Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1378772

Mất và được

Mất và được

Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Thật ra, không phải cứ thu vào là được và buông ra là mất. Nhưng có khi được mà lại mất, mất mà lại được. Mất trước để được sau. Mất ít mới được nhiều. Mất nhỏ để được lớn. Có thể nói đây là quy luật trong đời sống hằng ngày. Lời Chúa hôm nay giúp ta hiểu rõ quy luật này, để ta vui vẻ đón nhận tất cả những nghịch cảnh trong cuộc đời với niềm tin tưởng, hy vọng như thánh giá trổ sinh ơn cứu rỗi.

Khi biết giờ của mình đã đến, giờ mà Đức Giêsu sắp bước lên Thập gía. Theo cái nhìn của người đời là bi thảm, nhưng đối với Thiên Chúa là bước vào sự sống vĩnh cữu: "Nếu hạt lúa mì rơi vào lòng đất và không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi, nhưng nều nó chết đi thì sẽ sinh nhiều hoa trái." (Ga 12, 24)

Đời người không có gì đau thương và mất mát hơn là cái chết. Nhưng may mắn cho chúng ta là những người đặt niềm tin vào Đức Kitô, Đấng đã hiến dâng mạng sống để cứu độ chúng ta. Ngài đã cho chúng ta một niềm hy vọng đằng sau cái chết, đó là sự sống đơì đời. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cữu, mọi người chúng ta phải trải qua thử thách nghiệt ngã là cái chết. Nghĩa là phải mất trước rồi mới được sau. Đây quả là một thách đố.

Bởi vì chính Chúa Giêsu cũng từng trăn trở, thổn thức và nao núng trước giờ phút tang thương này. Nhưng sức mạnh nào đã thôi thúc Ngài đi vào cuộc thương khó một cách can đảm? Phải chăng là động lực của tình yêu, và tin rằng cái chết của Ngài sẽ mang lại cho nhân loại mùa ơn cứu độ: "Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người đã hy sinh mạng sống cho người mình yêu."(Ga 15, 12). Nghĩa là khi biết cái chết mang lại mang lại hạnh phúc cho tha nhân thì chúng ta không còn gì phải sợ. Vì tình yêu thì cao quý và mãnh liệt hơn sự chết. Chết cho niềm tin, cho tình yêu là cái chết tận hiến. Cái chết này sẽ không mất nhưng là cửa ngõ dẫn ta vào cuộc sống vĩnh hằng, vào vương quốc của Thiên Chúa. Thật là một điều khó tin, một nghịch lý của cuộc sống. Sự sống bắt đầu bằng cái chết. Chúng ta sẽ không thể có được Đức Giêsu Phục Sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ hình và mai táng.

Khi Chúa Giêsu nói: "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống ở đời này thì sẽ giữ lại được sự sống đời đời.", không có nghĩa là Ngài dạy chúng ta ghét bỏ hay khinh khi sự sống thể lý. Trái lại chúng ta phải học để biết yêu chính mình, vì chúng ta không thể yêu Chúa và yêu tha nhân nếu như chúng ta không biết yêu mình. Nhưng yêu mình cũng không có nghĩa là bám díu hay quá lo lắng vào sự sống của con người thể xác. Mà hãy quên đi hay vượt lên trên cái "tôi", là từ bỏ chính mình, chết cho chính mình, cống hiến cuộc đời vì Tin Mừng và vì chính nghĩa là cách vượt ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của bản thân. Thì cuộc sống chúng ta sẽ trổ sinh hoa trái bình an, tự do và hạnh phúc. Thế giới sẽ nghèo nàn nếu như mỗi người chỉ biết lo cho chính mình, đặt lợi ích của mình là tất cả. Nhưng xã hội sẽ được ướp đầy hương vị yêu thương nếu chúng ta biết chết đi cho sự hưởng thụ riêng tư.

Qua cái chết và sự Phục Sinh, Chúa Giêsu đã cho chúng ta một tấm gương mẫu mực khi Ngài hiến mạng sống mình vì hạnh phúc nhân loại. Điều này không đơn giản, chính Ngài đã thật sự lo sợ khi giờ chết đến. Giờ đây, chúng ta không sợ. Vì hiểu rằng:Thánh giá là cái giá phải trả cho sự nên thánh. Mọi khó khăn vất vả chỉ là thử thách và thử luyện ta trên con đường nên thánh. Ta không thể đổi thánh giá khác nếu ta đặt niềm tin tương vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Thánh giá tôi đang vác không nặng nhưng thích hợp và vừa sức của tôi. Vấn đề là thay gì đổi thánh giá thì ta hãy đổi thái độ, đổi tâm tình. Khi yêu thì mọi sự đều ra nhẹ nhàng, không còn cảm thấy nhọc nhằn cho dù có nặng thật.

Lạy Chúa! Xin hãy đổ đầy trái tim con tình yêu của Chúa để con sẵn sàng đón nhận tất cả những gì Chúa gởi đến trong niềm an vui, tin tưởng và phó thác.


 

47. Mất và được

Ít có phong cảnh nào đẹp cho bằng cảnh một cánh đồng tràn ngập những thân cây lúa mì non. Khi nhìn ngắm những thân cây đó đong đưa trước gió, và nhảy múa dưới ánh nắng, đem lại cho tâm hồn chúng ta một niềm vui. Nhưng quá trình những thân cây này tồn tại được thật là lạ lùng.

Ngoài ra phải chôn hạt lúa mì vào lòng đất lạnh ẩm ướt, giống như trong một ngôi mộ vậy. Thế rồi nó phải chết đi. Nếu nó không chết đi thì nó sẽ không mang lại sự sống mới nào. Nhưng khi nó chết đi, thì từ ngôi mộ của hạt giống cũ, nụ chồi của một cây lúa mì mới đâm ra một cách lạ lùng. Đó là một nghịch lý đáng ngạc nhiên – sự xuất phát từ cái chết.

Giống như hạt lúa mì phải chết đi để mang lại hoa quả, cũng vậy, nếu chúng ta muốn sống một cách trọn vẹn, mang lại kết quả, và nhận ra được tiềm năng đầy đủ của mình, trong tư cách là con người, và là con cái Thiên Chúa, thì chúng ta phải chết đi cho bản thân mình.

Sự chết là một phần của sự sống. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi, chính khi chết đi, chúng ta mới có thể được sống trọn vẹn hơn. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả vờ, và tội lỗi. Mỗi lần chúng ta trải qua một giai đoạn cuộc đời, để rồi chuyển sang một giai đoạn khác, thì có điều gì đó nơi chúng ta chết đi, và một điều gì đó mới mẻ được sinh ra. Chúng ta cảm nếm được cái chết trong những giây phút cô đơn, bị khước từ, đau khổ, thất vọng và thất bại. Chúng ta đang chết dần, trước thời hạn phải chết của mình, khi chúng ta sống trong sự cay đắng, hận thù, và cô lập. Mỗi ngày, chúng ta đều đang tạo ra cái chết cho riêng mình, bằng lối sống của chúng ta.

Khi Đức Giêsu nói “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, ai ghét mạng sống mình ở thế gian này, thì sẽ giữ được nó”, thì Người không bảo chúng ta phải ghét năm tháng mình, hoặc cuộc sống của mình. Chúng ta phải học biết yêu biết chính mình. Thiên Chúa muốn chúng ta biết thương xót bản thân. Không ai có thể yêu mến chúng ta được, nếu chúng ta không biết yêu mến chính mình. Chúng ta sẽ không có khả năng yêu mến bất cứ ai khác, trừ phi chúng ta biết yêu mến con người của mình. Tất nhiên, chúng ta phải phân biệt giữa tình yêu chính đáng đối với bản thân, và thói ích kỷ.

Quên mình, vượt lên trên bản thân mình – điều đó có nghĩa là đánh mất, là khước từ, là chết đi cho chính mình. Chính khi biết quên mình, thì chúng ta mới được tự do nhất và hạnh phúc nhất. Chính khi ra khỏi con người của mình, tự cống hiến bản thân vì những lý do bên ngoài mình, thì chúng ta mới phát triển và mang lại hiệu quả. Chúng ta có thể được sống lâu hơn, nếu chúng ta coi mọi sự là thoải mái, nếu chúng ta biết tiết kiệm cuộc sống. Chúng ta sẽ tồn tại lâu hơn. Nhưng liệu chúng ta sẽ được sống lâu hơn chăng?

Thật là một thế giới nghèo nàn, nếu mọi người đều coi sự an toàn bản thân, được che chở, tiến thân một cách ích kỷ là yếu tố đầu tiên và sau cùng, nghĩa là không có ai được chuẩn bị để vượt ra ngoài bản thân mình. Luôn luôn do con người đã được chuẩn bị để chết đi cho sở thích cá nhân, nên những điều quí giá nhất mà nhân loại được sở hữu đã được sinh ra.

Đức Giêsu đã đem đến cho chúng ta một gương mẫu. Người trao tặng cuộc sống của Người, để phục vụ Cha của Người trên trời và cả chúng ta nữa. Nhưng Người không hề cảm thấy đó là điều dễ dàng. Khi giờ chết thực sự đến, tâm hồn Người tràn đầy nỗi sợ hãi.

Cuộc sống của Đức Giêsu không tách biệt khỏi Người. Người trao tặng nó đi – trao tặng nó vì tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với chúng ta. Tình yêu chính là chấp nhận rằng con người mình có thể chết đi bằng một cái chết khác, trước khi người ta thực sự chết đi. Con đường yêu mến là con đường thánh giá, nhưng chính con đường thánh giá lại đưa đến sự sống lại.

Nhưng ai chết đi cho bản thân mình, thì sẽ nhận thấy giây phút thực sự được chết thật là dễ dàng. Giờ chết sẽ trở thành một giờ phút vinh quang. Chính khi chết đi, chúng ta được sinh ra trong cuộc sống đời đời.


 

48. Nghịch lý mất được

Không biết ở phương Tây thì sao, chứ còn ở tại Việt Nam, ở đây đó vẫn thường xảy ra tình trạng bị cúp điện. Nhất là vào mùa khô nạn cúp điện càng xảy ra thường xuyên hơn. Lý do có thể là mùa khô không đủ nước để cung cấp cho nhiều nhà máy thủy điện sản xuất điện. Biết thế nên trong phòng, lúc nào tôi cũng chuẩn bị vài cây nến phòng khi cúp điện. Và đúng như thế, vào một tối nào đó, đang ngồi đọc sách bỗng cúp điện. Tôi vội vàng đốt ngọn nến lên để có ánh sáng tiếp tục đọc sách. Quyển sách đang hấp dẫn không thể bỏ ngang được. Tôi xin bắt đầu câu chuyện Tin Mừng hôm nay từ ngọn nến đó. Khi nhìn ngọn nến đang cháy sáng tự nhiên tôi có vài cảm nhận: - Muốn có ánh sáng phải có nến. - Muốn có nến phải có sáp.

- Muốn nến đó được cháy liên tục thì sáp phải tiêu hao dần.

- Để có nhiều ánh sáng, đòi hỏi sáp càng phải bị tiêu hao nhiều.

- Và để tận dụng hết nguồn sáng, cây nến phải được đặt trên cao. Không biết đấy có phải là một qui luật không, nhưng không thể làm khác được. Tôi lại liên tưởng tới một ngọn nến khác có tên là Têrêsa Calcuta. Chấp nhận tiêu hao cả thời gian, sức lực, con người để những người nghèo, cô đơn, bệnh tật, bị bỏ rơi được chăm sóc, nâng đỡ. Tôi lại liên tưởng tới một ngọn nến khác có tên gọi là Maximilien Kolbe: Vào năm 1941, ngài bị bắt một lần nữa. Mục đích của Đức Quốc Xã là thanh lọc những phần tử tuyển chọn, là các vị lãnh đạo. Cuộc đời Cha Kolbe kết thúc trong trại tập trung Auschwitz.

Vào ngày 31 tháng 07 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt một người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. "Tên này." "Tên kia." Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng.Trong khi một người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng. "Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con." Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng. "Mày là ai?" "Là một linh mục." Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng. Và Cha Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis GaGiowniczek.

Trong "hầm tử thần" tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15 tháng 08) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như bao người khác. Và còn nhiều ngọn nến khác nữa vẫn đang thắp sáng cho đời. Tất cả những ngọn nến ấy có hoàn cảnh khác nhau, màu da khác nhau, địa vị vị khác nhau, nhưng lại có một điểm chung là tan biến, là hy sinh và từ bỏ.

Hình ảnh của những ngọn nến đó làm tôi nhớ đến một câu nói của Chúa Giêsu trong TM: "Nếu hạt lúa mà rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi thì nó sinh nhiều bông hạt" (Ga 12, 24) Những ngọn nến như thế, những khuôn mặt như thế, những con người như thế làm cho tôi càng hiểu thêm về điều mà Kinh thánh gọi là Kenosis (tự huỷ) của Chúa Giêsu, mà chính thánh Phaolô đã viết nên thành lời của một ca khúc thánh ca bất hủ. Thánh Phaolô viết thế này: "Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh tự." (Pl 2, 6 - 8) Tôi nhớ một nhà tư tưởng nào đó đã nói: "Muốn hiểu môt sự vật, bạn hãy lên cho thật cao và phải xuống cho thật sâu".

Muốn biết chiều cao của một ngọn núi, ta phải lên thật cao trên đỉnh của nó và đồng thời ta cũng phải xuống cho thật sâu của vực thẳm. Tương tự như thế, Chúa Giêsu đã lên thật cao trong địa vị là Thiên Chúa và Người cũng đã xuống thật sâu trong thân phận con người. Và còn hơn thế nữa, Người đã chấp nhận hủy mình ra không, để từ cái không đó trở thành nguồn ơn cứu rỗi cho con người. Đấy là Kenosis (tự hủy). Thế nhưng, chính Kenosis ấy lại trở thành một điều gây khó hiểu cho nhiều người. Người ta không thể hiểu được: Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống. Tại sao tôi phải hy sinh, phải chịu mất mát, chịu thiệt thòi cho người khác và vì người khác? Đúng như lời một triết gia đã nói: "Tha nhân là hoả ngục của tôi", dại gì tôi phải hy sinh cho họ.!!! Cái khó hiểu và cái khó chấp nhận đó tôi tưởng nó có nhiều lý do vừa khách quan vừa chủ quan.

Xã hội hôm nay là một xã hội thực dụng và hưởng thụ trong một nền kinh tế thị trường. Người ta chỉ biết nghĩ đến mình mà quên đi người khác. Chính vì chúng ta đang bị nhận chìm trong một quan niệm, một lối sống thực dụng và hưởng thụ như thế nên càng ngày người ta càng mất ý niệm về sự hy sinh, sự cho đi, lòng quảng đại và sự chia sẻ mà chỉ lo củng cố cái tôi của mình mà thôi. Tôi là số một, tôi là trên hết. Người ta quên mất tha nhân là ai.

Họ có nhu cầu gì, họ khao khát và ước muốn cái gì. Cho nên người đời có thể không hiểu thế nào và cũng không thể chống lại cái gọi là Kenosis là tự hủy, là hy sinh, là từ bỏ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta hiểu thế nào, hiểu đến mức độ nào? Nói cách khác, tình yêu nào đòi chúng ta sống đời bác ái? Sức mạnh nào thúc đẩy ta dám chết cho anh chị em? Động lực nào thúc giục ta hiến thân cho đồng loại? Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình" (Ga 15, 12) Tình yêu cao quí hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết và cái chết của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương cho con người. Chính lúc gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Và khi con người hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đàng.

Đúng như một triết gia nào đó đã từng nói: chỉ có con vật mới quay lưng trước nổi đau của đồng loại để chăm sóc cho bộ lông của mình, còn con người thì không như thế. Hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố: " Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt". (Ga 12, 24). Chúng ta không ngạc nhiên khi nghe câu này. Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ. Thế nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình. Tại sao tôi phải chết để người khác được sống? Vì thế, chúng ta không muốn chết như hạt lúa. Tôi chấp nhận trơ trọi một mình.

Tôi chấp nhận cô đơn để được yên thân. Tôi sợ mất mát vì mất mát đem lại đớn đau nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi đang là... Nhưng Chúa Giêsu còn nói thêm: " Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ỏ đời này, thì sẽ Giữ lại được cho sự sống đời đời". (Ga 12, 25) Cuối cùng, tôi xin mượn một lời cầu nguyện như một lời nhắn nhủ đến anh chị em và các bạn. Lời cầu nguyện thế này:

"Lạy Chúa Giêsu,

Khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng

chúng con ít khi nghĩ đến những hại Giống

đã âm thầm chịu nát tan

để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.

Có bao điều tốt đẹp

chúng con được hưởng hôm nay

là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,

của các nhà nghiên cứu, các người rao Giảng,

của ông bà, cha mẹ, thầy cô,

của những người đã nằm xuống

cho quê hương dân tộc.

Đã có những con người sống như hạt lúa,

để từ cái chết của họ

vọt lên sự sống cho tha nhân.

Nhờ công ơn bao người,

chúng con được làm hạt lúa.

Xin cho chúng con

đừng tự khép mình trong lớp vỏ

để cố Giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,

nhưng dám đi ra

để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.

Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.

Để chọn tha nhân và Thiên Chúa,

chúng con phải chết cho chính mình.

Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua

đi từ cõi chết đến nguồn sống,

đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở

trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân". Amen.


 

49. Giờ phút cao quí

Stephen Roche là một trong những tay đua xe đạp vĩ đại nhất của Ailen. Giây phút tuyệt vời nhất của anh là trong ngày anh chiến thắng giải đua vòng quanh nước Pháp vào năm 1980. Tuy nhiên, khi suy nghĩ về giây phút tuyệt vời nhất của một người, chúng ta nghĩ gì về giây phút đó trong những điều kiện rất phổ biến. Chúng ta nhận thấy đó là giây phút chiến thắng và vinh quang. Và chúng ta có khuynh hướng nói về điều đó một cách khá thoải mái. Chúng ta chỉ tập trung vào giây phút vinh quang, mà quên đi nhiều giây phút khác đưa đến giây phút vinh quang này, đó là những giây phút của mồ hôi, máu và nước mắt. Vinh quang không thể tách rời khỏi lao nhọc. Vậy thì lao nhọc là một phần của vinh quang.

Đức Giêsu cũng nói về “Giờ của Người”. Người nói về giờ này đến mấy lần, trong suốt sứ vụ công khai của Người. Nhưng Người luôn luôn nói như thể giờ đó chưa xảy đến. Tuy nhiên, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Người lại nói rằng cuối cùng, giờ đó sắp diễn ra. Ý Người muốn đề cập đến loại giờ gì vậy? Đó là giờ chết của Người. Đó là giờ mà Người tự trao ban chính bản thân Người, như một sự hy sinh trọn vẹn thân mình Người vì chúng ta. Theo quan điểm trần thế, thì đó là một giờ phút của thất bại. Tệ hại hơn, người ta còn coi như đó là giây phút của ô nhục và đáng khinh miệt. Nhưng bằng cách cho Người sống lại từ cõi chết, Thiên Chúa đã biến chuyển thành giây phút của chiến thắng đối với Đức Giêsu, và một giây phút của ân sủng đối với chúng ta. Đây là giây phút cao quí nhất của Đức Giêsu. Đây là giây phút mà tất cả những gì Người đã thực hiện trên trần thế đều được hoàn tất. Tất cả cuộc đời của Người đều đưa dẫn và chuẩn bị cho Người đến với giây phút này.

Thời điểm xuống thấp nhất lại chứng tỏ rằng đó là một thời điểm biến chuyển. Đây là một nghịch lý lớn lao. Giây phút chết đi là giây phút xuống đến tận cùng, tối tăm nhất và đau đớn nhất trong cuộc sống của một hạt giống. Tuy nhiên, đây chính là giây phút sự sống mới được nảy sinh.

Đối với chúng ta, cũng tương tự như vậy. Những khi tinh thần của chúng ta xuống đến mức thấp nhất, vẫn có thể chứng tỏ rằng đó là những thời điểm biến chuyển. Những giây phút thành công vĩ đại sẽ sớm phai tàn, và thường để lại nỗi trống trải trong tâm hồn con người. Trái lại, những giây phút tối tăm, yếu đuối và thất bại lại có thể chứng tỏ rằng đó là những giây phút của sự thay đổi và phát triển lớn lao – chẳng hạn như một người nghiện rượu bị sa đọa đến tận cùng rồi, nhờ ơn Chúa đã được biến đổi cuộc đời.

Khi suy niệm về giây phút tuyệt vời nhất đối với Đức Giêsu, sẽ giúp chúng ta biết đánh giá cuộc sống của mình một cách khác hẳn. Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng những sự kiện dường như thất bại lớn, lại đều là những lúc hình thành nên cuộc sống mà chúng ta có hiện nay. Chúng ta không thể tách rời những điều đụng chạm đến chúng ta với những điều giúp ích cho chúng ta.

Để có thể tồn tại được trong lúc tinh thần bị sa sút, đòi hỏi chúng ta phải có nhiều lòng tin. Lòng tin bao hàm việc gieo trong nước mắt. Chúng ta sẽ không thể chịu đựng nổi, trừ phi có một niềm hy vọng âm thầm pha lẫn trong nỗi buồn của chúng ta: đó là niềm hy vọng rằng sau những năm tháng phấn đấu, mùa gặt sẽ đến. Vào một lúc nào đó, chúng ta không thể nhận thấy được điều này. Chúng ta chỉ có thể thấy được khi hồi tưởng lại mà thôi.

Van Gogh nói “Việc hội họa đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì ngay từ lúc đầu, người ta không thể biết được rằng công việc đó sẽ thành công. Trong những năm đầu phấn đấu đầy gian khổ, công việc này thậm chí còn có thể là một việc gieo trong nước mắt. Nhưng chúng tôi sẽ kềm chế những giọt nước mắt đó, bởi vì chúng tôi có một niềm hy vọng âm thầm về một mùa gặt trong một tương lai xa xôi”.

Không chỉ công việc hội họa mới đòi hỏi người ta phải có nhiều lòng tin; cuộc sống cũng đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì cuộc sống thường bao hàm việc gieo trong u sầu, trong cảnh tối tăm, và đôi khi, hầu như trong thất vọng nữa. Nhưng nếu biết gieo vãi điều thiện hảo, thì chúng ta sẽ được hưởng một mùa gặt, và được gặt hái trong niềm vui, một niềm vui khiến cho tất cả nỗi đau biến thành ngọt ngào, giúp chúng ta chịu đựng được trong suốt thời gian gieo vãi. Tác giả Thánh Vịnh nói “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126, 5-6).

Cuối cùng, điều tốt sẽ chiến thắng. Sự sống sẽ chiến thắng. Thiên Chúa có tiếng nói sau cùng.


 

50. Suy niệm của Lm. Lâm Thái Sơn

Chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu

Theo như Phúc Âm hôm nay, trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp “muốn được gặp Chúa Giêsu”. Họ đến từ một đất nước phát sinh những suy luận, triết thuyết, nghệ thuật và thần thánh đa dạng, dĩ nhiên họ muốn gặp Chúa Giêsu không vì tính hiếu kỳ, nhưng có lẽ vì không thỏa mãn trong việc tìm kiếm “chân thiện mỹ“ dựa vào triết lý, hay vì các tín ngưỡng không giúp họ đạt đến sự tuyệt đối thỏa đáng.

Họ đến thờ phượng Thiên Chúa trong dịp đại lễ của người Do Thái. Tuy nhiên kỳ đại lễ này đã bị khuấy rối bởi nhiều tin đồn đáng ngại cộng thêm cuộc biểu tình của dân chúng: gần đây tin đồn Đức Giêsu đã cải tử hoàn sinh ông Ladarô gây hoang mang cho các bậc Thượng tế trong Đền Thờ và làm cho nhiều người bỏ họ mà chạy theo Đức Giêsu; thêm vào đó, Ngài còn được toàn dân ủng hộ đón rước như một vị Vua với những lời tung hô “vạn tuế Vua dân Do Thái, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa!”. Các sự việc này gây phẫn nộ và tạo cơ hội cho đám người Pha-ri-sêu thực hiện chương trình mưu sát kẻ xách động quần chúng. Đến lúc phải chọn lựa: đối với đoàn kỳ mục, các thượng tế và kinh sư thì vụ án này được chấp thuận; còn dân chúng thì lập trường hay thay đổi (nay ủng hộ, mai đả đảo); và ngay cả trong giới lãnh đạo Do Thái cũng có một số người đã tin vào Đức Giêsu, nhưng họ không dám xưng ra, vì sợ bị nhóm Pharisêu khai trừ khỏi Hội Đường, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh quang của Thiên Chúa (Ga 12,43).

Chính trong bối cảnh này mà có mấy người Hy Lạp đề nghị ông Philípphê và Anrê dẫn họ đi gặp Chúa Giêsu. Đức Giêsu là ai? Vị ngôn sứ này là người thế nào (?) mà có biết bao lời đồn đãi xấu có tốt có làm phấn khởi giới hạ lưu và làm run chuyển giới lãnh đạo buộc những người này phải ra tay đối phó. Cho dù tình trạng có sôi động cũng không ngăn cản đuợc ý định của những nhà thám hiểm điều vô tận: họ muốn được nhìn tận mắt, nghe tận tai, thấu hiểu sứ điệp cũng như những công trình và dấu chỉ xác thực kể cả bản thân của vị ngôn sứ đó! Họ đến thật đúng lúc, vì đã đến giờ kết thúc sứ mệnh: đấy là giờ của sự thật, giờ mà tội lỗi của trần gian dẫn đưa Đức Giêsu đến thập giá, và cũng là giờ mà thập giá đó lại trở thành bệ ngai của vinh quang.“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh“. Tuy Phúc Âm không nói đến phản ứng của những người Hy Lạp này, nhưng luận thuyết của Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời mới về sự sống vĩnh cửu: “hạt lúa gieo vào lòng đất sẽ mang lại nhiều hạt khác“ và “khi Con Người được giương cao lên khỏi mặt đất thì Ngài sẽ kéo mọi người lên với Ngài“.

Qua cuộc khổ nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu mạc khải cho nhân loại biết rằng Thiên Chúa là Tình Yêu, một tình yêu tột độ, vì “không có tình yêu nào cao trọng bằng dâng hiến mạng sống cho người mình yêu“. Luật chủ yếu của Thiên Chúa là luật của hạt lúa: “nếu hạt được gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác“. Chúng ta không cần suy nghĩ viễn vông mà chỉ cần đặt mình trước Thập giá và nhìn ngắm, lúc đó ta sẽ hiểu thế nào là yêu thương thật sự, thế nào là chết đi để phát sinh sự sống; cũng như ta cứ gieo hạt vào lòng đất và chờ đợi nó mọc lên cây thì sẽ hiểu thế nào là đau thương trong gieo vãi và gặt hái trong hân hoan; cũng như các Thánh nhân hoặc những anh hùng: họ hy sinh vì chân lý, tranh đấu cho chính nghĩa, tuy chết đi nhưng vẫn sống mãi trong lòng Giáo Hội và Dân Tộc, ngàn đời Lịch Sử vẫn truyền tụng họ. Vì thế, cái chết thật sự không phải là cái chết thể chất mà chính là từ chối yêu thương, không biết hy sinh chỉ sống lẻ loi ích kỷ “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời“

Muốn thật sự đứng về phía sự “sống”, ta nên hành động như những người Hy Lạp kia luôn khát khao tìm kiếm chân thiện mỹ, tức nhiên “phải tìm gặp Đức Giêsu”. Cần tận dụng tất cả trí khôn tâm sức để hiểu biết, yêu thương và phục vụ, sống không vì lề luật tỉ mỉ hình thức, nhưng vì một Người, Đấng đang kêu gọi và sai đi, đang đối thoại và sống hiệp thông. Phải thành tín và đam mê, ta mới thiết lập được với Thiên Chúa một giây liên đới tâm đầu ý hiệp, như lời Thánh Vịnh hôm nay: “xin Chúa dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan... xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy”

Chúng ta có phải thuộc về nhóm người muốn đi gặp Đức Giêsu? Tuy nhiên, ai đã tìm gặp Ngài cũng vẫn còn phải tự chất vấn, bởi vì: giới Pha-ri-sêu đã thấy và nghe nhưng không tin theo Ngài; bậc kỳ mục đã tin nhưng không dám nhìn nhận Ngài; dân chúng đã tin và theo Ngài nhưng không đi đến cùng.

“Chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu”. Ta nên thường xuyên đến gặp gở Ngài qua các Bí Tích, qua việc học hỏi Phúc Âm để khám phá điều mới lạ và chấp nhận dấn thân trong một thế giới và thực tại mà Ngài muốn cho ta khám phá. Bước theo Ngài là chấp nhận những nguy cơ mà chính Ngài đã đảm lấy, từ sự hiểu lầm của những tín đồ đến sự chống đối và lên án của giới hữu trách. Dấn thân theo Ngài là chết cho những tham vọng ích kỷ, tư lợi vật chất, dự tính phàm trần, chết cho những gì gọi là ưu tiên của riêng mình nhưng lại quá xa cách những hệ trọng cấp bách Phúc Âm. Ta phải chọn hoặc thủ lãnh thế gian hoặc Đấng đã bị đóng đinh. Chắc hẳn đến một lúc nào đó, sẽ có người đến hỏi chúng ta, như những người Hy Lạp đến hỏi Philípphê và Anrê “chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu”. Vậy chúng ta sẽ có đề nghị gì cho những người đó?

home Mục lục Lưu trữ