Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 57

Tổng truy cập: 1376985

MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI

Mến Chúa yêu người – Lm. Vũ Nghi

Vào thời Đệ Nhị Thế Chiến, tại San Francisco, có hai gia đình di dân sống gần nhau và thuộc cùng một xứ đạo: một gia đình người Nhật và một gia đình người Thụy sĩ. Sau nhiều năm làm việc khó nhọc, cả hai gia đình đã thành công trong nghề trồng hoa hồng. Đột nhiên, ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật tấn công Trân Chân Cảng, và họ nghe đồn rằng những người Mỹ gốc Nhật sẽ bị bắt vào trại tập trung. Gia đình người Thụy Sĩ hứa sẽ tiếp tục săn sóc vườn hoa cho gia đình người Nhật, nếu thực sự họ bị bắt, vì đây là điều họ đã được Chúa dạy: "Các con hãy thương yêu nhau." (Ga 15,17). Và quả thật, gia đình người Nhật đã bị bắt. Một năm. Hai năm. Rồi ba năm qua đi, gia đình người Thụy Sĩ đã hy sinh thời giờ và sức lực để trồng cấy và đem hoa ra chợ bán thay cho gia đình người hàng xóm của mình. Khi chiến tranh chấm dứt, gia đình người Nhật được trả tự do, và họ đã được gia đình người Thụy Sĩ ra tận bến xe để đón về. Về đến nhà, họ thấy một vườn hoa xanh tươi, một căn nhà sạch sẽ tươm tất, và một món tiền, sinh lời được trong ba năm họ xa nhà.

Được lòng yêu mến Thiên Chúa thúc đẩy, gia đình người Thụy sĩ trên đây đã thực hành đúng lời Chúa đã truyền dạy: "Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn... và hãy yêu thường anh em như chính mình."

Mến Chúa và yêu người, đó là hai khoản luật Thiên Chúa quan tâm chú trọng ngay từ những ngày đầu tiên con người xuất hiện trên trái đất, và cũng là hai khoản luật con người đã lỗi phạm ngay từ những trang sử đầu tiên của nhân loại.

Vì nguyên tổ đã không hết lòng tin tưởng ở Thiên Chúa, nên đã tin lời của ma quỉ; vì ghen tương, Cain đã giết chết em mình. Đến thời Xuất Hành, khi Thiên Chúa ban bộ luật cho dân Do thái, một lần nữa, hai khoản luật quan trọng vẫn là hết lòng tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê (Đnl 6,5), và yêu thương anh em đồng loại như chính mình, cách riêng những người nghèo hèn yếu thế ( x Lv 19,18.33-34)

Dẫu vậy, khi Chúa Giêsu liên kết hai giới luật này, và coi hai điều này là giới luật cao trọng nhất trong toàn bộ lề luật, Chúa đã làm một điều mới lạ. Nhưng vấn đề ở đây là sao Chúa Giêsu lại làm như vậy.

Khi truyền dạy chúng ta "yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn", đó là Chúa dạy chúng ta hãy yêu mến Chúa với toàn diện con người của mình. Điều này có nghĩa là mọi việc chúng ta làm đều phải qui hướng về Chúa. Thiên Chúa có quyền đòi buộc điều này là vì chúng ta là thụ tạo của Người, và mọi cái chúng ta có đều là do Chúa ban cho. Chúng ta có thể tự tình phụng sự mến yêu Chúa và được hưởng hạnh phúc với Người; hay với sự tự do Chúa ban, chúng ta có thể từ chối phụng sự Chúa, và rồi sẽ phải lãnh chịu hiệu quả của quyết định đó.

