Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 58

Tổng truy cập: 1379467

LỰA CHỌN ƯU TIÊN VÌ SỨ VỤ

Lựa Chọn Ưu Tiên Vì Sứ Vụ

Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

Vào năm 1969, Dòng Chúa Cứu Thế có chương trình truyền giáo tại Miền Thượng của các tỉnh Cao Nguyên –  Việt Nam.

Vì thế, một số linh mục đã khởi hành từ Sài Gòn, các ngài tiến về Tòa Giám Mục Kontum theo đường quốc lộ 14. Khi đến nơi, các cha chào thăm đức giám mục Paul Léon Seitz Kim và bày tỏ ước nguyện muốn dấn thân cho vùng truyền giáo nơi đây. Đức giám mục vui mừng đón nhận tâm nguyện cao quý của các cha. Sau khi trò chuyện thân tình, ngài dẫn các thừa sai đi trên một chiếc xe tới vùng truyền giáo. Đến nơi, đức cha đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Luca 10, 1-11 nói về việc Đức Giêsu sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Đọc xong, ngài làm dấu 4 hướng và chỉ cho các cha thấy vùng đất rộng lớn, mênh mông, bao la và chính thức sai các ngài đi loan báo Tin Mừng cứu độ cho anh em dân tộc nơi đây (x. Thường huấn các bề trên liên Dòng mến Thánh Giá 2015).

Sau gần 20 năm, Chúa đã ân thưởng bằng việc ban cho các ngài một mùa lúa bội thu với cả ngàn người xin theo đạo.

Nhờ đời sống gương sáng, nhất là lòng thương yêu người nghèo, giúp đỡ người cô thế cô thân, bênh cực người bị áp bức… nên những anh chị em dân tộc nơi núi rừng Tây Nguyên này đã nhận ra Thiên Chúa là Tình Yêu và tin theo.

  1. Sứ mạng của Đức Giêsu

Hôm nay, thánh sử Luca trình thuật cho chúng ta biết: nhân dịp thuận tiện, Đức Giêsu trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình để thăm quê hương. Vì là Con Thiên Chúa, nên Đức Giêsu rất yêu mến, quý trọng Hội Đường là nơi tôn thờ Cha của mình. Bởi vậy, Ngài thường xuất hiện nơi đây vào những ngày Sabát để tham dự giờ Kinh Thánh. Tuy nhiên, lần này, Đức Giêsu trở về quê hương, Ngài vào Hội Đường trong tư cách là Đấng Mêsia và chính thức công bố chương trình hoạt động, những lựa chọn ưu tiên cũng như đối tượng mà Ngài nhắm đến trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Tất cả những gì Đức Giêsu đọc thấy trong Sách Thánh hôm nay thì đã được tiên tri Isaia loan báo trong thời Cựu Ước, vì thế: “Hôm nay ứng nghiệm nơi Ngài”.

Ứng nghiệm, bởi vì: Đức Giêsu được chính Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong, trở thành Đấng Kitô của Thiên Chúa. Ngài là vị lãnh đạo tôn giáo, đến để giải thoát con người cách toàn diện cả tâm linh lẫn thể xác, cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo, đó là: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23).

Về tâm linh, Đức Giêsu đến để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, đem lại cho nhân loại sự tự do trong ân sủng. Vì thế, thánh Phaolô viết:  “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13).

Về mặt thể xác,  Đức Giêsu đứng về phía người nghèo để yêu thương, nâng đỡ và bảo vệ khỏi bị tấn công bởi sự bất nhân, ích kỷ của con người và loan báo cho họ biết gia tài, kho báu, niềm vui và hạnh phúc đích thực của họ ở nơi Thiên Chúa.

Về mặt xã hội, Ngài đến để thiết lập triều đại mới, triều đại của ân sủng và tình thương, của công lý và sự thật, đồng thời mời gọi mọi người hãy sáp nhập vào nước đó để được tự do và được sự sống đời đời làm gia nghiệp.

  1. Sứ mạng của Giáo Hội

Sứ mạng ấy không chỉ dừng lại nơi Đức Giêsu, mà: “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian”(Ga 17,18); và: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).

Thật vậy, “Truyền giáo là một ân sủng, ơn gọi xứng hợp, và là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” ( Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 14). Vì thế: “Giáo Hội vẫn sẽ tiếp tục là một Giáo Hội truyền giáo trong tương lai, bởi vì đặc tính truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo Hội”  (Gioan Phao lô II, Thông điệp Tertio Millennio Adveniente, năm 1994, số 57). Đây là nguồn gốc, căn nguyên và sứ mạng chính yếu của Giáo Hội. Giáo Hội không thể đứng nhìn và an tâm bởi những gì đã đạt được, nhưng Giáo Hội luôn luôn mang trong mình mọi thành phần, để cũng cùng một sứ vụ như Đức Giêsu, đó là: giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, đem lại cho nhân loại một nền hòa bình trong công lý và tình thương, xây dựng một xã hội mang đậm dấu ấn yêu thương, bác ái.

Bao lâu còn người nghèo, bấy lâu sứ mạng còn cấp bách; bao lâu còn gian dối lọc lừa, Giáo Hội có trách nhiệm lên tiếng và thanh tẩy để nó trong sáng hơn; bao lâu con người còn thất vọng, Giáo Hội sẽ loan báo và trả lời những chất vấn về niềm hy vọng của nhân loại hôm nay (x. 1 Pr 3, 15).

