Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 54
Tổng truy cập: 1377304
MẦU NHIỆM NHẬP THỂ
Mầu Nhiệm Nhập Thể – ĐGM. Nguyễn Sơn Lâm.
"Tình yêu" là hai tiếng nói luôn ở trên môi miệng và trong con tim của nhân loại, hai tiếng nói căn bản và thâm sâu nhất của cuộc sống.
Sinh ra, lớn lên và chết đi, lúc nào con người cũng mong đợi tình yêu.
Có tình yêu, con người hết là những viên đá nằm lạnh lùng bên cạnh nhau trên một con đường, những thân cây vô tri vô giác mọc lên trong một đám rừng hay những con vật đi ăn chung thỉnh thoảng cắn xé nhau để tranh miếng mồi ngon.
Tình yêu khiên con người không những sống gần nhau, mà còn đi vào cuộc đời của nhau, chấp nhận chia sẻ từ miếng cơm manh áo cho đến tâm tình ý tưởng của nhau, cùng vui, cùng khổ, cùng lao động, cùng phấn đấu và vươn lên thoát khỏi nô lệ và vong thân trong xã hội. Tình yêu là ánh sáng chiếu dọi, là sức nóng sưởi ấm giúp con người triển nở trong hạnh phúc.
Tình yêu là động lực thúc đẩy con người đến với nhau, gắn bó với nhau, để tất cả nên một: một lòng, một trí, một ý chí, một cuộc đời.
Thánh Kinh luôn khẳng định Thiên Chúa thương yêu con người cách đặc biệt. Tình yêu ấy khiến Thiên Chúa đến với con người, trước khi con người đến gặp Thiên Chúa.
Tình yêu được biểu lộ trong lịch sử, biến lịch sử thành môi trường cứu độ, nơi gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa.
Những chương đầu của sách Sáng thế cho thấy Yavê sống thân mật với con người, ngay từ khi con người được tạo dựng. Ngài đi dạo mát với con người trong vườn Eđen, Ngài chăm sóc sức khỏa và đời sống của con người. Ngài cho con người hưởng các hoa quả, cho con người một bạn đường. Ngài đối thoại thân mật với con người.
Sách Sáng thế còn cho thấy Ngài đến với con người qua dấu hiệu của thời tiết. Nhưng đặc biệt Ngài đã đến viếng Abraham và ban cho ông lời hứa. Ngài đã ký kết với Abraham một giao ước tình yêu và nhất quyết thi hành Giao ước đó. Ngài để ý đến nỗi khổ của ông: tuổi đã già mà không có con nối dõi tông đường. Ngài đã cho ông một miêu duệ lớn gấp trăm ngàn lần mong muốn.
Khi con cháu Abraham chịu khổ cực và bị áp bức trong nước Aicập ngoại bang, Ngài đã đến để giải phóng họ và Ngài muốn chọn Maisen - một người có lòng yêu nước nồng nàn - Ngài đã gọi Maisen lúc ông bị đuổi bắt và chạy trốn vào sa mạc, vì đã giết chết một người ngoại bang để bênh vực cho kẻ đồng hương.
Với Maisen, Thiên Chúa cũng đã ký kết một giao ước và từ đó thiết lập một dân riêng làm chứng cho Ngài giữa muôn nước.
Trong sa mạc, Thiên Chúa luôn hiện diện. Hòm bia thánh là dấu hiệu sự gần gũi: ở giữa và ở gần kề. Qua đám mây và cột lửa, chính Ngài hướng dẫn họ suốt cuộc hành trình.
Sự hiện diện của Chúa là sự hiện diện giải phóng. Ngài cứu dân khỏi lầm than đau khổ và giúp họ chiến đấu với kẻ thù để sống còn và tiến dần vào Đất hứa.
Khi dân Chúa đã sống ổn định và thiết lập một vương quốc bình an thịnh vượng, Chúa vẫn hiện diện và bảo đảm cho sự trường tồn và hạnh phúc của họ. Đavít muốn xây cho Chúa một đền thờ, nhưng Ngài muốn hiện diện ở giữa lòng dân. Qua lời sấm Nathan, Ngài chưa bao giờ có ý nghĩ đòi dân xây cho mình một đền thờ bằng gạch đá như các thần minh của dân ngoại. Chính dân là đền thờ Ngài ngự. Và Đền thờ đó do Ngài xây dựng, chứ không phải do tay con người làm nên. Chính Chúa tạo ra một Đền thờ đích thực; đó là dòng dõi, là con cháu Đavít; và qua những con người sống thực thuộc dòng dõi ông, Ngài sẽ hiện diện trong lịch sử loài người.
Với Đavít và miêu duệ ông, Thiên Chúa càng ngày càng gần gũi với nhân loại. Ngài tác động trên lịch sử loài người và đặc biệt trong lịch sử dân riêng Ngài. Ngài hướng dẫn và thanh luyện dân Ngài qua những biến cố đau thương như thất trận, lưu đày... Ngài răn bảo và thúc giục... đôi khi Ngài phẫn nộ - nhưng Ngài cũng an ủi vỗ về và hứa hẹn một thời kỳ vui mừng tràn lan ơn cứu độ. Dụng cụ Chúa thường dùng chính là "lời nói" và "cuộc sống" các tiên tri.
Ngài thương dân như cha yêu thương con cái, như mẹ bế bồng nâng niu, như mục tử chăm sóc đoàn chiên.
Nhưng Thiên Chúa như chưa bằng lòng với những gì Ngài đã làm cho dân. Ngài muốn đến cư ngụ với dân, không chỉ như một thần linh vô hình, nhưng chấp nhận hoàn toàn thân phận con người và chia sẻ trọn vẹn kiếp sống của nó. Thiên Chúa trở thành Người như mọi người. Ngài bị ràng buộc bởi thời gian và không gian. Ngài sẵn sàng đón nhận những khắc khoải lo âu của cuộc sống. Ngài cũng ăn, uống, lao động, phấn đấu cho đời sống vật chất như mọi người. Ngài cũng vui, cười và than khóc như những ai khác. Ngài chấp nhận mọi giới hạn và ngay cả cái chết là giới hạn sau cùng và quan trọng nhất của con người.
Giêsu, con của Maria và Giuse thuộc dòng dõi Đavít là chính Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Nhưng Ngài cũng là con của trần thế, con của một dân tộc, con của người Trinh nữ nghèo nàn sống ở Nadarét.
Đó là khía cạnh huyền diệu nhất của mầu nhiệm Nhập thể! Chúa muốn làm con của trần thế, để ta nhận ra gương mặt đích thực của Ngài, một tình thương thực tế không viễn vông, không lý thuyết Ngài không là "kẻ thuộc thế giới xa lạ". Theo Ngài không phải để đi về thế giới ảo tưởng nào khác, nhưng để sống tình yêu chân thật.
Maria thụ thai Đức Giêsu là nhân loại thụ thai Đức Giêsu! Maria hạ sinh Đức Giêsu là nhân loại hạ sinh Ngài. Bài Phúc Âm Luca 1, 26-38 ví Maria như thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel dân Chúa. Thiên Thần kêu mời Maria hãy vui lên vì sắp sinh quý tử. Đó cũng là lời loan báo niềm vui cho nhân loại: chính từ nhân loại mà phát sinh một con người toàn thiện xứng đáng làm Trưởng tử giữa muôn loài.