Một khi chúng ta quyết định sống với Chúa trong tâm tình thờ kính mến yêu, chúng ta sẽ biết phải có tâm tình nào, hành động làm sao, nói năng thế nào, trong mỗi hoàn cảnh của cuộc sống. Các giới luật khác lúc đó không còn là gánh nặng, nhưng là những nhắc nhở cho chúng ta về bổn phận và trách nhiệm của mình đối với Chúa. Nhưng vì đối với Chúa, chúng ta không thấy, và cũng không cảm nghiệm được bằng giác quan, nên Chúa đã muốn chúng ta yêu mến Người qua các thụ tạo của Người. Theo lời Thánh Augustinô, "Vì chúng ta không nhìn thấy Chúa, nên Chúa đã muốn chúng ta thấy Chúa qua tha nhân. Vì khi yêu mến tha nhân, ánh nhìn của chúng ta được thanh tẩy nên trong sáng hơn để có thể nhìn thấy Thiên Chúa." Dĩ nhiên lòng mến yêu này không phải là tình yêu tự nhiên, hay yêu tha nhân là vì một lợi lộc cá nhân nào đó, nhưng phải là tình yêu được bắt nguồn và phản ảnh chính tình yêu thương của Chúa Kitô: Một tình yêu rộng mở đến mọi người không kể giai cấp, mầu da, chủng tộc; một tình yêu quảng đại quên mình; một tình yêu nhạy cảm, cách riêng đối với những nghèo khổ, bệnh tật, những người bị gạt ra ngoài lề của xã hội.

Chắc rằng cho dù gia đình người Thụy sĩ có yêu mến gia đình người hàng xóm đến đâu đi nữa. họ cũng không đủ sụ quảng đại và kiên nhẫn để tiếp tục công việc bác ái đó trong suốt 3 năm trường, nếu lòng yêu mến đó không được nâng đỡ và thúc đẩy bởi lòng yêu mến Thiên Chúa. Mến Chúa và yêu người do đó có một mối liên hệ thật mật thiết với nhau. Lòng mến Chúa cần được bày tỏ qua tình thương mến đối với tha nhân, và lòng yêu thương tha nhân chỉ bền vững và chân thành khi nó được nuôi dưỡng và nâng đỡ bởi tình yêu mến Thiên Chúa.

 

38. Yêu thương

Vào ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn, Abigail Van Buren, đã xin đăng trên báo trong mục “Dear Abby” lá thư sau đây gửi cho chồng của bà: “Ngày 2 tháng 7 năm 1964. Anh Mort yêu quý, hôm nay là ngày rất đặc biệt đối với em. Đó là ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn của em, và em có lời này để ngỏ cùng anh: em đã có một người mẹ và một người cha thực sự yêu thương nhau, do đó em biết được tình yêu là gì. Em đã làm việc rất chăm chỉ để nhìn thấy hai người con đang tuổi thanh xuân vượt qua thời niên thiếu đầy gian khổ một cách an toàn, do đó em biết được sự hài lòng là gì. Em đã cầu nguyện, và những lời cầu nguyện của em đã được lắng nghe, do đó em biết được đức tin là gì. Em đã có anh ở bên cạnh em, một con người tử tế nhất, dịu dàng nhất, đáng kể nhất trên đời, do đó em biết được niềm vui là gì. Em yêu anh”.

Tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân mang lại niềm vui. Một niềm vui không giống như khoái lạc, hay hạnh phúc. Một con người hư hỏng có thể tìm được khoái lạc trong những thoả mãn nhục dục. Hoặc một con người tầm thường cũng có những giây phút cảm thấy hạnh phúc trong đời. Nhưng niềm vui chân thật theo ý nghĩa của Thánh Kinh nói đến, chỉ phát xuất từ tình yêu biết hy sinh và quên mình vì Thiên Chúa và tha nhân.

Niềm vui đó cho phép chúng ta nhìn thế giới từ một viễn tượng đã được thăng hoa và phong phú dưới ánh sáng của Tin Mừng. Đó chính là biết “mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người” và trở nên một “khí cụ bình an của Chúa”. Đó chính là tìm an ủi, tìm hiểu biết, tìm yêu mến, hiến thân và quên mình như lời Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi đã diễn tả.

Truyện cổ Đông Phương kể lại rằng ngày xưa có bốn chàng thanh niên thực hiện một cuộc du hành băng qua khu rừng. Thình lình, họ gặp một bức tường rất cao chận đứng trước mặt. Lập kế, họ bắc một cái thang dài để leo lên xem cái gì ở phía bên kia. Người thứ nhất leo lên tới đỉnh, nhìn xuống dưới và la lên trong khoái lạc cực độ. Ngay lập tức anh phóng mình xuống. Anh thứ hai cũng làm tương tự như vậy. Rồi anh thứ ba cũng thế. Sau cùng, anh thứ tư leo lên, chiêm ngắm một khung cảnh đầy hứng thú: cây cối xanh tươi, hoa trái muôn nghìn. Chưa bao giờ anh nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ như vậy. Và, giống như những người khác, anh cũng bị cám dỗ nhẩy xuống đó. Nhưng anh kịp ngưng lại để suy nghĩ đôi chút, nghĩ đến gia đình, vợ con và bạn bè của mình. Sau đó anh đã vội vã leo xuống chân thang và bắt đầu đi rao giảng tin mừng về một khu vườn đẹp tuyệt trần cho những người khác biết.

Từng người một, ba chàng thanh niên đầu tiên đã nhìn thấy một vùng đất mới với những hứa hẹn tuyệt vời. Họ đã quyết định chiếm đoạt lấy cho riêng mình nên đã tự huỷ diệt. Chàng thanh niên thứ tư kịp suy nghĩ và muốn chia sẻ nó với những người khác, nên tồn tại. Cách chắc chắn nhất để làm phong phú cái nhìn nội tâm của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa là chia sẻ tình yêu đó với những người khác.

Tôi rất thích bản dịch câu Kinh Thánh trích từ lá thư thứ nhất của thánh Gioan, đoạn 4, câu 7b, của học giả Thánh Kinh Công giáo, Edgar Bruns: “Phàm ai yêu thương, thì sinh ra Thiên Chúa”. Câu này được dịch đúng chữ như sau: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Điều thực sự rằng tình yêu Kitô giáo luôn ở trong một tiến trình để Thiên Chúa được sinh ra, được chia sẻ với hết mọi người và lan rộng ra khắp nơi trên thế giới.

Thời Giáo Hội sơ khai, những người không phải Kitô hữu đã để tâm lưu ý đến những người Kitô hữu bằng cách: “Hãy nhìn xem họ yêu thương nhau là dường nào!” Theo một truyền thống của Thánh Gioan để lại, lúc đó ngài đã già yếu và bước đi rất khó khăn đến nhà thờ vào mỗi ngày Chúa nhật. Gioan phải nhờ những người bạn dìu đi. Khi Thánh lễ kết thúc, họ phải giúp cho Gioan đứng lên ban phép lành cho cộng đoàn và nói: “Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”.

Một ngày nọ, một tín hữu đưa ý kiến rằng vị môn đệ già yếu đó lúc nào cũng nói y như vậy, giống như một cha sở cứ lập đi lập lại mãi một bài giảng. Nhưng vị trưởng lão Gioan đã trả lời rằng: “Không còn gì hơn để nói nữa. Đây là lời nói sau cùng. Nếu chúng ta yêu thương nhau, đó là tất cả mọi sự. Cuối cùng, người ta sẽ thực sự biết rằng chúng ta là những người Kitô hữu bằng tình yêu thương của chúng ta”.

“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con toả hương thơm của Chúa đến mọi nơi con đi. Xin Chúa tràn ngập tâm hồn con bằng thần khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa xâm chiếm toàn thân con để con chiếu toả sức sống của Chúa. Xin Chúa chiếu sáng qua con, để những người con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang sống và hiện diện trong con. Xin cho con biết rao giảng về Chúa, không bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa” (Lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa Calcutta).

 

39. Trên đỉnh yêu thương

(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)

Báo Tuổi trẻ có đăng bài “Phở nóng chiều mưa” của tác giả Bút Bi. Câu chuyện như sau: “Tiệm phở A (đường Kỳ Đồng)” chiều hôm kia mưa như trút nước. Một ông già khoảng 70 tuổi, tay lần dò chiếc gậy, tay xách chiếc gà men cũ kỹ lập cập bước vào quán, mua phở mang về. Lúc ông đang long lấy tiền – gói trong hai ba lớp bịch ni-lông – ra để trả, một trong hai thanh niên đang ngồi ăn phở ở chiếc bàn ngoài cùng bảo là đã trả tiền phở cho ông rồi. Ông già lãng tai ngớ ra không hiểu, người thanh niên vừa nói câu trên chỉ người bạn đang cắm cúi ăn: “Thằng này trả chứ không phải cháu đâu”. Rồi anh nói thêm có lẽ để câu chuyện được tự nhiên hơn: “Nó hỏi bác có con gái không?” Ông già dường như vẫn còn chưa hết ngạc nhiên thật thà nói “có”. Người thanh niên kia bật cười, bảo “nói chơi đó bác ơi”. Bút Bi tình cờ có mặt ở đó cũng bật cười. Mấy cô phục vụ trong quán cũng cười ầm lên. Ông già hiểu ra, hoạt bát hẳn lên, nói vài câu vui vẻ rồi chống gậy đi về.

Tò mò, Bút Bi nhìn hai người thanh niên. Họ ăn mặc giản dị, mang dép, đi chiếc Cub đời cũ, trông có lẽ là những người lao động làm lũ, và cử chỉ của họ thật dễ thương. Người già thường có cảm giác bị bỏ rơi, thèm sự hỏi han, chăm sóc. (Ông gìa phải tự chống gậy đi mua phở dù có con cái?). Chắc tối hôm ấy ông sẽ thấy vui lắm, chẳng những vậy có khi nó còn trở thành một kỷ niệm của ông, để ông đi kể lại với bà con, chòm xóm. Còn Bút Bi cũng thấy vui quá, bèn quyết định ăn luôn… hai tô phở!!

***

Nghe xong câu chuyện “Phở nóng chiều mưa” trên đây, chúng ta cảm thấy ấm áp lên tình con người. Một sự quan tâm tế nhị, một lời thăm hỏi chân thành, một nghĩa cử yêu thương thầm kín, đã làm cho mối quan hệ giữa người với người thân gần gũi hơn, thông cảm nhau hơn, và quí mến nhau hơn.

Điều cốt lõi của Kitô giáo chính là yêu thương. Giới răn lớn nhất của đạo cũng chỉ là “mến Chúa, yêu người”. Đó là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Đức Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu ngời thân cận như chính mình” (Mt 22, 37-39).

Người Kitô hữu, luôn mang trên mình cây thập giá. Cây thập giá ấy có một ý nghĩa rất cao đẹp: Thanh dọc của cây thập giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêm mến Người với tất cả trái tim, với trọn vẹn con người. Thanh ngang của cây thập giá muốn nói với người tín hữu, phải vươn đến với tất cả mọi người, để yêu thương họ như chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu phải là cây thập giá. Nếu có “Mến Chúa” mà không có “yêu người”, thì chưa phải là Kitô hữu. Cũng như đồng tiền luôn có hai mặt, thì người Kitô hữu luôn phải sống trọn vẹn hai giới răn “Mến Chúa và yêu người” mới đích danh là Kitô hữu.

Có nhiều người nghĩ rằng “Mến Chúa” thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hang ngày, năng tham dự các bí tích, và họ bằng lòng với mức độ ấy. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ “hết”, chúng ta dã yêu được mấy chữ “hết” đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ mùa.

Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết lòng” khi chúng ta dám hy sinh thì giờ, công việc, lợi nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, hay các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống thiêng liêng.

Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết linh hồn” khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để trung thành với Chúa và các giới răn của Người.

Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết trí khôn” khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương dân, trước kẻ bách hại, cho dù phải đe dọa đến cuộc sống và tính mạng.

“Mến Chúa” đã khó, “Yêu người” lại càng khó hơn. Vì người ta đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương. Với cái nhìn không thân thiện của chúng ta sẽ có rất nhiều người dễ ghét và đáng ghét. “Yêu người” như Chúa dạy là “Yêu như chính mình”. Có ai lại ghét mình bao giờ. Trái lại, người ta thường yêu mình quá độ.

Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác.

Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng ta biết kính trọng người già yếu, an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô thân.

Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp.

Mauriao viết: “Ngày nào bạn không còn thắp sáng tình yêu, ngày đó nhiều người sẽ chết vì giá lạnh”.

***

Lạy Chúa, bác ái chính là đồng phục của người Kitô hữu. Nếu ngày nào chúng con yêu anh em mà con tim sẽ thắt, thì xin nhắc cho chúng con nhớ lại Lời Chúa: “Điều gì các con làm cho người bé nhỏ nhất là các con làm cho chính Ta”. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