Nếu Giáo Hội không lựa chọn người nghèo, không tiến ra chỗ nước sâu mà thả lưới, không vượt ra khỏi vỏ bọc an thân để đi đến những vùng ngoại vi, thì Giáo Hội vẫn chỉ trơ trơ như một cái máy, hay như con rô bốt không hồn!

Nếu Giáo Hội không lựa chọn ưu tiên vì sứ vụ như Đức Giêsu, thì một lúc nào đó, nhân loại sẽ không cần đến Giáo Hội vì Giáo Hội chỉ là một thể chế công chức xã hội thuần túy. Và, lẽ đương nhiên, nhân loại không còn tin tưởng Giáo Hội nữa, vì đã thất trung, bội ước với Đấng sáng lập nên mình!

Thật vậy, Giáo Hội sẽ mất đi bản chất nếu không rập đời sống và hoạt động của mình theo khuôn mẫu của Thầy Giêsu. Bởi lẽ: “Nếu Giáo Hội đi với kẻ có quyền, người ta sợ; đi với người giàu có, người ta khinh bỉ; nhưng đi với người nghèo thì được cả hai đối tượng trên và được tất cả mọi sự”.

  1. Sứ mạng của chúng ta

Từ sứ mạng của Đức Giêsu, rồi đến sứ mạng của Giáo Hội và tới sứ mạng của mỗi chúng ta như một mạch liền lạc không thể tách rời. Tuy nhiên, điều chúng ta đặt ra, đó là: làm tông đồ bằng cách thế nào? Đức Phaolô VI đã vạch ra cho chúng ta một tiêu chuẩn để làm chứng cho Chúa, đó là:  “Người thời nay thích nghe những chứng nhân hơn thầy dạy, bởi vì thầy dạy cũng là chứng nhân”. Đúng thế, lời dạy dỗ không hấp dẫn và thuyết phục bằng chứng tá vì người ta thường nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”.

Lời nhắn nhủ của đức giám mục trong thánh lễ phong chức linh mục muốn nhắc cho các mục tử về vai trò chứng tá. Tuy nhiên, lời nhắn gửi này có thể hiểu rộng cho mỗi người Kitô hữu, vì theo nghĩa phổ quát, mỗi chúng ta đều là mục tử vì được tham dự vào chức Tư Tế của Đức Giêsu ngày lãnh Bí tích Rửa Tội. Ngài khuyên: các con “hãy tin vào điều con đọc. Hãy giảng điều con tin. Và hãy thực hành điều con giảng dạy”.

Mong sao lời đó sẽ được mỗi người suy đi và nghĩ lại trong lòng, để trở nên chứng tá của tình yêu Thiên Chúa trong lòng xã hội hôm nay!

Được như thế, Thiên Đàng không chỉ tại Thiên mà đã ở giữa nhân loại ngay trong giây phút hiện tại.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con ý thức được sứ mạng của mình, đồng thời, biết noi gương Chúa để loan báo Tin Mừng cho con người cách toàn diện, ngõ hầu nhân loại này được an vui, hạnh phúc và bình an khi sđược sống trong tình yêu, công lý và sự thật. Amen.

 

37. Ngài Xức Dầu Cho Tôi, Sai Tôi Đi…

 Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

Tiếp tục sứ vụ công khai của mình là đi rao giảng Tin Mừng, chữa lành những người ốm đau bệnh tật, xua trừ ma quỉ, kêu gọi người ta hoán cải, hoàn tất lời các tiên tri đã loan báo: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4, 21).

Sau khi tỏ mình ra dần dần bằng các phép lạ tại Cana (x. Ga 2,1-12), Galilêa và Giêrusalem (Ga 2, 23). Chúa chọn thêm một số môn đệ, rồi cùng với các ông trở về Capharnaum, Người bắt đầu giảng dạy tại đây. Ngày Sabát đầu tiên Chúa vào hội đường Nagiarét đọc sách và giảng dạy ở đó, khiến mọi người chăm chú lắng nghe và không ngớt lời ca tụng  (Lc 1, 1-4).

Được Chúa Cha xức Dầu và sai đi…

Lời của ngôn sứ Isaia được Chúa Giêsu công bố trong hội đường áp dụng vào chính bản thân mình :”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hôn sám hối… trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng” (Lc 4, 14-18). Như thế, Chúa Giêsu loan báo thời lưu đày của dân Israel tại Babylon sẽ chấm dứt, khởi đầu một thời kỳ hoàn toàn mới, thời Đấng Cứu Thế xuất hiện, thời Đấng Messia là chính Người.

Nghe có vẻ đơn sơ, nhưng thật trang trọng, những lời tiên tri ấy áp dụng vào Chúa Giêsu một cách rất tự nhiên: “Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (Lc  4, 21). Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng thương xót của Chúa Cha, được Chúa Cha xức Dầu và sai xuống trần gian để thể hiện lòng xót thương qua việc giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và đưa con người trở về với Chúa Cha. Sứ vụ của Chúa Giêsu nhằm mang hạnh phúc, niềm vui, sự sống và tình yêu của Thiên Chúa đến cho loài người. Sứ vụ của Chúa Giêsu là sứ vụ thần linh, thần linh hoá nhân loại, cho nhân loại được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa, được trở nên con cái của Thiên Chúa trong Thần Khí. Người không được sai đến với những ai tự phụ, tự mãn, cho rằng mình đã đầy đủ, nhưng là đến với những người thấy mình là phận nhỏ, thiếu thốn trăm bề, cả hồn lẫn xác. Cuộc lưu đày ở Babylon, rồi được trả tự do, cho hồi hương của Dân Chúa là một dấu chỉ, một hình ảnh tượng trưng nói lên ý định lớn lao của Thiên Chúa là cứu độ và giải thoát con người khỏi ách tù đày nô lệ tội lỗi và sự chết.

Như thế, khi áp dụng những lời sấm của tiên tri Isaia vào bản thân mình, Chúa Giêsu tự mô tả về con người và sứ mạng của mình, bằng những từ ngữ đơn sơ nhưng rất uy nghi, đến nỗi dân chúng nín thở, hồi hộp, lắng nghe. Thánh Luca nói: “Mọi người trong Hội đường đều chăm chú nhìn Người“(Lc  4, 20). Cung cách dạy dỗ của người hoàn toàn khác với các thầy dạy luật mà họ đã quen bấy lâu nay. Đúng là một Tin mừng làm nức lòng họ, đem đến cả một bầu trời hy vọng và tự do.

Giáo hội đươc sai đi công bố Năm Thánh

Nếu như Chúa Giêsu được Chúa Cha xức Dầu hoan Thánh Thần, sai đi vào dòng đời để cứu vớt những kẻ cơ hàn, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho biết bao con người, khai mở năm hồng ân để thi ân giáng phúc cho nhân loại, thì đến lượt mình, Người cũng trao lại sứ mạng đó cho Giáo hội: “Như cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em“ (Ga 20,21). Giáo hội cũng được xức dầu như Chúa Kitô và được sai đi. Người cũng ban tràn đầy Thánh Thần cho Giáo hội: “Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là linh hồn của sứ mạng Giáo hội, là Chúa Giêsu nối dài, tiếp nối mầu nhiệm nhập thể và sứ vụ của Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.

Ngày hôm nay, chúng ta, những người đã chịu phép Rửa tội và đã được xức Dầu, đang ở trong giai đoạn đầu của Năm Thánh Lòng Thương Xót, Năm Hồng Ân đặc biệt, Năm mà chúng ta được mời gọi hãy thương xót và tha thứ như Cha trên trời. Giáo hội muốn con cái mình cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa, trung thành sống và thực hành giáo huần của Đấng giầu lòng thương xót. Đây là dịp tốt để mỗi người cùng với Chúa Giêsu lặp lại những lời của tiên tri Isaia được công bố trong Phúc Âm như sau: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi...” (Lc 4, 18).

Người Kitô hữu được truyền phải sống Năm Thánh

Như thế, chúng ta được xức Dầu khi chịu Phép Rửa tội và Phép Thêm Sức, được “thánh hiến” cho Thiên Chúa và được sai đi loan báo Tin Mừng. Sống đạo là bước theo Chúa Giêsu theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trên con đường yêu thương hiếu thảo đối với Chúa Cha, con đường yêu thương tự hiến cho tha nhân, con đường trở nên hoàn hảo trong tình yêu. Rập khuôn thầy Giêsu, điều đó chúng ta không làm nổi, nhưng với khả năng Chúa ban, chúng ta đủ sức thực thi những việc tha nhân đang cần bằng tất cả đời sống.

Thế giới ngày hôm nay đang vơi cạn tình yêu, và tha thứ, khiến cho hận thù cũng như  bạo lực leo thang từ phạm vi gia đình đến quốc tế làm cho người già và trẻ em bị bỏ rơi. Vì thế, Lời Chúa hôm nay rất thiết thực đối với mỗi người. Vậy: 

Hãy là đôi chân cho người già yếu, giúp họ đến nhà thờ, đi thăm bà con. 

Hãy là đôi tai cho những bạn trẻ đang mong bạn lắng nghe những nỗi lòng của họ.

Hãy là tin mừng cho người đang u sầu bằng những lời chia sẻ ủi an, khích lệ khôn ngoan. 

Và hãy đem ánh sáng cho những ai đang lầm đường lạc lối, bằng sự hướng dẫn ân cần đầy thương yêu. 

Với ước mong những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức được chúng ta yêu thương, nhất là   liên đới với những kẻ khốn cùng và quảng đại sống đời bác ái yêu thương họ là chúng ta thi hành sứ mạng người kitô hữu của mình, những người được xức Dầu. Có thế, Năm Thánh Lòng Thương Xót mới thật ý nghĩa đối với người chúng ta. Amen.

 

38. Đức Giêsu – Tin Mừng Cho Mọi Người

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

 

Tin Mừng Luca cho thấy Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, Ngài trở về Galilê, và tiếng tăm Ngài được đồn ra khắp vùng. Ngài bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của người Do Thái, cụ thể ở hội đường làng Nadarét.

Thánh Thần Chúa ngự trên tôi

Đức Giêsu luôn sống dưới tác động của Thánh Thần. Ngài làm tất cả dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần, cụ thể Ngài đi chịu phép rửa tại sông Yordan, Ngài vào hoang địa ăn chay cầu nguyện, và hôm này Ngài ra đi rao giảng. Dưới tác động của Thánh Thần, Đức Giêsu là người mang tin mừng cho người có tinh thần nghèo, loan báo tự do cho kẻ bị tù đầy, cho người mù được sáng, cho người áp bức được giải thoát, và năm hồng ân của Thiên Chúa cho mọi người.

Thánh Thần ở trong Hội Thánh như hồn ở trong thân xác. Trong Hội Thánh có nhiều chức vụ, nhưng tất cả đều do Thánh Thần ban tặng và tác động: người làm đầu người làm mắt người làm chân tay. Tất cả đều thuộc về Hội Thánh, và không thể thiếu một chức vụ nào, cũng như một thân xác không thể thiếu một bộ phận nào. Không một bộ phận nào trong thân thể bị thiếu mà lại không ảnh hưởng đến bộ phận khác và toàn thân thể, cũng tương tự vậy những chức vụ trong Hội Thánh.

Ước gì mỗi người đều ý thức Thánh Thần luôn gần gũi, luôn ở với, và luôn hướng dẫn mình cùng Hội Thánh trong mọi hành động.

Đức Giêsu- Tin Mừng

Thiên Chúa chúc lành cho con người, làm tất cả cho con người qua Đức Giêsu.

Có ai hiểu được những người bị tù đầy mong được ngày ra khỏi tù như thế nào? “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”: một ngày trong tù, lâu như thể ngàn năm ở ngoài. Ở đây người ta nói tới thời gian tâm lý, và qua đó diễn tả mong ước ngày được tự do đến độ nào! Đức Giêsu là người công bố ơn đại xá, được miễn án và ra khỏi tù. Nếu ai hiểu được người mù cực khổ như thế nào, và người mù mong được sáng đến độ nào, sẽ dễ dàng hiểu câu “Đức Giêsu là người làm cho người mù được sáng” có nghĩa gì với người mù. Những người bị áp bức hà hiếp, cực khổ như thế nào, mong được minh oan và được giải thoát đến độ nào! Đức Giêsu là người giải phóng họ.

Người ta có thể bị tù đày nô lệ trong không gian như bị giam cầm trong một nơi chốn nào đó, nhưng người ta cũng có thể bị giam hãm trong một cái nhìn nào đó, có thể bị nô lệ với một thành kiến mà người ta không biết. Đức Giêsu tới, cho người ta nhận ra giá trị chân thực, giúp con người biết tiêu chuẩn chân thực để phán đoán. “Chân lý” giải phóng con người khỏi nô lệ, làm người bị u mê nhận ra sự thật và nhờ đó được tự do.

Tin Mừng cho người nghèo

Tin Mừng Đức Giêsu, không phải mọi người đều nhận ra. Những người Do Thái không nhận ra, nên muốn giết Đức Giêsu. Để nhận ra Đức Giêsu là Tin Mừng, cần phải có con mắt của người nghèo, người thấy mình “còn thiếu”, người thấy mình cần được soi sáng, người sẵn sàng và luôn ngóng chờ Thiên Chúa nói với mình.

Những người tự mãn, tự cho mình đã đủ không còn thiếu gì nữa, rất khó đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu. Những người này có thể là những người cho rằng mình đã đạo đức đủ, không nhận ra mình yếu đuối tội lỗi cần Thiên Chúa thương xót và trợ giúp. Họ cũng có thể là những người cho mình có học, không sẵn sàng đón nhận mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu với cuộc sống “bình thường”. Cũng có thể họ là những người giầu, và Đức Giêsu không thêm gì cho họ: Ngài không làm cho họ giầu hơn hoặc danh tiếng hơn hoặc có địa vị cao hơn.

“Phúc cho người có tinh thần nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của họ” (Mt.5, 3). Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, người giầu cũng như người nghèo. Người giầu có nhiều thứ và nhiều bận tâm, nên không còn chỗ và không sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa không yêu thương họ. “Nghèo” như thái độ, là mối phúc thật sự.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Đức Giêsu có là Tin Mừng cho bạn không? Xin bạn cho một vài thí dụ cụ thể trong đời bạn.
  2. Thánh Thần là ai? Bạn hiểu gì về Thánh Thần?
  3. Bạn có thấy ai ganh tị vì không được làm “đầu” hoặc “mắt” trong thân thể (Hội Thánh) không? Tại sao họ như vậy?

 

39. Cộng Đồng

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Sách của Nơkhemia diễn tả cuộc lưu đày của dân Dothái từ Babylon trở về xây lại tường thành Giêrusalem. Khi vua nước Babylon chiếm hữu thành Giêrusalem và đánh đổ nước Giuđa, đã bắt dân Dothái cư ngụ ở Palestine đi làm tôi đòi nô lệ tại Babylon. Sau khi các vua nước Medes và Persians đánh thắng dân thành Babylon vào năm 538 BC, vua Cyrus đã cho phép dân Dothái trở về quê hương. Đúng ra, có 3 nhóm trở về vào 3 thời kỳ khác nhau. Nhóm thứ nhất dưới sự hướng dẫn của Zerubbabel vào năm 536 BC. Nhóm thứ hai được dẫn dắt bởi Ezra vào năm 458 BC và nhóm sau cùng được Nehemia dẫn về quê hương vào năm 445 BC. Sách của Nehemiah được viết vào trong khoảng thời gian (465-423 BC).

Sách Nơkhemia diễn tả việc ông thư ký Ezra đã quy tụ dân chúng đến lắng nghe sách lề luật của Chúa: “Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật.” (Nkm 8,3) Chúng ta biết Sách Luật đã được ghi chép trên các tấm da thuộc hoặc viết trên cuộn giấy Papyrus. Khắc ghi những lề luật và huấn lệnh được truyền tụng qua nhiều đời. Các luật lệ bắt nguồn từ Mười Điều Răn mà Chúa đã truyền cho ông Môisen trên núi Sinai. Dân chúng chăm chú lắng nghe sách Luật từ sớm tới trưa và họ đã vui mừng hân hoan: Bấy giờ ông Ezra chúc tụng Thiên Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen! Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Thiên Chúa.” (Nkm 8,6). Dân Dothái là dân được tuyển chọn. Họ được Thiên Chúa dẫn dắt qua sự hướng dẫn của các tiên tri và các vị tư tế cùng các bô lão. Họ sống liên kết thành cộng đồng tin thờ Thiên Chúa duy nhất.

Từ xa xưa, dưới thời vua Salômon, dân Dothái đã xây dựng đền thánh để tôn thờ Thiên Chúa. Họ đã có tổ chức xã hội về mọi mặt. Hàng tư tế đã có những nghi thức thánh hiến và dâng lễ toàn thiêu đền tội. Đền thờ là nơi mọi người dân tụ lại làm nên một cộng đồng dân Chúa. Đền thờ là trung tâm của cuộc sống đạo và là trái tim của mọi sinh hoạt. Dân chúng xum họp tại đền thờ để lắng nghe Lời Chúa, giải thích Kinh Thánh và dâng tiến lễ vật đền tạ. Niềm tin vào Thiên Chúa độc nhất được hun đúc và phát triển qua đời sống cộng đồng. Trải qua lịch sử ngàn năm, đạo Dothái vẫn luôn trung thành với các nghi lễ, giờ cầu nguyện, giữ ngày sabát, tuân giữ các giới răn và huấn lệnh. Ngoài trung tâm đền thờ chính, nhiều nhóm tại địa phương đã xây dựng nhiều Hội đường để cùng tụ họp nghe giảng và học hỏi Kinh Thánh.

Khi ra giảng đạo, Chúa đã đi cùng khắp mọi miền. Có khi Chúa giảng ngoài bãi biển, nơi chân đồi, ngoài cánh đồng, trong tư gia, ngoài đường phố và hôm nay Chúa đã vào Hội đường: “Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh.” (Lc 4,15) Nhiều người đi theo Chúa và chăm chú lắng nghe. Chúa giảng với uy quyền và lời Chúa có sức biến đổi tận tâm can. Khi vào Hội đường, Chúa Giêsu đã đứng lên đọc sách Tiên tri Isaia với đoạn này: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4,18-19) Đây là đoạn sách quan trọng nhất nói về Đấng Thiên Sai đã được chính Chúa Giêsu xác nhận: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4, 21). Trong 3 năm giảng dạy, Chúa đã hoàn thành mọi lời tiên tri đã loan báo về Ngài.

Chúa Giêsu đã lập Giáo Hội, khởi đầu với một nhóm nhỏ các tông đồ, môn đệ và các thân hữu. Giáo Hội phát triển như hạt giống được gieo vào lòng đất, nẩy mầm, lớn lên và sinh nhiều bông hạt. Giáo Hội bao gồm những người cùng lãnh nhận một phép rửa, một đức tin, đức cậy, đức mến và một niềm hy vọng vào ơn cứu độ. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh của Chúa Cha đã trao và hoàn tất qua việc hiến thân mình chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Các tông đồ là những vị đầu tiên ra đi làm nhân chứng cho Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian. Các nhân chứng sống động được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần đã không ngừng rao giảng và thiết lập các giáo đoàn phụng vụ khắp nơi. Số tín hữu ngày thêm đông đảo và đa dạng. Giáo Hội mở cửa đón nhận mọi thành thành qua Bí tích Rửa Tội và lòng tin ao ước.

Giáo Hội khởi đi từ niềm tin yêu trong lòng người. Niềm tin qui tụ mọi dân, mọi nước, mọi chủng tộc, ngôn ngữ và văn hoá truyền thống. Thánh Phaolô Tông đồ đã dùng những hình ảnh rất cụ thể để diễn tả sự liên kết giữa các thành phần trong Giáo Hội: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy.” (1 Cr 12,12) Giáo Hội là một xã hội của loài người. Cần có các tổ chức phẩm trật, vai trò nghĩa vụ, mục vụ, phục vụ và cộng đồng tin yêu. Giáo Hội cần có sự hỗ tương trong tất cả các sinh hoạt đời sống. Giáo Hội mỗi ngày thêm đông số các thành viên nên phải kết hợp và gắn bó đoàn kết trong một nguồn sức sống. Kết hợp giống như các nhành nho được liên kết với cây nho là Chúa Giêsu Kitô. Thánh Phaolô tả hình ảnh bộ phận của thân thể: “Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một.” (1 Cr 12,20)

Chúng ta quan sát một cộng đoàn phụng vụ trong khi cử hành thánh lễ. Mỗi thành viên có trách nhiệm riêng theo chức vụ của mình. Trong tập thể bao gồm: cộng đoàn dân Chúa, các thừa tác viên thánh thể, đọc sách, các em giúp lễ, các vị tiếp tân, ban trật tự, xin tiền, dâng của lễ, ca đoàn và linh mục chủ tế. Mỗi người có một nhiệm vụ cần được chu toàn ăn khớp với nhau. Chúng ta biết rằng những bộ phận xem ra yếu đuối và có vẻ thụ động nhưng đây lại là bộ phận cần thiết nhất, đó là mọi tín hữu tham dự phụng vụ: “Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất.” (1 Cr 12,22) Không có cộng đoàn dân Chúa, chúng ta sẽ không có các cuộc cử hành phụng vụ cách long trọng. Mỗi thành viên đều rất quan trọng tùy theo vai trò của mình, trong đó có các cụ ông cụ bà, các trẻ em và mọi thành phần dân Chúa.

Bí tích Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Trong niềm tin yêu, chúng ta hỗ trợ và nâng đỡ nhau sống hoàn thiện. Chưa hẳn các linh mục chủ tế là những người đạo đức tốt lành hơn các thành viên khác. Chủ tế nên chu toàn các nghi thức và cử hành thánh lễ cách nghiêm trang và sốt sáng. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, không ai hơn ai. Điều quan trọng là trái tim yêu thương và sự gắn bó với thân thể mầu nhiệm của Chúa: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận.” (1 Cr 12,27) Các bộ phận trong cơ thể tuần hoàn phát sinh sự sống khoẻ mạnh và cường tráng. Các thành viên trong cộng đồng dân Chúa phải gắn kết yêu thương, đùm bọc và nâng đỡ nhau để chu toàn sứ vụ trong sự hài hoà và thuần thiện.

Chúa Giêsu không đến để kêu gọi nhưng người công chính và thánh thiện, nhưng là những kẻ tội lỗi. Những thành phần yếu bệnh cả hồn lẫn xác cần được sự nâng đỡ chở che và chữa lành. Họ là những bộ phận cần được quan tâm nhất vì: “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.” (1 Cr 12,26) Chúng ta không thể lên thiên đàng một mình, cần có những anh chị em xung quanh cùng đồng hành dìu dắt và đỡ nâng. Mỗi người đều có bổn phận làm cho thân thể mầu nhiệm được triển nở và phát sinh kết quả đời này và đời sau.

Lạy Chúa, đừng để chúng con bị lạc xa đường lối Chúa. Xin cho chúng con biết lắng nghe các huấn lệnh, điều răn, chỉ thị và giáo huấn của Chúa và Giáo Hội, để chúng con tuân cứ luật pháp của Chúa đêm ngày. Ước mong tên của mỗi chúng con sẽ được ghi vào sổ hằng sống đời đời, vì: “Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa.” (Kh 20,15).

 

40. Điều gì đã được ứng nghiệm?

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 

Đức Giê-su đã đọc trong hội đường Na-da-rét bản văn của ngôn sứ I-sai-a câu 61:1-2; vị ngôn sứ nói cho người Do Thái lưu đầy biết mình được thần khí (tức sức mạnh) của Đức Chúa tác động để công bố thời kỳ Thiên Chúa viếng thăm và giải thoát họ: “cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha”; tác giả Lu-ca nhấn mạnh thêm tư tưởng này, khi ghép thêm câu “trả lại tự do cho người bị áp bức” từ một đoạn văn khác (Is 58:6). Đức Giê-su trịnh trọng tuyên bố cho nhóm cử tọa cũng là đồng hương của Người rằng: “hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”. Trong khi những người Do Thái thời ngôn sứ I-sai-a hiểu: “được tha, trả tự do” có ý nghĩa gì trong bối cảnh chính trị, xã hội và quân sự thời bấy giờ, thì các thính giả đồng hương Đức Giê-su lại có vẻ khá mù mờ. Họ chỉ mong được chứng kiến hay được hưởng lợi từ những điều kỳ lạ mà họ nghe đồn đại, Người đã làm tại Ca-phác-na-um.

Còn đối với chúng ta, những con người của thời đại này, thì sao? Các Ki-tô hữu chúng ta ngày nay sẽ nghiệm ra điều gì trong hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống hàng ngày? Hơn nữa, “Đã ứng nghiệm” có nghĩa lý gì đối với bản thân mỗi người chúng ta?

Tôi thử tưởng tượng xem sao nhé! Nếu mình được sống trong một đất nước dân chủ và phát triển cao, nếu là một người tài đức, thông thái và có địa vị cao trong xã hội, nếu mình là một người thành đạt… thì sẽ phải hiểu lời công bố này sao đây? Thản hoặc, nếu là một hiền triết, một nhà tu hành đắc đạo và thuần thục của một tôn giáo cao quí nào đó… chẳng lẽ tôi sẽ lắc đầu nhún vai coi lời này chẳng có liên quan gì tới mình; tôi có bị ai áp bức đâu! tôi có cần được ai tha hay trả tự do cho đâu! Nếu quả ‘Tin Mừng’ Đức Giê-su loan báo trong Thần Khí ứng nghiệm cho hết thảy mọi người, mọi thời và mọi hoàn cảnh, thì ‘được tha, trả tự do’ này phải mang một nội dung rất phổ quát, có thể ứng dụng cho hết thảy mọi hạng người, bất luận kiếp sống làm người của họ có là thế nào đi nữa. Vậy thì: ‘ứng nghiệm’ trong thực tế hệ tại ở điều gì, đó chính là vấn nạn tôi cần tìm lời giải đáp.

Vào thời I-sai-a, cốt lõi của sứ điệp mà vị ngôn sứ muốn chuyển tải là ‘Đức Chúa trung thành’ với giao ước mà Ngài đã ký kết với dân riêng, bất chấp các thăng trầm thời cuộc. Còn Đức Giê-su, Người tới để công bố một sứ điệp khác là: ‘Thiên Chúa yêu thương’ bất chấp tất cả mọi giới hạn và bất toàn mà phàm nhân nào cũng có. Chính Người là hiện thân sống động của sứ điệp mang tính cách mạng đó; vì toàn bộ cuộc sống của Người, kể từ lúc sinh ra cho tới giây phút chết trên thập giá là để minh chứng điều đó; vì lẽ đó chỉ duy nhất mình Người có quyền công bố “hôm nay đã ứng nghiệm”. ‘Thiên Chúa yêu thương’ quả là một sứ điệp có sức ‘trả tự do’ cho hết thảy mọi người, không trừ một ai, sống trong bất kỳ hoàn cảnh hay địa vị nào; và hết thảy mọi người đều cần thứ Tin Mừng này. Có nhiều khi ‘bị áp bức’ lồ lộ và quái ác, nhưng cũng có những lúc nó âm ỉ và day dứt… Tựu chung, ta không ngừng ‘bị áp bức’ bởi nỗi lo sợ không còn được ai yêu thương mình, vì những bất toàn hay lỗi lầm mình đã phạm; mỗi người chúng ta đều có quá nhiều kinh nghiệm về điều này, trải đài trong suốt cuộc sống. Lo sợ tới từ những người lẽ ra tôi phải cảm nhận được cảm thông và tha thứ nhiều nhất, từ cha mẹ, người thân, chồng vợ hay bạn bè… các tu sĩ cùng dòng, các linh mục đồng liêu v.v… Do đó nỗi lo sợ cứ chồng chất và dai dẳng đeo bám không nguôi.

Thời I-sai-a, cứ mỗi 50 năm thì người Do Thái có một năm toàn xá: nợ nần được tha, chênh lệch xã hội được xóa bỏ, tội nhân tù đày được giảm án hay phóng thích; vì vậy mà, trong thần khí Chúa (tức là sức mạnh của Đức Chúa), vị ngôn sứ “công bố một năm hồng ân”. Còn Đức Giê-su, khi lên tiếng công bố cùng một lời loan báo đó, đã hàm ý ‘năm hồng ân’ chính là bản thân Người: ‘năm’ đây không có niên hạn nhất định, nhưng là bao lâu Người – Chú Rể còn sống, còn hiện hữu trên trần thế và trong nơi vĩnh hằng. Các Ki-tô hữu luôn miệng tuyên xưng Người đã sống lại và hằng sống, có nghĩa là ‘năm hồng ân’ này sẽ là bất tận… vì ‘Thiên Chúa yêu thương’ sẽ mãi mãi xóa bỏ mọi nợ nần và tù tội trong ơn cứu chuộc của Đức Ki-tô Giê-su.

Còn một điều này nữa; Luca ghi nhận phản ứng của các đồng hương Na-da-rét “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”; nhưng thử hỏi sự tán thành này có ý nghĩa gì, khi chỉ ít phút sau đó ‘mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ’, rồi rắp tâm tiêu diệt Người? Ki-tô hữu cũng giáp mặt cùng một nguy cơ đó, họ biết về ‘Thiên Chúa yêu thương và nhân ái’ và rất thường nói tới, nhưng rồi đầu óc lô-gích lại dễ dàng ép họ quay trở về với mối hãi sợ bị Thiên Chúa công thẳng luận phạt. Họ quên rằng: làm lu mờ niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương tha thứ chính là phản bội hay tiêu diệt Đức Ki-tô đã hiến mình trên Thập Giá. Làm như thế, họ cũng chẳng khác gì các đồng hương Na-da-rét của Đức Giê-su là mấy, họ cũng rắp tâm chối bỏ việc để cho ‘Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm’, ít là nơi bản thân mình.

Lạy Chúa, xin cho con biết nhảy mừng vì lời Chúa công bố ‘hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh’. Như Mẹ Ma-ri-a, con xin tin vững vàng và nhảy mừng luôn mãi ‘vì Người đã đoái thương phận hèn’ của con. Xin cho con luôn mãi xác tín rằng: “Chúa yêu thương và tha thứ” vì đó chính là bản tính vĩnh cửu của Người. Xin cho đời sống con, và cả nhân loại nữa, không ngừng trở nên ‘năm hồng ân’ bất tận của lòng Chúa xót thương. Cũng xin cho phép con được san sẻ niềm vui cứu rỗi này cho nhiều người khác, những người còn chưa nhận biết lòng thương xót vô biên của Chúa. A-men.

 

.

41. Chúa Nhật 3 Thường Niên C

Lm. Antôn

 

Ông bà anh chị em thân mến. Thiên Chúa tạo dựng nên loài người chúng ta giống hình ảnh của Ngài. Vì yêu thương và muốn con người chúng ta sống trong ân sủng, vì vậy, Thiên Chúa không muốn con người lầm lẫn trong tối tăm, tội lỗi của trần thế, nhưng Ngài đã ban cho loài người chúng ta Kinh Thánh, Lời của Ngài, để hướng dẫn cuộc sống, cũng như giúp chúng ta biết phương cách để giải quyết, nhất là giải thoát chúng ta ra khỏi những vấn nạn, khó khăn hay sự giam hãm trong cuộc sống. Điều quan trọng là chúng ta có thành tâm lắng nghe và can đảm sống Lời Chúa dạy hay không. Các Bài Đọc Lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người chúng ta tin và áp dụng Kinh Thánh, Lời Chúa vào trong cuộc đời, để Lời Chúa giúp chúng ta sống vững mạnh trong đức tin, biết sống yêu thương hiệp nhất và tự do trong ân sủng của Chúa.

Bài Đọc I cho chúng ta biết tư tế thư ký Ét-ras đọc và giải nghĩa Lời Chúa, sau đó dạy dân chúng những giáo huấn của Thiên Chúa. Và chúng ta nhận ra một điểm quan trọng là dân chúng chú ý lắng nghe Lời Chúa, và Lời Chúa đã đánh động vào tâm tư của họ một cách mạnh mẽ và sâu sắc, vì vậy, họ có những cử chỉ diễn tả sự tác động của Lời Chúa vào trong tâm hồn của họ. Dân chúng cảm thấy buồn sầu, bởi vì họ nhận thấy họ đã không sống, không đi đúng với Lời Chúa dạy. Họ thành tâm hứa từ bỏ, cố gắng sống Lời Chúa một cách chân thành hơn, và bắt đầu một cuộc sống mới theo Lời Chúa dạy. Vì vậy, tư tế Ét-ras cho họ biết “Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa” và Lời Chúa sẽ mang lại cho họ sự vui mừng và hy vọng.

Trong bài đọc 2, chúng ta thấy thánh Phaolô nhắc nhở và kêu gọi mọi Ki-tô hữu phải hiệp nhất yêu thương, liên kết với nhau, giúp đỡ nhau và hy sinh phục vụ để xây dựng cộng đoàn, và sống trong ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, vì tất cả cùng chịu chung một Phép rửa, nhận cùng một Thánh Thần và tin thờ cùng một Thiên Chúa. Ngài đã đưa ra một ví dụ về những chi thể liên kết trong thân thể con người, giúp chúng ta ý thức và để chúng ta áp dụng vào cuộc sống Ki-tô hữu, và để bảo trì sự hiệp nhất, thực thi đức bác ái, và cùng nhau xây dựng Nhiệm Thể của Chúa Giê-su Kitô một cách tốt đẹp và hoàn hảo hơn.

Trong bài Tin mừng của thánh Lu-ca hôm nay, chúng ta nghe Chúa Giêsu dùng lời ngôn sứ Isaiah, để nói cho chúng ta biết Ngài chính là sự ứng nghiệm của những lời tiên tri nói từ ngàn xưa. Và Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh cho chúng ta biết, ngày hôm nay mang niềm vui của Chúa, và như chúng ta vừa nghe trong bài đọc 1, là “ngày thánh, dâng cho Chúa”, vì chính Ngài sẽ mang sứ mạng “rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.”

Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay thật sự là “ngày thánh, ngày hồng ân” của mọi người chúng ta hiện diện trong thánh đường này, vì chính tai chúng ta vừa được nghe Lời Chúa khẳng định chính Chúa Giê-su đã được Chúa Cha sai mang Tin Mừng, sự giải thoát và chữa lành đến cho chúng ta. Nhưng muốn đón nhận hồng ân Chúa, thì chúng ta phải có 2 điều kiện cần thiết và quan trọng sau đây. Thứ nhất là chúng ta phải “cá nhân hóa” Lời Chúa. Có nghĩa là, chúng ta phải đón nhận Kinh Thánh, Lời Chúa nói với chính chúng ta ngay ở đây, bây giờ và hôm nay, như Chúa nói: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe.” Tuy Kinh Thánh đã được viết ra cách đây hơn 2 ngàn năm, nhưng chúng ta phải luôn luôn nghĩ rằng Kinh Thánh nói với chúng ta hôm nay. Chúng ta phải nghĩ rằng Chúa đang nói với chính chúng ta bây giờ, ngày hôm nay, chứ không phải nói ngày hôm qua và với người khác. Nếu chúng ta không cá nhân hóa Kinh Thánh thì sẽ như chúng ta đọc những chuyện cổ tích, những chuyện xưa, không liên hệ gì với chúng ta, và chẳng có ích gì cho chúng ta. Chúng ta phải cá nhân hóa Kinh Thánh thì khi chúng ta đọc Kinh Thánh, chúng ta mới có thể tiếp nhận được ánh sáng ban ân sủng, sự giải thoát và chữa lành và sự sống.

Điều kiện quan trọng và cần thiết thứ hai là chúng ta phải “nội tâm hóa” Kinh Thánh. Có nghĩa là Chúa muốn nói với chúng ta không phải là những chuyện bên ngoài, mà là những suy nghĩ, những tâm tư trong chiều sâu tâm hồn của chúng ta. Lời Chúa nói phải là cội nguồn của những sự cảm hóa, tốt lành, thánh thiện và ân sủng của chúng ta. Chúa Giê-su nói “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.” Nội tâm hóa Lời Chúa nói trên đây có nghĩa là Lời Chúa nói có ý nghĩa gì với chúng ta hôm nay? Nếu chúng ta không nội tâm hóa Lời Chúa thì chúng ta nghĩ Lời Chúa không có nghĩa gì với chúng ta, bởi vì chúng ta có cần đến Chúa và Lời Chúa đâu! Chúng ta có tội gì đâu! Chúng ta có mù đâu! Chúng ta có bị tù hay áp bức đâu! Nhưng nếu chúng ta thành tâm suy nghĩ: Chúng ta có thực sự khao khát, thành tâm lắng nghe và can đảm sống Lời Chúa dạy không? Chúng ta có bị những đam mê, ích kỷ, lười biếng, tham lam, gian dối, nghiện ngập, kiêu căng, tự cao, những tật xấu làm cho chúng ta trở thành mù lòa, bị tù hay bị áp bức không? Hay chúng ta có sống yêu thương, liên kết, hiệp nhất và hy sinh phục vụ cũng như sống công bằng, bác ái và quảng đại để xây dựng giáo xứ, Thân Thể Chúa Ki-tô không? Chỉ khi chúng ta nội tâm hóa Lời Chúa thì chúng ta mới nhận ra được sự mù lòa, sự tù hãm, áp bức và tội lỗi của chúng ta.

Ông bà anh chị em thân mến. Khi chúng ta cá nhân hóa và nội tâm hóa Kinh Thánh và Lời Chúa nói với chúng ta ngay bây giờ và ngay ngày hôm nay, thì ngày hôm nay mới là “ngày thánh, ngày hồng ân, ngày vui mừng và hy vọng.” Và chúng ta mới tiếp nhận được ân sủng thánh hóa, ơn giải thoát, ơn chữa lành, cũng như sự bình an và sự sống do Kinh Thánh, Lời Chúa mang đến cho chúng ta. Xin Lời Chúa đánh động đến tâm hồn, và ứng nghiệm trong cuộc sống cá nhân mỗi người chúng ta hôm nay.

 

.

home Mục lục Lưu trữ