Mầu nhiệm Nhập thể là tột đỉnh của sự gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa: Thiên Chúa đến viếng thăm dân Người khiến từ lòng dân nảy sinh Đấng Cứu độ. Chồi cây Yêsê do Thiên Chúa vun trồng đã nở hoa.
Đức Giêsu là bí tích, là dấu hiệu, là điểm gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Đức Giêsu là nơi hội tụ của tình thương giữa Thiên Chúa và dân Người: Ngài vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa, vừa là tiếng đáp trả của nhân loại.
Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu là một con người cụ thể, với những nét đặc thù và sống động. Nhưng Đức Giêsu còn là Con của Chúa Cha. Từ lúc sinh ra cho đến khi chết, mọi hoạt động của Ngài đều do Thánh Thần của Chúa Cha thúc đẩy. Lc 1,35 nhấn mạnh đến sự can thiệp của Thánh Linh: "Thánh Thần sẽ đến trên Cô và quyền năng Đấng Tối cao trên Cô rợp bóng".
Thánh Thần Thiên Chúa đã hoạt động trong lịch sử trước ngày Đức Giêsu sinh ra. Nhưng Ngài đặc biệt hiện diện trong cuộc đời Giêsu. Và nhờ quyền năng Thiên Chúa, Giêsu tuy phải chết như mọi người, đã sống lại và chiến thắng sự chết, báo hiệu "phần số" tốt đẹp Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Đức Giêsu sống lại được Chúa Cha ban trọn vẹn Thánh Linh và chính nhờ Thánh Linh mà Đức Giêsu hiện diện giữa dân Ngài "mọi ngày cho đến tận thế".
Nhờ Thánh Linh Đức Giêsu vẫn ở giữa loài người, không phải chỉ cách đây hai ngàn năm, mà Ngài vẫn hiện diện, vẫn sống giữa nhân loại hôm nay. Giáo hội là nơi Ngài hiện diện bằng chính những hoạt động không ngừng của Thánh Linh Ngài ban. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện qua các sự kiện lịch sử và các biến cố. Ta có thể gặp Ngài và phải tìm Ngài trong đó. Ngài ra đi trở về cùng Cha, không phải để rời bỏ trần thế, nhưng để dễ dàng đồng hóa mình với mọi người sinh ra trong lịch sử, đặc biệt với những người bé mọn, những người đói khát, những kẻ tù đày... Matthêô cũng như Luca cho thấy sự hiện diện của Đức Kitô phục sinh và lên trời trở thành hữu hình trong người anh em: "Ta đói, các ngươi cho ăn, Ta khát, các ngươi cho uốn, Ta là khách trọ các ngươi tiếp rước, Ta mình trần các ngươi cho mặc, Ta đau yếu các ngươi viếng thăm, Ta ở tù các ngươi đến với Ta" (Mt 25,35-36).
Đức Kitô vẫn luôn ở giữa chúng ta. Chúng ta sẽ nhận ra Ngài khi cử hành nghi lễ bẻ bánh, khi lắng nghe lời Ngài, khi thao thức tìm Ngài trong các dấu chỉ của thời đại. Chúng ta sẽ tìm được Ngài khi nhìn vào những người anh em sống gần kề ta. Ngài ở cạnh ta, cùng xây dựng xã hội và môi trường với ta. Với Ngài, ta sẽ góp công biến đổi trần thế thành Đất mới, Trời mới, thực hiện lời thánh Phaolô: "Tất cả thuộc về anh em, anh em thuộc về Đức Kitô, Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa".
BÀI GIẢNG
Càng gần lễ Giáng sinh, công việc chuẩn bị của chúng ta lại càng gấp rút. Tôi ca ngợi thiện chí và nỗ lực của mọi người. Xin Chúa chúc lành cho tất cả mọi cố gắng của chúng ta, để lễ Giáng sinh năm nay được chan hòa ơn thánh.
Nhưng chính trong bầu khí nhiệt liệt chuẩn bị Đại lễ Giáng Sinh này, mà các bài sách Thánh hôm nay muốn nâng bổng tâm hồn chúng ta lên, để thay vì chỉ mải miết thu dọn những công việc bề ngoài, chúng ta biết tìm dịp chiêm ngưỡng những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho chúng ta.
Quả vậy, khi Đavít suy tính sắp sửa xây cất cho Chúa một đền thờ xứng đáng, Người đã sai tiên tri Nathan đến thưa nhà vua rằng: Chính Người sẽ xây cho nhà vua một nhà, một họ, một dòng tộc để tồn tại muôn đời. Hôm nay Chúa cũng muốn bảo chúng ta, những người đang làm hang đá, dọn máng cỏ cho Chúa rằng: chúng ta hãy chú ý đến những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho ta. Ngài sai sứ thần Gabriel đến báo tin cho Maria biết: Ngôi Lời muốn trở thành nhục thể, Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Đó là sứ điệp của Chúa nhật hôm nay. Sứ điệp ấy gửi đến để ta đón nhận, suy niệm rồi thực hành, để Chúa có thể đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong thời đại này, trên quê hương Việt Nam đang hình thành một nếp sống mới.
Trước hết chúng ta hãy đón nhận Tin Mừng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Dĩ nhiên Người không còn đầu thai nữa như xưa kia ở trong lòng Trinh nữ Maria. Nhưng Người vẫn còn muốn đầu thai cách mầu nhiệm trong bí tích bàn thờ này, để được đầu thai trong tâm hồn chúng ta qua việc rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng ngày của chúng ta, hầu ai thấy đời sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh quang của Chúa mà ca tụng Ngài. Mầu nhiệm đầu thai qua bí tích Thánh Thể ấy không cần phải quảng diễn thêm.
Nhưng còn một cách nữa Chúa vẫn dùng để đầu thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là Lời Chúa khi đến với ta trong sức mạnh của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc trong Thánh Kinh có thể trổ sinh trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện và tốt đẹp. Ta sẽ trở thành con cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng dõi những người con Chúa trở thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến mọi biến cố xảy ra hàng ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón nhận như thánh ý Chúa, sẽ làm cho Nước Người được lan rộng; và như vậy Thiên Chúa lại như nhập thể ở giữa chúng ta.
Do đó thật là chủ bại khi nghĩ rằng thế giới càng ngày xấu đi; đời sống chẳng còn nghĩa lý gì nữa; và nói đến tương lai mà làm gì! Nhưng người có đức tin không thể nghĩ như thế. Tinh thần mùa Vọng nhắc nhở: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ngài muốn đời sống con người thật đáng sống. Và vì Thiên Chúa đã đầu thai trong lòng một Trinh nữ bình dân, nơi một điểm nhỏ bé trên bản đồ thế giới, đang buổi suy yếu của dân tộc Dothái, chúng ta càng có quyền hy vọng tràn trề khi hoàn cảnh chung quanh dường như không đáng lạc quan. Chính nơi Thập giá đã có ơn cứu độ chúng ta. Chính máu chảy ra ở trên đó đã rửa sạch ta để ta trở nên con cái Chúa. Như vậy, có gì phải bi quan? Tất cả, ngược lại, như đang có thể kéo ơn cứu độ xuống. Và ở bất cứ hoàn cảnh nào, ơn Chúa nhập thể vẫn có thể đến để phục hồi tất cả.
Chúng ta chỉ cần noi gương một Đavít và một Maria. Đavít đã biết quên mình để nghĩ đến Chúa. Maria cũng đã tự xưng là nữ tì để thi hành hết mọi ý định của Đấng mình tôn thờ. Chúng ta nhiều khi không sống như vậy. Chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều, nghĩ đến sự sống của bản thân, và không quan tâm đến Nước Chúa và đến tương lai của dân tộc dủ. Chúng ta tìm sự sống mình, như lời Phúc Âm nói. Nhưng cũng như Phúc Âm đã nói tiếp: chúng ta sẽ mất sự sống ấy. Còn ai tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính trước, sẽ được ban cho tất cả sau. Làm sao tương lai có thể đẹp được, khi ai ai cũng chỉ biết nghĩ đến cá nhân của mình? Ngược lại khi người ta nghĩ đến công ích, làm việc cho công bình bác ái ngự trị, thì những khó khăn hiện tại sẽ khắc phục được dễ dàng. Đavít đã không nghĩ đến mình, Đức Maria cũng thế. Nên Thiên Chúa đã tìm được người cộng tác để thực hiện công trình của Người, ở trần gian, là chính Người sẽ nhập thể để mang hạnh phúc đến cho loài người.
Thế thì hôm nay và những ngày sắp tới, đang khi hân hoan sửa soạn mừng lễ Giáng sinh, chúng ta cần nhất phải mở rộng tâm hồn để đón nhận hồng ân của Chúa đang đến với chúng ta. Ngài dùng Lời Thánh Kinh và Bánh Thánh Thể để đi vào trong tâm hồn ta, biến ta nên con người muốn sống như Chúa; và như vậy Ngài đang muốn nhập thể tiếp nối cuộc đời của Ngài ở nơi ta. Ngài dùng mọi biến cố xảy đến hằng ngày, kêu gọi ta đón nhận như Thánh ý Ngài gửi đến, để ta hợp tác thi hành trong tinh thần xã hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài có thể tràn lan trong thế gian, khiến Chúa ở trong mọi sự và mầu nhiệm nhập thể được kiện toàn. Điều cần hơn hết là chúng ta luôn phải tin vững vàng rằng: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Người muốn sống giữa trần gian. Ngài kêu gọi ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập thể với Ngài. Chúng ta có sẵn sàng đem tinh thần Phúc Âm vào thế giới để đáp lại Lời mời gọi đó không?
Nguyện chúc tất cả anh em được như vua Đavít và Đức Maria: sẵn sàng trở thành cộng sự viên của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể vì yêu thương trần gian.
Đức Mẹ Mùa Vọng
Chúng ta còn lạ gì: mục đích của mùa Vọng không phải chỉ là để đi đến Mầu nhiệm Giáng sinh vì Chúa Cứu thế đã giáng sinh rồi không còn phải trông đợi theo kiểu dân Dothái ngày trước nữa. Nhưng mùa Vọng vẫn lấy lễ Giáng sinh làm một điểm tựa chắc chắn để lao mình về đàng xa, về ngày Chúa quang lâm tái giáng. Mùa Vọng nhìn vào mầu nhiệm Chúa Giáng sinh để chắc chắn về mầu nhiệm Chúa sẽ đến và mùa Vọng gợi lại thời gian trông đợi ngày trước để kiện toàn tinh thần trông đợi ngày nay. Nói vắn tắt, mùa Vọng muốn hiện đại hóa thời gian Cựu Ước để hoàn tất thời kỳ Tân Ước. Trong mùa này, chúng ta được mời gọi kết thúc lịch sử để đưa nó sang đời sau. Vinh dự cho chúng ta biết bao được cộng tác vào công cuộc vĩ đại và đẹp đẽ này.
Và cũng như Cựu Ước ngày trước đã được kết thúc một cách tuyệt diệu nơi con người Đức Maria, trong mùa Vọng phụng vụ này Giáo hội cũng mời gọi ta chiêm ngưỡng Người như là khuôn mẫu phải đi tới. Người thật là bông hoa của Cựu Ước. Những cái tinh túy nhất của Cựu Ước đã đúc nặn nên Người. Ở nơi Người, ta có thể gặp lại tất cả lòng tin sâu xa của Abraham, lòng cậy của tất cả Ngôn sứ, lòng mến của tác giả các thánh vịnh. Thiên Chúa đã phải khôn ngoan nhẫn nhục dẫn đưa lịch sử dân Người và lịch sử thế giới để tạo nên được một con người như thể để Ngôi Hai Thiên Chúa có thể giáng trần.
Nếu quả thật trong bao ngàn năm lịch sử, "vạn phương khát vọng từ vân vũ hóa nhi" thì phải đợi đến khi Maria xuất hiện, người ta mới thấy "nhất phiến cổ hoài tịnh thổ sản phúc quả", nghĩa là mới tìm ra được một mảnh đất thanh sạch đón nhận đám mây từ nhân mưa Đấng công chính xuống. Đức Maria vì thế trở thành lý tưởng mà Giáo Hội và chúng ta phải đạt tới để chuẩn bị ngày Chúa trở lại.
Nhưng một lý tưởng bao giờ cũng phong phú có rất nhiều khía cạnh thâm thúy và sâu xa, không ai có thể nói lên được tất cả, huống nữa là nói lên trong một lúc. Tuy nhiên, mỗi lần nói, người ta vẫn ước vọng có thể khơi lên ở nơi người nghe một cảm tình mộ mến dẫn sang một thích thú muốn tìm hiểu thêm. Và đó là tham vọng của phụng vụ trong mùa này khi gợi lên cho chúng ta thấy một vài nét trong cuộc đời của Đức Mẹ.
Chúng ta đừng thấy lễ Vô Nhiễm là lễ Đức Mẹlà lễ Đức Mẹ lớn nhất trong mùa này mà vội tưởng đó là hình ảnh Đức Mẹ phải tập trung mọi cái nhìn suy niệm của ta. Không, mùa Vọng không đặt ra lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Lễ này cũng đã được đặt ra phải vì mùa Vọng. Giáo hội La Mã vẫn có óc lịch sử và pháp luật, thấy rằng đã tưởng niệm cuộc đời của Chúa trong các mầu nhiệm nào thì cũng phải nên tưởng niệm cuộc đời Đức Mẹ trong các mầu nhiệm ấy; đã mừng việc Chúa đản sinh và đầu thai, thì cũng nên mừng sinh nhật và đầu thai của Mẹ. Và hai sự kiện mầu nhiệm phải cách nhau 9 tháng. Lễ sinh nhật Mẹ đã được đặt vào ngày 8 tháng 9 rồi, thì lễ Người đầu thai vô nhiễm phải đưa lên 9 tháng trước tức là phải mừng vào ngày 8 tháng 12.
Các nhà làm lịch lễ dường như không để ý đến mùa Vọng khi đặt ra lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, nhưng đặt rồi họ mới thấy đây là một sự trùng hợp có ý nghĩa. Có lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, mùa Vọng Kitô giáo trở thành hân hoan chắc chắn, khác với mùa Vọng của Dothái ngày xưa. Thuở trước, các linh hồn thánh thiện vẫn chờ mong ngày thực hiện lời của Thiên Chúa tình yêu trong vườn địa đàng: một người nữ sẽ sinh ra một dòng dõi đạp dập đầu con rắn. Người nữ ấy là ai? Bao giờ Người xuất hiện để cho chúng tôi được nhìn thấy ơn cứu độ? Các thế hệ Cựu Ước dường như lúc nào cũng hỏi nhau câu ấy. Có lần, đàn thiếu nữ Sion tưởng đã có thể nhảy múa hân hoan vì kìa bà Yuđích cắt đầu địch thủ đang trở về. Lần khác họ lại tưởng Esther trong vai trò cứu nguy dân tộc sẽ là người nữ cần trông đợi... Nhưng rồi họ vẫn phải chờ, chờ mãi... Mùa Vọng của họ dường như thiếu bảo chứng.
Nhưng nay, lễ Đức Mẹ hiện lên bầu trời mùa Vọng Kitô giáo, sự trông chờ của chúng ta đã có bảo đảm rõ rệt. Vì thế chúng ta có thể hân hoan chắc chắn. Người nữ vô tì ố đã xuất hiện thì ơn cứu độ cũng đã đến. Chúng ta chưa được nhìn thấy Chúa Cứu Thế, nhưng việc Người đến không còn hồ nghi được nữa. Maria thật là vì Sao Mai mọc trước Mặt Trời. Mùa Vọng Kitô giáo chắc chắn và hân hoan làm sao!
Nhưng ta vẫn phải nói, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm đã không được đặt ra vì mùa Vọng; mùa Vọng sung sướng đón nhận lễ này nhưng lễ này không phải là mục tiêu mà mùa Vọng muốn tập trung những cái nhìn suy niệm của toàn dân Chúa hướng vào. Phụng vụ Giáo hội muốn cho chúng ta có một cái nhìn rộng rãi hơn về địa vị của Đức Maria trong bầu khí mùa Vọng. Ngay từ đầu, phụng vụ mùa Vọng của Giáo hội đã muốn cho hình ảnh của Người chan hòa khắp trong nếp sống chờ mong của toàn dân Thiên Chúa. Giáo hội chỉ chờ mong với Người và bằng cách nhìn vào Người. Nói cách khác, hình ảnh Đức Maria không phải chỉ chiếm một ngày trong mùa Vọng, nhưng hằng ngày trong suốt mùa phụng vụ này, Giáo hội phải sống với Đức Maria, phải nhìn ngắm Người và trông đợi với Người.
Kể ra làm gì những bản kinh phụng vụ mùa Vọng gián tiếp hoặc trực tiếp nói về Đức Maria; các bản văn ấy bây giờ đổi theo hằng năm. Nhưng cứ bỏ các kinh ấy đi mà xem, mùa Vọng phụng vụ sẽ không còn nữa. Điều đó chứng tỏ hình ảnh Đức Mẹ thật đã được gắn liền với mùa Vọng. Chúng ta sẽ có lợi hơn nếu để giờ tìm hiểu vì sao Đức Trinh Nữ Mẹ chúng ta lại thiết yếu cho tinh thần mùa Vọng như thế, vì như vậy, chúng ta mới biết được thâm ý của phụng vụ, hầu mới biết sống được cái cốt yếu.
Tinh thần mùa Vọng như chúng ta biết nhắm thẳng về đàng trước, chờ đón mầu nhiệm Chúa trở lại. Tinh thần đó không thụ động, mặc cho ai muốn làm mưa làm gió ở trần gian này. Trái lại, đó là tinh thần của các ngôn sứ ngày xưa không thể ngồi yên khi thấy các bất công xã hội và thấy các liên minh chính trị bàn truyện thế giới như thể không còn có một sức mạnh vô hình nào bá chủ hoàn vũ. Giáo hội biết trong giai đoạn lịch sử này những người con Chúa phải tỉnh thức, phải giũ bỏ cuộc đời đen tối và bước đi trong ánh sáng để càng ngày càng đi tới thời đại huy hoàng của Đức Kitô. Thế mà Giáo hội biết không mẫu người nào đã chuẩn bị ngày Chúa đến viếng thăm một cách đắc lực như Trinh nữ Maria. Kể cả các ngôn sứ. Họ còn là những người trỏ tay vào Maria để chờ đón ngày Người xuất hiện. Hơn nữa Giáo hội còn biết rõ Đức Maria không phải chỉ là gương mẫu chờ đợi và chuẩn bị trong quá khứ, Người đang còn chờ đợi và chuẩn bị với chúng ta với tư cách là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Chỉ có những thứ thần học nông cạn mới không biết đến điều đó; mới nghĩ rằng Đức Kitô đã chấm dứt mọi hoạt động của Người khi trút hơi trên Núi Sọ và mới quyết rằng Đức Mẹ đồng trinh của Người cũng chỉ đồng công cứu chuộc đến có khi ấy. Ngược lại, những thứ thần học chân chính đều thấy việc Đức Kitô tắt thở trên Núi Sọ chỉ là giai đoạn Ngài phải vượt qua để có thể hoạt động hữu hiệu hơn ở ngoài những ràng buộc của không gian và thời gian; Ngài phải từ bỏ xác thịt yếu đuối để hoạt động mạnh mẽ bằng Thánh Thần Ngài sẽ tuôn đổ xuống trên Giáo hội; vì Thánh Thần tuôn đổ này chính là Thần Linh của Ngài. Những thứ thần học sâu xa đó cũng nhận thấy ngay, lúc đứng ở chân Núi Sọ, Đức Maria không những chưa chấm dứt vai trò đồng công cứu chuộc của Người, nhưng ngược lại, chính khi đó, Người mới bắt đầu trở nên Mẹ của Yoan, tức là của Giáo hội. Chính vì vậy mà tác giả sách Công vụ các Tông đồ cho ta thấy Giáo hội ngay từ thuở sơ khai đã cầu nguyện và sinh hoạt với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu.
Chúng ta muốn nhìn thấy các hoạt động cụ thể của Đức Mẹ ư? Sao chúng ta không muốn biết như thế về hoạt động của Đức Kitô hiện nay ở trong Giáo hội. Cả hai Ngài vẫn nội tại với đời sống hiện nay của thế giới, nhưng không hiện diện như thân thể chúng ta đang sống. Theo tục ngữ Việt Nam có thể bảo: người ta hiện nay sống thì khôn, còn các Ngài hiện nay đã thác thì thiêng. Khôn thì ở một bình diện, còn thiêng lại ở bình diện cao hơn và cao hẳn. Không phải những trí óc khôn ngoan đang dẫn đưa lịch sử của thế giới này, nhưng chính là những bậc thiêng liêng huyền bí. Không phải chúng ta đang xếp đặt thời gian sẽ đến nhưng chính Đức Kitô, chính vị đồng công cứu chuộc với Ngài đang âm thầm nhưng mạnh mẽ hành động qua chúng ta và muốn chúng ta cộng tác vào, vì cũng như ngày trước, đất có sẵn thì mây trời mới mưa Đấng công chính xuống.
Muốn biết chúng ta phải cộng tác chuẩn bị bằng cách nào sao? Phụng vụ mùa Vọng bảo chúng ta nhìn vào Đức Mẹ. Thánh Yoan trong sách Khải huyền cũng mơ thấy Giáo hội sau này trở thành người hôn thê kiều diễm, tức là người trinh nữ vẹn sạch mà dung nhan Đức Mẹ thể hiện ở trước mặt chúng ta. Trên khuôn mặt khả ái đó, Thiên Chúa đã để lại những nét luôn luôn hấp dẫn tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, mà Ngài muốn cho Giáo hội có trên nếp sống của mình. Một đôi mắt trong sạch không bao giờ dừng lại trên những gì dơ bẩn; một đôi môi dịu dàng chỉ có sẵn những lời êm ái; một dáng điệu tùng phục sâu xa tất cả những gì là của Chúa; một sự lanh lẹ không quản gian lao để đi cứu với Người... Mầu nhiệm dâng mình, mầu nhiệm đồng trinh, mầu nhiệm vâng theo ý Chúa, mầu nhiệm yên lặng trước nỗi nghi ngờ chính đáng của Giuse, mầu nhiệm đi thăm bà Elisabeth và nhất là mầu nhiệm kết hợp tận tụy và âm thầm làm tất cả những gì cần thiết để chờ đón Chúa: đó là những nét đã được ghi sâu trong cuộc đời, nên dung nhan của Đức Mẹ và mùa Vọng phụng vụ ước mong chúng ta chiêm ngưỡng và bắt chước.
Chúng ta cũng chỉ là những con người đang có một nếp sống âm thầm với những phận sự nhỏ nhặt, nhưng tất cả những sự âm thầm nhỏ nhặt ấy lại là những yếu tố mà Thần Linh hiện nay đang muốn dùng để xây dựng Nước Trời, để chuẩn bị việc Chúa Kitô tái giáng. Thật là tuyệt diệu nếu chúng ta cũng biết sống và làm những công việc ấy như Trinh nữ Maria, với cái nhìn trong sạch, với các nụ cười hiền dịu, với các lời lẽ từ tốn, với lòng nhiệt thành không sợ gian nan... như dung nhan của Người đang cho chúng ta thấy. Cuộc đời của chúng ta sẽ nên như cuộc sống của Người và khuôn mặt của Giáo hội sẽ đang vẽ lại dung nhan Đức Mẹ mùa Vọng.
27. Thiên Chúa, Đấng trung tín
Anh chị em thân mến,
Trên đời này, chữ tín rất quan trọng; có chữ tín người ta mới dễ dàng thành công trong công ăn việc làm. Chúng ta thử nhìn ra giữa chợ, phố xá: vì chữ tín, người ta dám cho nhau vay, cho mượn hàng trăm triệu đồng không cần thế chấp, giấy tờ. Điều đó đủ minh chứng chữ tín vô cùng quan trọng...
Trong kho tàng văn học Pháp, có một câu chuyện ngụ ngôn: Một em nhỏ tính tình không tốt, em lại thích gạt gẫm người khác...Một hôm, em từ bìa làng chạy vào, vừa chạy vừa la thất thanh: chó sói, chó sói...cứu tôi, cứu tôi! Người trong làng nghe la chạy ra, vừa chạy tay cầm theo gậy hèo để tiếp cứu; nhưng khi đến nơi mới biết bị em bé gạt. Họ tiu nghỉu bỏ ra về. Không lâu sau đó, một hôm em bé trở về làng, cũng la thất thanh và kêu cứu như thế. Lần này dân làng vì nhớ chuyện củ, nghĩ rằng lại bị em bé ngổ nghịch gạt nữa, nên không ra tiếp. Em bé bị chó sói cắn thật, đến mất mạng... Hôm nay, Hội thánh lại nói đến việc Thiên Chúa là Đấng trung tín hết lòng, đã hứa và đã thực hiện... Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Thiên Chúa, Đấng trung tín, đã hứa từ ngàn xưa trong Cựu Ước: Qua lịch sử ơn cứu độ, chúng ta biết Adam và Evà đã phạm tội, do đó đã đem lại hậu quả tai hại là hết mọi người đều phải chết. Dù vậy lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa không đành bỏ mặc con người phải chết đời đời, Người đã hứa sẽ tìm cách cứu vớt lại lỗi lầm đó, qua các Tổ phụ, các Tiên tri:
Trong vườn địa đàng, sau khi con rắn cám dổ Ông bà phạm tội, Chúa đã chúc dữ cho con rắn và phán: "Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người Nữ, giữa dòng giống mi và dòng giống người Nữ. Dòng giống đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì rình cắn gót chân Người..." (Stk 3, 15).
Thiên Chúa sai Isaia nói cùng vua Achaz rằng: "chính Chúa ban cho các ngươi một dấu lạ. Này đây Trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai, và đặt tên là Emmanuel."(Is 7, 14).
Ở chỗ khác, trong sách Mikêa: "Chúa phán thế này: phần ngươi, hởi Bêlem Epphrata, ngươi nhỏ nhất trong phần đất Giuda, nhưng từ nơi ngươi, sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel, Người có từ đời đời..."(Mic 5, 1)
Dân tộc Israel, (Do thái) được coi là dân riêng Thiên Chúa tuyển chọn, để Người thực hiện Lời Hứa này; chính họ hiểu rõ Lời Hứa đó hơn ai hết, và họ luôn trông ngóng ngày giờ Thiên Chúa thực hiện Lời Hứa, một thời gian rất dài, từ Adam Evà cho đến khi Đấng Cứu thế giáng sinh. Kinh thánh kể là lối 2000 năm, nhưng thực tế lịch sử cho ta biết còn dài hơn nhiều....
b/. Thiên Chúa, Đấng trung tín, khi đến thời đến lúc, Người sẽ thực hiện lời Người đã hứa:
Bài TM hôm nay tường thuật lại biến cố giáng sinh; Lời Thiên Chúa hứa qua chính Con Một của Ngài: "Nầy đây, một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai. Bà sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu, sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu David, Tổ phụ Người, Người sẽ cai trị nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Nguời sẽ vô tận." (Lc 1, 31-32)
Chính thánh Phaolô quả quyết: "khi xưa vì một người duy nhất đã sa ngã (Adam củ trong vườn địa đàng) mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, nay nhờ một người duy nhất (Adam mới: Đức Giêsu Kitô) đã thực hiện lẻ công chính, mà mọi người được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống (Roma 5, 18).
Câu chuyện: Có một giai thoại hài kể lại: người ta nói rằng: người Mỹ là người nói trước làm sau, nghĩa là nói là làm, rất uy tín. Người Nhật còn dữ dội hơn; họ làm trước nói sau, nên không bao giờ mất uy tín. Còn người VN chúng ta, thì sao biết không? Thưa: nói một đàng làm một nẻo. Xin lỗi anh chị em, nói câu này không biết có bị chưởi bới và bị kết án như Đức Tổng Kiệt không?
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thiên Chúa yêu thương con người chúng ta, điều này ta thật dễ hiểu. Nhưng nói Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người luôn giữ lờiNgười đã hứa, nhất là với con người chúng ta, điều này xem ra không dễ hiểu tí nào. Vì do tội nguyên tổ, con người chúng ta hay thay lòng đổi dạ, ít khi trung tín với nhau. Vậy mà qua mầu nhiệm giáng sinh, Thiên Chúa tỏ ra vô cùng trung tín. Trong mùa giáng sinh này, xin cho mọi người kitô hữu hiểu được điều đó, để sẳn sàng đáp lại tình yêu vô bờ của Thiên Chúa.
28. Hãy là nhịp cầu đưa Chúa đến với anh em
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Những cây cầu rất đắc dụng trong giao thông, giúp những người bị ngăn cách bởi khe suối, bởi sông sâu, biển rộng dễ dàng vượt qua trở ngại để gặp gỡ tiếp xúc với nhau.
Đơn giản nhất là những cây cầu khỉ chênh vênh vắt qua những con suối nhỏ giúp cư dân đôi bờ cách biệt có thể qua lại với nhau. Kiên cố hơn thì có những cây cầu bê tông nối liền các tuyến giao thông quan trọng, giúp người lữ hành vượt qua những con sông rộng đi đến được những phương trời xa. Đáng kể hơn phải nói đến những chiếc cầu dây văng hùng vĩ, băng qua những con sông và vùng vịnh rộng lớn, như cây cầu Golden Gate nổi tiếng, giúp cư dân hai bên bờ vịnh San Francisco có thể đến được với nhau thật nhanh chóng, dễ dàng.
Nhưng làm cách nào để xây dựng được cây cầu đặc biệt nối trời với đất, đưa Thiên Chúa đến với loài người và đưa loài người lại gần Thiên Chúa?
* * *
Từ ngày nguyên tổ phạm tội, quan hệ nồng thắm giữa Thiên Chúa và loài người bị cắt đứt. Tội lỗi khiến con người bị tách lìa và xa cách Thiên Chúa bằng một khoảng cách gần như bất tận.
Vì tự cách ly với Thiên Chúa là nguồn mạch hạnh phúc và ân sủng, con người phải héo hon và tàn lụi dần như thân phận của những chiếc lá lìa cành.
Nhưng Thiên Chúa là Cha giàu lòng yêu thương không nỡ để cho loài người phải vĩnh viễn xa lìa Ngài là cội nguồn sự sống. Ngài lên kế hoạch xây dựng một nhịp cầu vĩ đại, nối liền trời với đất, giao hoà Thiên Chúa với con người.
Để thực hiện kế hoạch nầy, Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến gặp Đức Maria, mời Mẹ cộng tác vào công trình hệ trọng nầy.
Sau khi biết ý định Thiên Chúa, với tinh thần sẵn sàng vâng phục của người tôi tớ, Đức Maria thưa với thiên thần rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền."
Từ lúc đó, Đức Maria trở thành nhịp cầu nối liền trời với đất, nhịp cầu kỳ diệu nhất trong lịch sử nhân loại. Thế là qua Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống với loài người, mặc lấy xác phàm và sống giữa nhân loại, để tỏ bày cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là Cha của mình và dẫn đưa họ về với Chúa Cha.
Một kỷ nguyên mới được khởi sự nhờ sự vâng phục và hợp tác của Mẹ Maria. Muôn người trên khắp thế giới ngót hai ngàn năm qua đã nhờ Mẹ mà được giao hoà với Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ do Đức Giêsu mang đến.
* * *
Tuy nhiên, cho tới hôm nay vẫn còn rất nhiều người chung quanh chúng ta chưa nhận biết Đấng Cứu Độ nên Thiên Chúa rất cần những nhịp cầu khác để đến với họ và đưa họ về với Ngài.
Thiên Chúa thiết tha mời gọi mỗi chúng ta hãy nối tiếp vai trò của Mẹ Maria, bắc thêm những nhịp cầu mới để đưa Chúa đến với những con người chưa biết Chúa đang sống chung quanh.
Mẹ Maria nhận thức phận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn nên đã mau mắn đáp lời Chúa mời gọi. Còn chúng ta là ai mà cứ mãi nấn ná chần chừ, chẳng muốn thi hành ý Chúa, chẳng muốn tuân lệnh Ngài truyền để trở thành nhịp cầu đưa Chúa đến với tha nhân?
* * *
Nguyện xin Chúa giúp chúng con noi gương bắt chước Mẹ Maria, nhận ra mình chỉ là tôi tớ hèn mọn, mà phận làm tôi thì không được làm trái mệnh lệnh Chúa truyền.
Nguyện xin Mẹ dạy chúng con mau mắn đáp lời Chúa mời gọi và thưa cùng Ngài: "Nầy tôi là tôi tớ Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền."
29. Quyền năng Chúa
Trong cuốn Linh Thao, thánh Ignatio đã gợi ý cho chúng ta suy gẫm về đoạn Tin mừng hôm nay gồm ba bước.
Bước thứ nhất là hãy tưởng tượng xem thế giới thời trước Chúa Giêsu ra sao. Chẳng hạn như dân chúng thì khô khan, hờ hững với Thiên Chúa. Sự xấu thì tràn lan như một ung bướu khổng lồ. Con người thì rơi vào một tình trạng tuyệt vọng.
Bước thứ hai là hãy tưởng tượng ra cách sứ thần Gabriel đến báo tin cho Mẹ Maria được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng cứu thế. Từ trời cao nhìn xuống, chúng ta thấy trái đất này chỉ là một đốm sáng nhỏ bé giữa muôn ngàn vì sao. Xuống gần hơn, chúng ta thấy một điểm trên địa cầu được gọi là Đất thánh. Và xuống gần hơn nữa, chúng ta thấy một ngôi làng mang tên là Nagiarét. Và sau cùng, chúng ta gặp được Mẹ Maria trong căn nhà ấy. Mẹ đang quì cầu nguyện.
Bước thứ ba là hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và Mẹ Maria. Chúng ta đặc biệt chú ý tới câu:
- Quyền năng của Đấng Tối cao sẽ bao trùm lên Mẹ.
Ba chữ “bao trùm lên” ít được Kinh thánh xử dụng, ngoại trừ trong sách Xuất Hành:
- “Bấy giờ có một đám mây bao trùm lên lều tạm, nơi dân Do Thái đặt hòm bia giao ước”.
Bao lâu đám mây ấy còn bao trùm lên lều tạm, thì lều tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Luca dùng ba chữ bao trùm lên không phải là không có dụng ý, vì nó gồm tóm một ý nghĩa sâu xa. Thánh Luca so sánh thân thể Đức Maria với lều tạm, nơi đặt hòm bia giao ước của Thiên Chúa, cũng như so sánh cung lòng Đức Maria, nơi Chúa Giêsu sẽ tới cư ngụ với hòm giao ước, nơi đặt hai phiến đá khắc ghi mười giới răn của Thiên Chúa.
Như thế, nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì chính Thiên Chúa thực sự hiện diện nơi Mẹ. Thế nhưng, sự hiện diện ấy lại vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài nơi lều tạm, bởi vì đó là sự hiện diện của một Thiên Chúa bằng xương bằng thịt.
Thực vậy, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta bằng nhiều cách, chẳng hạn như qua các tạo vật, bởi vì Ngài đặt để một cái gì đó thuộc bản thân Ngài nơi tạo vật, giống như một nhạc sĩ đã đặt để một cái gì đó thuộc bản thân ông trong dòng nhạc mà ông đã sáng tác.
Tiếp đến Ngài có thể hiện diện qua lời Ngài trong Kinh thánh giống như người nhạc sĩ hiện diện trong tiếng nhạc của ông.
Sau cùng, Thiên Chúa có thể hiện diện giữa chúng ta trong Đức Kitô, như người nhạc sĩ hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta trong một buổi trình diễn.
Và như thế, qua Đức Maria, chúng ta có quyền thắp lên một ánh lửa hy vọng, cho dù thế giới có hỗn độn, gia đình có xáo trộn, nhưng chúng ta vẫn vui mừng và hy vọng, bởi vì quyền năng của Thiên Chúa đã xâm nhập thế giới này qua con người Đức Kitô.
Còn chúng ta thì sao? Bước vào Chúa nhật thứ tư mùa vọng, chúng ta hãy tự hỏi xem, chúng ta đã làm được những gì để Ngài thực sự ngự vào tâm hồn chúng ta, như xưa Ngài đã ngự xuống nơi cung lòng Đức Trinh nữ Maria?
30. Xin vâng (1)
Gần kề với lễ Giáng sinh, Giáo hội muốn chúng ta chiêm ngưỡng khuôn mặt Mẹ Maria. Mẹ đã thưa lên lời xin vâng và đã trung thành với lời xin vâng ấy.
Chắc hẳn ngay từ những ngày tháng còn thơ ấu, bà thánh Anna và ông thánh Gioan Kim đã dạy cho Mẹ biết Thiên Chúa là một người cha nhân từ luôn yêu thương chăm sóc chúng ta, cho nên hãy tin tưởng phó thác nơi Ngài, đồng thời hãy khao khát trông đợi Đấng Cứu Thế. Mẹ sẵn sàng để Chúa hướng dẫn, cho dù không biết được con đường của Chúa sẽ dẫn tới đâu.
Thực vậy, bấy giờ Mẹ đã đính hôn cùng thánh Giuse và có lẽ hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Nhưng rồi Thiên Chúa đã chọn Mẹ. Sứ thần Gabriel đã tới thăm viếng và tỏ lộ cho Mẹ biết vai trò Thiên Chúa đã dành cho Mẹ, đó là trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế. Sau những giây phút ngạc nhiên và lo lắng, Mẹ đã thưa lên:
- Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Một lời xin vâng quyết liệt đã xoay chuyển toàn bộ cuộc đời của Mẹ. Chỉ ít lâu sau lời xin vâng này, Mẹ đã đau khổ rất nhiều trước thái độ nghi ngờ của thánh Giuse khi thấy Mẹ mang thai. Thế nhưng vì đã tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, nên Mẹ đã giữ sự im lặng, bởi vì chính Thiên Chúa sẽ làm sáng tỏ vấn đề và sẽ giúp cho thánh Giuse được hiểu.
Trong lúc Mẹ và thánh Giuse chuẩn bị ngày Chúa chào đời tại Nagiarét, thì Thiên Chúa lại nhìn sự việc một cách khác. Với lệnh truyền của hoàng đế, Mẹ phải xuống Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu và rồi Chúa Giêsu đã phải sinh ra trong cảnh nghèo túng của máng cỏ đêm đông.
Mỗi biến cố là một dấu chỉ nói lên thánh ý của Thiên Chúa. Trong từng giây từng phút và trong từng sự kiện suốt cả cuộc đời, Mẹ không ngừng xin vâng trước ý định muôn thuở của Thiên Chúa và thực hiện một cách trọn vẹn ý định thánh thiện ấy. Và đỉnh cao của lời xin vâng phải là đau khổ thập giá.
Đúng thế, Mẹ luôn kết hiệp với Chúa và chia sẻ những khổ đau Chúa phải chịu. Cũng như các Tông đồ, hẳn Mẹ đã được Chúa báo trước về cuộc tử nạn. Mẹ đã lắng nghe và ghi nhớ trong lòng.
Rồi khi cuộc tử nạn bắt đầu. Chúa hấp hối trong vườn cây dầu và Ngài đã phải kêu lên:
- Lạy Cha xin cất chén đắng này xa con, nhưng không theo ý con, một vâng ý Cha mà thôi.
Chúa cảm thấy như gánh tội lỗi đè nặng trên mình. Còn Mẹ mặc dù lúc ấy không có mặt trong vườn cây dầu, nhưng chắc chắn Mẹ cũng đã chia sẻ gánh nặng và những khổ đau của Chúa.
Rồi đêm hôm đó Chúa đã phải chịu biết bao nhiêu cực hình, nào là bị đánh đòn, bị đội mạo gai. Mẹ luôn kết hiệp với Chúa. Thân xác Chúa rách nát thì thân xác Mẹ cũng đớn đau Chúa đã kêu lên:
- Một vâng theo ý Cha mà thôi.
Mẹ cũng thưa:
- Này tôi là tôi tá Chúa.
Mẹ luôn xin vâng, dù gặp phải những hoàn cảnh đen tối và đau đớn nhất.
Và sau cùng là cây thập giá trên đỉnh đồi Canvê. Mẹ đã theo Chúa trên đường lên núi Sọ. Mẹ đã chứng kiến cảnh tượng quân lính đóng đanh Chúa. Và rồi Mẹ đã đứng lặng dưới chân cậy thập giá để chứng tỏ rằng Mẹ luôn kết hiệp và chia sẻ với Chúa. Và như vậy Mẹ đã đi cho tới tận cùng lời xin vâng của mình.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã có thái độ nào trong những giờ phút đau khổ và cay đắng, chúng ta đã phản ứng ra làm sao trước thánh ý của Thiên Chúa.
31. Xin vâng (2)
Có một người kia đã nói: “Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nỗi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuông sửng sốt. Thánh đức đến nỗi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen”.
Loài người muốn chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng không bao giờ được. Chúng ta phải chịu nhận lấy người mẹ mình như một số mệnh bắt buộc, như một cái may cái rủi, tốt ai nấy được, xấu ai nấy chịu. Không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài đã sinh ra bởi một người được lựa chọn. Ngài đã chọn người mẹ sinh ra mình. Một người con chọn một người mẹ. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không chọn một cách độc đoán. Ngài không yêu cầu người phụ nữ được chọn phải làm theo ý Ngài vô điều kiện. Nhưng Ngài rất tôn trọng tự do của người phụ nữ ấy, và muốn người phụ nữ ấy hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Nói cách khác, Thiên Chúa đã nhất định chọn một người phụ nữ để làm mẹ mình. Nhưng Ngài cũng muốn để cho người phụ nữ ấy chọn mình làm con nữa. Vì thế, sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người phụ nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phúc, Ngài đã sai một sứ thần cao cấp đến báo tin và thỉnh ý người phụ nữ ấy. Đó chính là câu chuyện truyền tin trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sứ thần cao cấp đó là tổng thần Gabrien; và người phụ nữ được truyền tin đó là trinh nữ Maria. Qua cuộc đối thoại giữa tổng thần Gabrien và Đức Maria, chúng ta biết, cuối cùng Đức Maria đã trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”.
Tiếng “Xin vâng” vừa thoát khỏi môi miệng Đức Maria, thì Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, ngự xuống mặc lấy xác phàm trong cung lòng Đức Mẹ. Sự hiệp nhất bản tính Thiên Chúa với bản tính loài người được thực hiện. Và ngay lúc đó. Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ được đầy đủ mọi ơn phúc cần thiết nối kết với chức vụ Mẹ Thiên Chúa, để chu toàn vai trò quan trọng này. Đồng thời Đức Mẹ trở nên Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.
Chúng ta thấy Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của Đức Mẹ và Đức Mẹ cũng đã tự do đáp lại lời Chúa. Đức Mẹ đã chấp nhận cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, vì sự ưng thuận của Đức Mẹ đã mở đường cho việc Con Thiên Chúa nhập thể để cứu chuộc chúng ta: Con Thiên Chúa đã xuống thế trong cung lòng Đức Mẹ. Ngôi Lời đã hóa thành con người. Con Thiên Chúa đã trở nên con Đức mẹ.
Nếu chúng ta muốn hiểu thêm về vai trò của Đức Mẹ trong công cuộc cứu chuộc, chúng ta có thể đặt song đôi hai mẫu đối thoại: từ một mẫu đối thoại thì phát xuất ra sự diệt vong của chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa con rắn và bà Eva trong cuộc cám dỗ đầu tiên ở vườn địa đàng; và từ mẫu đối thoại kia thì phát xuất ra ơn cứu chuộc cho chúng ta, đó là mẫu đối thoại giữa sứ thần Gabrien và Đức Maria trong cuộc truyền tin. So sánh cách thức con rắn tiếp xúc với bà Eva và cách thức sứ thần tiếp xúc với Đức Mẹ, chúng ta thấy một bên là sự ngạo mạn và bên kia là sự kính trọng. Con rắn đề nghị những gì? Một nỗi ngờ vực, một sự dối trá, một cuộc nổi loạn. Còn sứ thần Gabrien đề nghị: một sự ưng thuận và ơn cứu chuộc. Bà Eva ưng thuận và thế là có các hậu quả tai hại; Đức Maria thưa “Xin vâng” và Ngôi Lời đã làm người. Nhờ Đức Maria, nhờ thái độ tin tưởng và vâng phục của Đức Mẹ, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.
Qua mầu nhiệm này, chúng ta thấy có nhiều bài học: mầu nhiệm nhập thể, con Đức mẹ chính là Con Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa, đức tin của Đức Mẹ, lòng khiêm nhường của Đức Mẹ, sự đồng trinh của Đức Mẹ, sự “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hôm nay chúng ta ghi nhớ bài học sau cùng thôi. Đó là theo gương Đức Mẹ, vâng theo thánh ý Chúa trong mọi sự. Chúng ta có thể nói: nếu có một chân lý nào được gọi là quan trọng nhất của đời Đức Mẹ, thì chân lý quan trọng đó là câu “Xin vâng thánh ý Chúa”. Cũng vậy, nếu có một chân lý nào được coi là quan trọng nhất của cuộc đời Đức Kitô, thì chân lý quan trọng ấy cũng là “Con đến để làm theo ý Cha”. Vậy nếu Chúa Giêsu, nếu Đức Mẹ đã chọn chân lý cho đời sống mình là “Vâng theo thánh ý Chúa”, thì chân lý ấy cũng phải là chân lý quan trọng nhất của đời sống tất cả chúng ta.
Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ giúp chúng ta. Mẹ là người đã chuẩn bị một lễ Giáng sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng cả chín tháng cưu mang trong tình yêu. Xin Mẹ cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh với tâm tình như Mẹ.
32. Xin vâng (3)
Hôm nay, nhiều người tìm kiếm hạnh phúc và sự sung túc thông qua cách “làm theo nhu cầu riêng của mình”. Họ tin tưởng rằng hạnh phúc hệ tại ở sự không phải cam kết gì, không phải trả lời với ai, không người nào có nhu cầu hoặc vấn đề gì ràng buộc với mình.
Tất nhiên, thật tốt đẹp và cần thiết trong việc tìm kiếm và thực hiện điều gì sâu xa mà chúng ta cảm thấy rằng mình được mời gọi thực hiện. Tuy nhiên, bất chấp bản chất con người là gì, chúng ta phải luôn bảo vệ bản thân mình. Trong phương pháp “làm theo nhu cầu riêng của mình”, có thể có nhiều sự ích kỷ. Điều này thường có nghĩa là đi con đường dễ dãi nhất, trong niềm tin tưởng rằng ở đó có tự do và hạnh phúc. Nhưng chắc hẳn phương pháp này càng dẫn đến tình trạng nô lệ và mất hạnh phúc.
Ở đây có một sự thật quan trọng: chắc chắn sẽ tìm thấy tự do, hạnh phúc, và sự sung túc trong việc chấp nhận trách nhiệm. Tuy nhiên, để được như vậy, một sự dứt khoát chấp nhận trách nhiệm mà thôi thì vẫn chưa đủ, mà còn phải là biết chấp nhận trách nhiệm trong lòng yêu mến nữa. Khi chúng ta hết lòng tận tụy gánh vác trách nhiệm càng khó khăn bao nhiêu, thì chúng ta càng được vui mừng bấy nhiêu.
Về việc này, Đức Maria đã nêu gương mẫu cho chúng ta. Mẹ đã không nói với sứ thần “Xin lỗi, nhưng tôi có kế hoạch của riêng tôi. Tôi muốn làm theo nhu cầu riêng của tôi”. Nhưng Mẹ đã nói “Không phải ý riêng của tôi, nhưng ý muốn của Thiên Chúa mới là quan trọng. Xin cứ làm cho tôi theo như lời sứ thần truyền”.
Đức Maria đã làm cho mình trở thành một món quà đối với Thiên Chúa, và chấp nhận trách nhiệm mà Người giao phó cho Mẹ. Mặc dù Mẹ không hiểu được tất cả những điều hàm ý trong công việc của Thiên Chúa, Mẹ vẫn tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho Mẹ tất cả ơn trợ giúp mà Mẹ cần đến.
Thật vậy, Mẹ nói “Tôi không hiểu được tất cả ý nghĩa của việc này, nhưng tôi tin tưởng rằng những điều tốt đẹp sẽ xảy ra”. Mẹ quá tin tưởng một cách sâu xa vào Thiên Chúa, đến nỗi Mẹ đã mở tất cả mọi khả năng của mình ra. Mẹ đã từ bỏ quyền kiểm soát tương lai, và để mặc cho Thiên Chúa quyết định cuộc đời của mình.
Những người nào biết chấp nhận trách nhiệm giống như cách thế mà Đức Maria đã thực hiện, thì có thể không tìm thấy hạnh phúc và sự sung túc dưới con mắt của thế gian, nhưng dưới con mắt Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ tìm thấy và nhận biết điều đó một cách sâu xa.
Ân sủng lớn lao nhất trong cuộc đời là khi chúng ta mong muốn làm điều mà chúng ta phải làm.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam