Kitô mới được tôn vinh là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thưở, Hoàng tử hoà bình, danh Người siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi đất. Người là Đấng Thánh của Israel và Nước Người tồn tại đến vô cùng tận (Tv 11 va 12).
Theo sự tiết lộ của Chúa Giêsu.
Đức Giêsu đồng ý với lời tuyên xưng của ông Phêrô và cấm ngặt các ông đừng nói với ai về Người. Rồi Người bắt đầu tiết lộ cho các ông biết :”Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”(Mc 8,31).
Đó là sứ mạng cốt yếu của Đức Kitô, hy sinh hiến mạng sống mình chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập Nước Trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thưở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào”(Ga 3,16-18)
TIN THEO ĐỨC KITÔ.
Theo Đức Kitô nào đây ?
Sau đó, Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và nói :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Phúc âm, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”(Mc 8,34-35).
Chúa Giêsu bảo ai muốn theo Ngài vì Ngài là Đấng Kitô, nhưng phải theo Đấng Kitô nào ? Theo Đấng Kitô vinh hiển như người Do thái thường quan niệm hay Đáng Kitô đau khổ như Người mới tiết lộ ?
Trở lại bài đọc 1, ta thấy tiên tri Isaia có một bài ca nói về Người Tôi Tớ đau khổ nào đó, mà người Tôi Tớ đau khổ ấy chính là Đức Kitô. Và mọi Kitô hữu cũng một phần nào là ngươi tôi tớ ấy.
Chúng ta chưa hiểu vì sao lại phải như vậy ! Nhưng rõ ràng đó là ý muốn của Thiên Chúa và là kế hoạch cứu thế của Người. Người muốn cứu độ bằng đường Thánh giá : ai muốn được ơn cứu độ của Ngài, phải bằng lòng đi vào con đường ấy. Nhiệm vụ của chúng ta hằng ngày là tự hỏi Thiên Chúa muốn cho tôi ngày hôm nay, trong giờ phút này vác thập giá nào đây để tôi được cứu độ và góp phần vào việc cứu thế.
Truyện : Tôn giáo của ông Lavallière Lepaux.
Lavallière Lepaux là một nhân viên Thượng hội đồng quốc gia Pháp, ghét đạo Công giáo. Ông lập một đạo mới gồm những triết thuyết và có vẻ khoa học. Ôâng cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.
Một hôm ông nói với một ông bạn tên là Barras :
– Tôi không hiểu tại sao, tôn giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có học, có huấn luyện, mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người chài lưới thất học, mà cả thế giới theo ông ?
Barras trả lời :
– Thưa đồng chí, nếu đồng chí muốn thiên hạ theo đạo mình, thì đồng chí để cho người ta đóng đinh đồng chí ngày thứ sáu, rồi sáng ngày Chúa nhật, đồng chí cố sống lại đi.
Những điều kiện để theo Chúa.
Muốn theo Chúa thì phải thi hành hai điều kiện là phải từ bỏ mình và vác thập giá mình. Hai điều kiện này xem ra ít ỏi như khó ăn lắm.
- a) Phải từ bỏ chính mình.
Từ bỏ chính mình để nhận lấy Thập giá mà bước theo Chúa. Từ bỏ để khỏi bận tâm tính toán, so sánh hơn thiệt trong việc theo Chúa. Không từ bỏ, con người vướng bận nhiều thứ là cái tôi kềnh càng, tự ái, ích kỷ; nào là vật chất, đẳng cấp, vị thế xã hội. Muốn thong dong trong việc đi theo Chúa phải từ bỏ những thứ phụ thuộc đó, đặt niềm tin vào Chúa mới mong theo trọn con đường Chúa mời gọi.
Ngoài ra, việc từ bỏ chính mình, đứng về phương diện triết học ngày nay, thì là một sự “tha hoá, vong thân”, mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt : tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hoá nên giống Đức Giêsu thì thật tuyệt vời.
Lý tưởng mà thánh Phaolô muốn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hoá” mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị “tha hoá”. Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 653).
Vác thập giá mình.
Thập giá, theo Tin mừng, chính là chấp nhận và làm ngược lại mọi sở thích và khuynh hướng tự nhiên của con người. Thập giá là tự chủ, tự chế, là vượt lên những đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Thập giá là nỗ lực hoàn thiện, gột bỏ con người thú tính, để mặc lấy nhân phẩm, nhân cách của thụ tạo duy nhất được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có khả năng đối thoại với Thiên Chúa.
Như vậy, kiểu nói “vác thập giá mình” có ý nói con người phải nhận những khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài. Ngoài ra, theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, “vác thập giá mình” cũng đồng nghĩa với mình đã bị án tử rồi.
Chấp nhận đau khổ trong đời.
Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Phải chăng đời là bể khổ như Phật giáo chủ trương ? Vấn đề đau khổ này cũng đã được đề cập đến trong sách Gióp, nhưng chưa tìm được câu giải đáp thoả đáng, phải chờ Đức Giêsu đến để giải thích và cho nó một ý nghĩa.
Chúng ta có thể ví những đau khổ, phiền muộn như cơn bão táp, lụt lội xẩy đến. Chúng là một phần cuộc sống mà chúng ta không thể nào tránh né được. Tuy nhiên, đối với Chúa, điều quan trọng trong cuộc sống không phải là nỗi phiền muộn hay đau khổ xẩy đến trên chúng ta, mà chính là thái độ chúng ta đáp ứng chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Có lẽ chúng ta không thể nào tránh né được đau khổ phiền muộn, nhưng chúng ta vẫn có thể biến chúng thành nguồn trợ lực thay vì huỷ diệt, nguồån mang sức sống thay vì chết chóc; nhờ đó, chúng trở nên tốt đẹp hơn thay vì chua chát hơn.
Truyện : Nữ thủ tướng Golda Meir
Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết : “Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một cái may mắn ẩn chìm, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm chỉ để nhờ đó… mang lại ích lợi cho mình hơn.
Nói cách khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thập giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm hờn. Cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở nên nữ thủ tướng đầu tiên của Israel (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật B, tr 327).
Đường đưa tới vinh quang
Chúng ta thấy dòng Mến Thánh giá có một khẩu hiệu để làm câu tâm niệm hằng ngày rất có ý nghĩa :”Per crucem ad lucem” : qua thập giá tới vinh quang. Đúng vậy, Chúa Kitô phải trải qua ngày thứ sáu tuần thánh mới tiến tới ngày Chúa nhật Phục sinh được. Thực sự, đạo của chúng ta không phải là đạo tử nạn, nhưng là đạo Phục sinh. Chết chỉ là điều kiện để tiến tới sự sống lại.
Thập giá không còn là cái gì ghê ârợn mà là vinh quang. Chúng ta thường hát :”Vinh quang của ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ của ta, Phục sinh của ta. Nhờ Chúa ta được cứu độ, nhờ Chúa ta được giải thoát”.
Ngày nay, có quá nhiều tiện nghi, có nhiều phương cách thoả mãn các nhu cầu thể chất của con người, nên ngươi ta “sợ” thập giá, người ta “ngại” hy sinh, người ta “tránh” từ bỏ… Nhưng không thể khác được, nếu con người muốn vươn lên, muốn thành đạt, muốn có một cuộc sống có ý nghĩa với những hoa trái thơm tho cho cuộc đời thì phải chấp nhận thập giá, chấp nhận gian nan thử thách vì như người xưa đã nói :“Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử” : không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con ?
Hiểu được ý nghĩa cao quí của thập giá, chúng ta phải hãnh diện về cây thập giá. Hãy nói một cách tự hào như thánh Phaolô nói với tín hữu Galata :”Vinh dự của tôi là Thập giá Đức Kitô”(Gl 6,14). Hãy mang lấy trọn vẹn thập giá mà Chúa trao cho hằng ngày, không thêm, không bớt. Chính thập giá là chiếc cầu dẫn ta vào Thiên đàng.
Truyện : Cưa bớt thập giá.
Anh kia được Chúa ban cho một cây thập giá và được căn dặn rằng khi nào về thiên đàng nhất thiết phải vác theo.
Suốt ngày anh ca cẩm, phân bua vì thập giá của mình quá dài và nặng hơn thập giá của những người khác.
Thế rồi, sẵn cưa, anh cưa bớt đi mười phân. Và anh cảm thấy ưng ý với thập giá mới.
Ngày về thiên đàng đã đến, anh cùng mọi người vác thập giá ra đi. Đường vào thiên đàng buộc phải vượt qua một con suối nước chảy xiết. Những người khác có sáng kiến đặt thập giá của mình xuống làm cầu để có thể bước qua bên kia. Anh này cũng bắt chước đặt thập giá xuống để làm cầu. Tiếc rằng thập giá của anh lại thiếu mất mươi phân khiến vĩnh viễn anh không thể vào thiên đàng được.
Thi sĩ Robert Browning Hamilton tóm tắt tinh thần bài Tin mừng hôm nay bằng những lời sau :
“Tôi bước đi một dặm đường với Nữ thần Lạc Thú, Nàng vuốt ve tôi đủ điều, nhưng cuối cùng chả làm tôi khôn ngoan tí nào qua những điều nàng nói.
“Tôi lại bước đi một dặm với Nữ thần Đau Khổ, Nàng chả nói với tôi lời nào, Nhưng tôi lại học được biết bao điều Khi nàng bước đi bên cạnh tôi…”
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam