Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 34

Tổng truy cập: 1376688

MỌI SỰ CỦA CHA ĐỀU LÀ CỦA CON

MỌI SỰ CỦA CHA ĐỀU LÀ CỦA CON

(Suy niệm của Fx Đỗ Công Minh)

Bài Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay cho con nhận ra được lòng thương xót của Chúa với con người thật là cao cả.” Để cứu rỗi chúng con, Người đã từ trời xuống thế” (Kinh Tin kính), và còn hơn thế nữa, những người tội lỗi lại là những người đựoc Chúa thương một các đăc biệt. Không vì tán đồng những hành vi của họ, nhưng là thương xót, không muốn để họ phải hư mất. Người đã đến với họ, cùng ăn chung một bàn, cùng ngồi chung một chiếu. Sẵn sàng lắng nghe họ, tìm hiểu họ, với mục đích chỉ ra cho họ con đường thóat khỏi xiềng xích của ác thần, dẫn dắt họ trở về với tình thương yêu, trở về với Cha để đón nhận đựoc tình thương của Ngài. Tuy nhiên việc Chúa làm lại bị những kẻ giả hình phê phán: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”.

Đức Giêsu đã mô tả việc một người tội lỗi trở về là một niềm vui, cho họ được cơ hội đón nhận tình yêu thương của Chúa, qua đó nói lên sứ mạng của Người khi đến trần gian. Như người chăn chiên đau đáu trong lòng khi có một con chiên trong đàn bị thất lạc, bằng bất cứ giá nào ông sẽ đi tìm về, thậm chí dám rời bỏ cả đòan 99 con, để đi tìm lại một con. Chúa cũng nêu hình ảnh một người phụ nữ tiếc xót thế nào khi đánh mất một đồng quan trong nhà. Bà không quản ngại tìm cho được, dù phải thắp đèn, moi móc, quýet dọn để tìm cho ra. Và khi tìm thấy thì vui mừng vô kể, mời xóm giềng đến chia vui. Và còn hơn thế nữa, chuyện người cha nhân hậu càng làm cho con nhận ra được Chúa yêu thương con người xiết bao.

Người Cha trong tin mừng chính là Thiên Chúa, đấng luôn ngóng trông con mình tội lỗi trở về đã củng cố cho con niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Hành động người con hoang đàng trở về là một mẫu gương cho con trong đời sống. Con cũng bao lần bỏ nhà ra đi, cũng bao lần đựoc Cha chia gia tài là ơn Chúa, là khả năng, là phúc lộc... vậy mà con vẫn bỏ đi, phung phá, sa vào mọi điều xấu. Đã nhiều lúc lâm vào tình trạng kiệt quệ, thay vì trở về với cha, con lại tìm đến cầu cứu nơi các thế lực đen tối khác, để mong thóat ra khỏi cơn nguy nan. Con không nhận ra Chúa vẫn dang tay gọi mời.

Lạy Chúa,

Xin cho con khi nhận biết tình Chúa yêu con, con dám can đảm đứng lên, rời bỏ quá khứ tội lỗi để trở về với Chúa, Đấng là Cha hết mọi người. Con biết rằng thân phận con thì mỏng dòn yếu đuối. Con biết được, khi trở về ở nhà rồi, được mấy ngày, lại tìm cách kiếm ít tiền của rồi trốn đi, ăn chơi, sa ngã. Tái đi tái lại bao lần. Sợ Cha rầy la, không chấp nhận, nên con ngã lòng đến nỗi bỏ đi thật xa. Tư tưởng ấy tồn tại trong con, cho thấy lòng tin của con vào tình thương của Chúa còn non yếu. Xin Chúa giúp con, xin Người ban thêm đức tin cho con.

Xin cho con biết nhìn nhận mình yếu đuối, phải cây dựa vào Lòng Chúa xót thương, biết thưa lên như người con thứ trong Tin Mừng: “Cha ơi! Nay con đã về, về đây cùng ở với Cha. Bao nhiêu tháng năm hoang đàng, một lần ghi dấu ăn năn. Con xin làm người tôi hầu, về đây bên Cha dấu yêu. Rồi đây những khi ưu sầu, con được tình Cha xót thương nhiều ”. Amen.

 

71. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng

Niềm vui khi tìm được những gì đã mất

Trong đời sống hàng ngày, ta có thể đã có kinh nghiệm khi tìm lại được những gì đã mất, nhất là những vật qúi giá và cần thiết. Ai mà không vui thích khi tìm lại được cặp kiếng đeo mắt. Ai mà không thích thú khi tìm lại được chùm chìa khoá. Ai mà không hí hửng khi tìm lại được ví tiền có chứa đựng những giấy tờ cần thiết. Ai mà không vui mừng khi tìm lại được cái nhẫn cưới. Tìm lại được tình yêu hôn nhân đã chết trong con tim mà nay được đổi mới lại, đã khiến cho những cặp vỡ chồng vui mừng cảm động khóc ra nước mắt.

Cái tâm trạng vui mừng của những người khi tìm lại được những vật đã mất cũng là cái tâm trạng của người chăn chiên trong Phúc âm hôm nay khi tìm thấy con chiên lạc, hay của người đàn bà chỉ có mười đồng bạc mà mất một đồng, nay lại tìm thấy, hay của người cha có hai đứa con mà một đứa đi lưu lạc, nay lại trở về. Vậy tìm thấy được vật đã mất, lưu lạc rồi trở về, phạm tội rồi được tha thứ, xa cách rồi làm hoà, bằng cách này hay bằng cách khác là đề tài chung của ba bài đọc Thánh kinh hôm nay.

Bài trích sách Xuất hành ghi lại câu chuyện con bò vàng. Khi người Do thái trong hoang địa không còn kiên nhẫn đủ về sự vắng mặt lâu dài của Môsê trên núi Sinai, thì họ kêu trách Chúa đã đem con đi bỏ chợ. Vì thế họ xin Aaron để đúc con bò vàng cho họ tôn thờ thần tượng vô tri vô giác thay vì tôn thờ một Thiên Chúa. Vì tội bất trung của dân chúng, Thiên Chúa nổi giận định huỷ diệt họ. Nhưng Môsê van xin Thiên Chúa tha thứ và Chúa đã nguôi giận tha phạt dân chúng. Lòng thương xót của Chúa còn được tỏ hiện qua việc trở lại của Thánh Phaolô.

Trong thư gửi cho Timôthêô, Phaolô viết: Đức Kitô Giêsu, đã đến trong thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi (1Tm 1:15). Cả ba ngụ ngôn trong Phúc âm hôm nay nói lên lòng nhân từ hay thương xót của Chúa. Nếu người chăn chiên bày tỏ nỗi vui mừng với người lân cận, và người đàn bà mời chị em đến chia vui vì đã tìm thấy đồng bạc, nếu người cha biểu lộ nỗi vui mừng khi thấy đứa con hoang lạc trở về, thì trên trời cũng có sự vui mừng khi có người tội lỗi ăn năn trở lại.

Thính giả nghe bài Phúc âm từ chính miệng Chúa giảng là những người Biệt phá và Luật sĩ. Họ phàn nàn là Chúa thường lui tới, ăn nhậu với phường tội lỗi và thâu thuế. Họ không muốn thấy Chúa lai vẵng tới xóm nhà lá. Vì thế khi thấy Chúa làm quen với những thành phần bị coi là căn bã của xã hội, họ lấy làm vấp phạm. Chúa trả lời cho họ là: Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất (Lc 19:10).

Hôm nay mỗi người cần tự hỏi, có khi nào ta đã đi lưu lạc, lìa bỏ đàn chiên của Chúa? Ta đi lạc khỏi đàn chiên khi ta sa phạm tội, bất trung với lời giao ước khi chịu phép Rửa tội. Ta trở thành những chiên lạc khi ta không sống theo đường lối phúc âm, không tuân giữ giới răn Chúa. Thiết tưởng ít ai muốn chối bỏ đức tin vào Chúa. Tuy nhiên ta có thể quên Chúa khi ta tạm gác bỏ việc thờ phượng qua một bên, hoặc khi ta nhốt Chúa vào góc xó nhà của tâm hồn. Điều quan trọng là khi ta sa ngã phạm tội, ta có can đảm tìm đường trở về nhà Cha, hay ta vẫn chần chừ trong bóng tối của đam mê, của tham vọng hão huyền hay của nghi ngờ thất vọng?

 

72. Hãy chia vui với tôi – G. Nguyễn Cao Luật

Có lẽ có người cho rằng các dụ ngôn được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay hơi có tính cách cường điệu. Có mục tử nào dám bỏ lại chín mươi chín con chiên trên cánh đổng rổi đi tìm con chiên bị lạc mất? Có ai lại bỏ công tìm cho kỳ được đổng bạc trong khi mình còn chín đổng nữa? Hay có người cha nào sẵn sàng đợi chờ, tha thứ cho đứa con đã đòi chia gia tài và bỏ nhà ra đi?

Quả vậy, theo quan điểm của con người, ít có khi nào xảy ra những điều như thế. Nhưng đối với Thiên Chúa, chẳng có gì là cường điệu. Những câu chuyện này cho thấy thế nào là tình yêu, là lòng thương xót của Thiên Chúa.

Tình thương không giới hạn

Con người được Thiên Chúa tạo dựng do lòng yêu thương. Thế nhưng, con người đã từ khước tình yêu ấy qua việc ăn trái cấm. Và Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người dưới quyền thống trị của tội lỗi, của sự chết. Nếu Thiên Chúa có trừng phạt con người thì cũng là việc xứng đáng. Nhưng Thiên Chúa không xử sự như thế. Một tình yêu đích thực không thể bằng lòng với việc trợ giúp cách chung chung, để rổi khi bị từ khước thì bỏ rơi không còn đoái hoài gì tới. Nếu Thiên Chúa hành động như thế thì khó có người được cứu, và Đức Giê-su đã không được sai đến trần gian.

Đàng khác, Thiên Chúa cũng chẳng tính toán những hổng ân Người đã ban. Thiên Chúa không đưa cho con người một bản tỗng kết những gì Người đã ban cho họ: ân sủng của Người tuôn chảy không ngừng, tình yêu thương chẳng bao giờ vơi cạn. Nếu có kể ra những hổng ân, điều đó chỉ có mục đích nhắc nhở con người hãy sống xứng đáng với hổng ân đã lãnh nhận để rổi tiếp tục nhận được những ân huệ khác. Cả khi con người đi lang thang phiêu lãng, Thiên Chúa vẫn đuỗi theo. Không có chỗ nào con người ở một mình cả. Chẳng bao giờ con người có thể tự nhủ Thiên Chúa bỏ rơi mình rổi. Một người thợ săn kiên nhẫn, rình chờ con mổi, một người câu cá âm thầm chờ đợi. Thiên Chúa như thế đó.

Thật vậy, chính lòng yêu thương đã thúc đẩy Thiên Chúa tìm kiếm con người. Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không phải như một đổ vật, nhưng là để họ tham dự vào sự sống của Người, để sống trong tình yêu thương. Nếu Thiên Chúa chỉ coi con người là một đổ vật, thì khi bị lạc mất, Người có thể tiếc nuối, những rổi thôi, Người có thể lại có cái khác, hay hơn, tốt đẹp hơn, và nhiều hơn nữa. Ở đây, các dụ ngôn cho thấy tính cách lớn rộng của tình yêu: quan tâm đến tất cả, nhưng không bỏ rơi bất cứ ai, dù người đó có thế nào chăng nữa. Vì tình yêu, Thiên Chúa không bao giờ cảm thấy mệt mỏi, chán nản, chỉ cần là Người tìm lại được người tội lỗi, chỉ cần là họ cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa. Vì thế, trong tình thương của Thiên Chúa, không có ai là người bị bỏ quên. Mỗi người đều được Thiên Chúa quan tâm săn sóc, mỗi người đều ở trong trái tim của Thiên Chúa, không có ai bị đẩy ra ngoài, không có ai nhận được ít tình thương...

Hãy chia vui với tôi

Trong cả ba dụ ngôn, Đức Giê-su đều kết thúc bằng những lời nói đến niềm vui. Người chăn chiên tìm được chiên lạc thì vác chiên lên vai, và mời bạn hữu láng giềng đến chia vui; người đàn bà tìm thấy đổng bạc đã mất cũng vậy; và người cha có đưa con đi hoang trở về thì mở tiệc lớn ăn mừng.

Lý do của việc ăn mừng này đã rõ ràng. Nhưng sau đó, Đức Giê-su muốn cho thấy niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi hối cải. Ở dụ ngôn thứ nhất, "trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải"; ở dụ ngôn thứ hai, "các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải"; và ở dụ ngôn thứ ba, "phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống; đã thất lạc, mà nay lại tìm thấy".

Tội nhân hối cải, không những được tha thứ, nhưng còn được chờ đợi, được đón tiếp. Niềm vui của Thiên Chúa thật lớn lao khi người tội lỗi biết từ bỏ con đường xấu xa, để trở về sống trong tình thương của Thiên Chúa.

Có thể nói, Thiên Chúa không có niềm vui nào khác ngoài việc con người sống thân mật với Người. Dù cho có thế nào chăng nữa, Người vẫn chờ đợi họ, vẫn mở rộng vòng tay đón tiếp. Đây thực là một lời an ủi và nhắc nhở cho con người. Là một lời an ủi, vì con người biết rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương họ và mong họ trở về với Người. Thiên Chúa vẫn đi tìm họ, dù họ cố tình tránh né. Thiên Chúa vẫn thi ân giáng phúc, dù họ từ khước không nhận. Là một lời nhắc nhở, vì nếu như tội lỗi đã làm Thiên Chúa phiền lòng, thì Người sẽ còn phiền lòng hơn biết mấy khi con người từ chối tình thương Người dành cho họ, mong họ trở về sống trong tình thương.

Hơn nữa, ở đây còn có lời mời gọi chia sẻ niềm vui với Thiên Chúa vì người tội lỗi đã trở về. Kẻ từ chối chia vui với Thiên Chúa cũng chính là kẻ phải trở về, phải sám hối. Kẻ từ chối chia vui với Thiên Chúa cũng chính là người không nhận ra tình thương đích thực, và như thế là họ đã từ khước tình thương của Thiên Chúa.

* * *

Ở giai đoạn đầu của lịch sử cứu độ, sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã lên tiếng hỏi, đang khi họ chạy trốn: "Ngươi đang ở đâu?" Ngày nay, Thiên Chúa đã mở tiệc để thết đãi họ. Nhờ sự tuân phục của Đức Giê-su Ki-tô, nhân loại đã được cứu thoát, đã được chữa lành khỏi mọi thương tích, đã được tha thứ.

Đó là niềm vui của Thiên Chúa, hãy chia vui với Người.

* * *

Phải tin vào Thiên Chúa

vì Người đã tin tưởng chúng ta.

Người đã làm cho chúng ta tin vào Người,

khi trao cho chúng ta Người Con duy nhất.

Phải tin vào Thiên Chúa

vì Người đã tín nhiệm chúng ta

đã làm cho chúng ta tin vào Người.

Chẳng lẽ sự tín nhiệm của Thiên Chúa

dành cho chúng ta

lại không được đặt đúng chỗ?

Thiên Chúa đã làm bừng lên nơi chúng ta niềm hy vọng

Người đã khởi đầu.

Người mong rằng kẻ tội lỗi

sẽ làm một chút gì đó

cho ơn cứu độ của mình.

Một chút! chỉ cần một chút thôi!

phỏng theo Charles Péguy

 

73. Đã mất mà lại tìm thấy

Chúa Giêsu kể những dụ ngôn này trong một hoàn cảnh đặc biệt. Các thầy dạy luật và các đạo sĩ Do thái lấy làm vấp phạm khi thấy Chúa Giêsu giao du với những kẻ mà người Do thái đạo đức gọi là tội nhân. Đạo sĩ Do thái đã xếp tất cả những ai không tuân giữ luật pháp vào chung một hạng, họ gọi những người đó là ‘dân của đất’. Có một hàng rào ngăn cản dứt khoát giữa những đạo sĩ Do thái và người ‘dân của đất’. Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của đạo sĩ Do thái định rằng: “Khi có một người là dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng lấy chứng của nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặt nó coi trẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”. Có luật cấm đạo sĩ Do thái không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời mời của ai trong hạng người đó. Luật cũng cấm đạo sĩ Do thái không được giao dịch thông thường với họ, không được mua gì của họ hoặc bán gì cho họ. Các đạo sĩ Do thái quyết tâm tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết tỉ mỉ trong luật pháp. Dĩ nhiên họ rất khó chịu khi thấy Chúa Giêsu làm bạn với những người chẳng những thuộc hạng cùng đinh mà còn là tội nhân nữa, vì liên hệ với hạng người này thì bị ô uế. Chúng ta sẽ hiểu các dụ ngôn này đầy đủ hơn nếu chúng ta nhớ rằng người Do thái ngoan đạo không nói: “Cả thiên đàng mừng vui vì một tội nhân ăn năn hối cải”. Nhưng họ nói: “Cả thiên đàng mừng vui vì một tội nhân bị hủy diệt trước mặt Thiên Chúa!”. Họ hướng đôi mắt độc ác chờ xem sự hủy diệt tội nhân chứ không mong chờ tội nhân được cứu thoát.

Trước hết Chúa Giêsu nói cho họ dụ ngôn về con chiên lạc và niềm vui của kẻ chăn. Chăn chiên ở xứ Do thái là một công việc khó khăn và nguy hiểm. Đồng cỏ thì hiếm hoi. Cánh đồng cao nguyên ở giữa xứ chỉ rộng chừng vài dặm thôi, còn phần nhiều là địa thế những khe trũng dốc đứng và cảnh sa mạc hoang vu. Không có một bức tường chắn giữ nên chiên dễ đi lạc đàn. Người chăn phải trực tiếp chịu trách nhiệm về bày chiên. Nếu một con chiên bị mất, thì người chăn phải mang về nhà ít nhất là cái lốt chiên để chứng tỏ là nó đã chết thế nào. Những người chăn chiên có tài theo dấu vết cách đặc biệt, họ có thể theo dõi dấu chân của một con chiên đi lạc hàng dặm qua núi đồi. Không có người chăn chiên nào không coi bổn phận mỗi ngày của mình là bỏ mạng sống mình vì bầy chiên. Có nhiều bầy chiên là tài sản chung thuộc một làng và có hai hay ba người chăn. Những người chăn có bầy chiên còn đầy đủ thì có thể về nhà đúng giờ vào báo tin rằng còn có một người chăn đang lặn lội trên sườn núi để tìm kiếm con chiên lạc. Cả làng sẽ chờ đợi, rồi khi thấy từ đàng xa một người chăn chiên đang vội vã trở về, trên vai có một con chiên, cả làng sẽ reo vui cảm tạ. Đó là hình ảnh Chúa Giêsu phác vẽ về Thiên Chúa. Người bảo Thiên Chúa cũng thế, Ngài vui mừng vì tìm lại được một tội nhân đã lạc mất cũng như người chăn tìm lại được con chiên đi lạc đem về chuồng.

Chúa nối tiếp tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói đến ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị lạc mất trong nhà dân quê xứ Palestin, và có khi phải mất rất nhiều thời giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do thái thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khoảng bốn mươi lăm phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác. Nhưng người đàn bà quét đi quét lại, tìm cho bằng được, có hai lý do khiến người đàn bà sốt sắng và kiên nhẫn tìm kiếm đồng tiền.

1) Có thể vì nhu cầu.

Dù một đồng tiền không nhiều nhưng nó cũng cao hơn công giá một ngày làm việc của một công nhân tại xứ Palestin. Họ thường sống trong cảnh thiếu hụt và hầu như luôn bị nạn đói đe dọa. Có thể người đàn bà nóng nảy tìm cho ra, vì nếu không, gia đình bà sẽ không có ăn.

2) Nhưng có thể còn có một lý do khác thơ mộng hơn lý do trên.

Tại Palestin, dấu hiệu của người đàn bà có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng mười đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợi dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ mười đồng tiền nhỏ đó. Bởi vì cái chuỗi trên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó thì trở nên của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt lấy của nàng món nữ trang đó để trừ nợ. Có thể người đàn bà trong dụ ngôn đã đánh mất một đồng bạc thuộc loại đó, và bà ta đã tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm thế khi đánh mất cái nhẫn cưới vậy.

Vì thế chúng ta cũng dễ hiểu nỗi vui mừng của người đàn bà khi tìm lại đồng bạc bị mất. Chúa Giêsu cho biết: cũng thế, Thiên Chúa và các thiên sứ vui mừng khi một tội nhân ăn năn trở về, như khi một gia đình vui mừng tìm lại được đồng bạc quyết định cái no hay đói của họ, hay cũng giống người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc rồi tìm lại được.

Niềm vui lạ lùng này được sáng tỏ hơn qua dụ ngôn người con hoang đàng. Theo luật Do thái, người cha không được chia gia tài tùy ý mình thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ được một phần ba gia tài (x. Dnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi bận tâm buôn bán làm ăn. Nhưng có một sự trơ tráo nơi đứa con thứ khi chính nó đề xuất việc chia gia tài. Khi nó nói vào mặt cha nó: “Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh sau khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó sẽ có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần dành cho nó và bỏ nhà ra đi…

Nó nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc đáng nguyền rủa đối với người Do thái. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có: “Khi nó hồi tâm tự nhủ, trở về với chính mình”. Chúa Giêsu tin rằng bao lâu con người xa cách và chống lại Thiên Chúa, thì con người không thực sự là chính mình khi đang trên đường trở về nhà. Nó quyết định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con trở về, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ, ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tiêu biểu cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, đôi dày là dấu hiệu làm con, và yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con hoang nay đã trở về.

Nếu chúng ta chú ý, chúng ta sẽ thấy ba câu chuyện xoay quanh một chủ đề: đã mất mà lại tìm thấy. Loài người bị mất, Thiên Chúa mất loài người. Loài người đã bị mất tức là đã đi khỏi sự hiện diện của Thiên Chúa, và đó là cái mất lớn lao nhất. Thiên Chúa không mất gì đáng tiếc hơn mất loài người. Dụ ngôn nêu lên ba khía cạnh để giải thích giá trị của loài người: con chiên bị mất, đồng tiền bị mất, đứa con bị mất.

Loài người có ba điều quý: tài sản, tiền bạc và con cái. Cả ba đều mất, mất lớn lao đáng tiếc. Chúa không mất súc vật, tiền bạc, nhưng mất loài người, mất cái quý báu nhất, không gì sánh bằng. Và Ngài tiếc như ta tiếc của cải, tiền bạc, con cái.

Khi mất một phần trăm đã tiếc, mất mười phần trăm tiếc hơn, mất năm mươi phần trăm tiếc hơn nữa. Nhưng Thiên Chúa mất hết, mất từ thời Adam, nên Chúa lập cách cứu loài người: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”.

Khi nghiên cứu nguyên nhân đưa tới việc mất, chúng ta thấy khác biệt. Con chiên bị lạc mất vì hoàn toàn ngu dại. Nó không biết suy nghĩ, nhưng có nhiều người sẽ tránh được tội lỗi nếu họ suy nghĩ kịp thời. Đồng tiền bị mất vì không phải lỗi của chính nó. Có người đi lạc đường vì bị kẻ khác lừa dối, và Thiên Chúa không kể là vô tội kẻ nào xui kẻ khác phạm tội. Đứa con tự ý đi lạc, nhẫn tâm quay lưng lại với cha mình.

Nhưng Thiên Chúa có thể dùng tình yêu của Ngài chiến thắng sự dại dột của con người, chiến thắng những tiếng cám dỗ, và chiến thắng cả sự phản bội của con tim chúng ta nữa. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không chìm trong kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn nữa.

 

74. Đón nhận - Trao ban lòng thương xót

Có thể nói cuộc đời của mỗi người chúng ta từ lúc tượng thai đến lúc từ giã cõi đời là cả một chuỗi những sự đón nhận. Chúng ta đón nhận sự sống từ nơi cha mẹ. Chúng ta cũng đón nhận sự chăm sóc, nuôi nấng và dạy dỗ từ nơi cha mẹ. Và rồi chúng ta còn đón nhận bao nhiêu sự chăm lo từ vật chất đến tinh thần từ những người thân quen, cả đến những người chúng ta không hề biết mặt. Cũng vậy, là người có đức tin chắc hẳn không ai trong chúng ta dám phủ nhận việc chúng ta đã, đang và sẽ mãi mãi đón nhận tình thương từ nơi Thiên Chúa Đấng chúng ta tôn thờ.

Ba dụ ngôn nổi tiếng trong Tin mừng Luca chương 15 hôm nay làm sáng tỏ về lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa dành cho từng người trong chúng ta. Hình ảnh người chăn chiên có một trăm con chiên lặn lội đi tìm cho bằng được cho được con chiên bị mất và vác trên vai mang về. Hình ảnh người đàn bà có mười quan tiền thức đêm thức hôm tìm cho được một đồng bị mất. Xúc động hơn là hình ảnh người cha nhân hậu có thái độ khoan nhân đón nhận cả hai người con, cách riêng là với đứa con thứ hư hỏng trắc nết.

Sở dĩ Chúa Giêsu nói lên ba dụ ngôn này là vì những người Pharisêu và các kinh sư đã có thái độ không bằng lòng khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc cũng như đồng bàn với những người thu thuế và những người tội lỗi.

Trong suy nghĩ của họ, Chúa Giêsu chỉ được tiếp xúc với những người công chính. Còn những hạng người như vậy Chúa Giêsu không được phép giao tiếp. Mà họ lại tự cho mình là những người công chính.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã có lần khẳng định: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5, 31b - 32)

Trước mặt Thiên Chúa tất cả mọi người chúng ta đều là những con người đáng thương. Thiên Chúa sẵn sàng làm tất cả và chẳng tiếc gì miễn sao chúng ta được sống và sống dồi dào hạnh phúc. Ai trong chúng ta biết ăn năn sám hối trở về là niềm vui cho cả triều thần thiên quốc. Bởi vì: "Tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối." (Lc 5, 10)

Chúng ta không thể đón nhận mà không biết trao ban. Đón nhận càng nhiều bao nhiêu thì trao ban cần rộng lớn bấy nhiêu: trao ban tình thương cho nhau, trao ban sự quan tâm lẫn nhau, trao ban sự hy sinh cho nhau....Chúng ta trao ban cho những người thân yêu. Chúng ta trao ban cho những người chưa quen biết. Thậm chí chúng ta còn được kêu mời trao ban cho những kẻ thù nghịch với mình. Trao ban không phải là thái độ của người lớn cho kẻ nhỏ mà là thái độ của những anh chị em con cùng một Cha - cùng một sự đón nhận từ tình yêu của Thiên Chúa.

 

75. Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long

BA DỤ NGÔN VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?

1.- Ngữ cảnh

Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của Tin Mừng Luca (9,51–19,27): cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này, có đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu.

Sau khi đã giáo huấn đám đông về những điều kiện để làm môn đệ Ngươi (14,25-35), bây giờ Đức Giêsu dùng một số dụ ngôn mà ngỏ lời với các người Pharisêu và các kinh sư, vì họ đã lẩm bẩm trách móc Ngươi khi Ngươi tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi, và cùng ăn uống với những người ấy.

Ba dụ ngôn của chương 15 (con chiên bị lạc mất [cc. 4-7], đồng bạc bị đánh mất [cc. 8-10], người con hư mất [cc. 11-32]) đã được gọi là “trái tim của Tin Mừng III” (Romaroson), vì được kết cấu rất nghệ thuật để nêu bật được đề tài duy nhất là tình yêu của Thiên Chúa và lòng thương xót đối với những kẻ tội lỗi qua lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải.

Hai dụ ngôn đầu nói về việc tìm được cái đã mất, dụ ngôn thứ ba cũng triển khai cùng một đề tài, nhưng như một tổng hợp với những hình ảnh được vận dụng rất tài tình. Trước đây dụ ngôn này vẫn được gọi là “Dụ ngôn đứa con hoang đàng”, nhưng gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của truyện chính là người cha. Hoặc để tương ứng với hai đầu đề của hai dụ ngôn trước, thì có thể gọi là “Dụ ngôn người con hư mất”, nhưng nhớ rằng nhân vật chính là người cha, cũng như trong hai dụ ngôn trước, nhân vật chính là người mục tử và người phụ nữ.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Một dẫn nhập (15,1-3);

2) Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (15,4-32):

a) Dụ ngôn Con chiên bị lạc mất và được tìm thấy (cc. 4-7);

b) Dụ ngôn Đồng bạc bị đánh mất và được tìm thấy (cc. 8-10);

c) Dụ ngôn Người con hư mất và được tìm thấy (cc. 11-32).

3.- Vài điểm chú giải

- Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi (1): Đây là những người ở bên lề xã hội Do Thái, những kẻ vô đạo, sống vô luân. Họ đến nghe Đức Giêsu như đã từng đến nghe Gioan Tẩy Giả (3,12-13). Tác giả Luca đã nói quá khi dùng từ ngữ “tất cả”, nhưng mục đích là cho thấy chiều hướng căn bản của sứ điệp và cách xử sự của Đức Giêsu: Người đến để tìm và cứu những gì đã mất, nghĩa là tất cả.

- lẩm bẩm (2): Cũng như ở 5,30 và sau này ở 19,7, thì vị hồn (imperfect) cho hiểu đây là thái độ thường xuyên của người Pharisêu và các kinh sư.

- ông này (2): Đại từ chỉ định houtos có nghĩa xấu: “tên này”.

- Người nào trong các ông có một trăm con chiên (4): Đây là một mục tử vô danh, được dùng như biểu tượng của Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót (xem Cựu Ước: Tv 23,1-3; Ed 34,11-16).

- hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn (7): Nếu chín mươi chín người này là các kinh sư và người Pharisêu, thì câu kết này có giọng mỉa mai. Nhưng rất có thể đây chỉ là cách tác giả Lc phóng đại niềm vui của Thiên Chúa khi có một người tội lỗi hối cải.

- mười đồng bạc (10): Đồng drachmê là đồng bạc cổ. Chúng ta khó biết giá trị chính xác của đồng bạc này. Có một thời người ta có thể dùng một đồng drachmê mà mua được một con chiên, hoặc được nhận như lương làm việc một ngày. Vào thời hoàng đế Nêrôn, đồng denarius được dùng đểthay thế đồng drachmê và coi như tương đương.

- Một người kia có hai con trai (11): Có thể giả thiết đây là một ông chủ trang trại giàu có xứ Paléttina.

- phần tài sản con được hưởng (12): Theo tập tục xứ Paléttina, một người cha có thể định đoạt về của cải của ông hoặc bằng một di chúc (HL. diathêkê) được thi hành sau khi ông qua đời (Ds 36,7-9; 27,8-11) hoặc bằng một tặng-dữ ban cho các con trong khi ông còn sống (HL. dôrêma; x. Hc 33,19-23). Trưởng nam được hưởng “hai phần sản nghiệp”, nghĩa là gấp đôi phần được ban cho mỗi người con khác (Đnl 21,17). Ở đây, vì chỉ có hai đứa con, người con cả được nhận hai phần ba và người con thứ nhận một phần ba. Khi đó, người con có quyền sở hữu, nhưng quyền thu hoa lợi vẫn thuộc về người cha cho đến khi ông qua đời. Nếu người con bán phần gia sản của mình, người mua chỉ được nhận lấy sau khi người cha chết. Khi làm như thế, người con sẽ không còn có quyền đòi hỏi gì về của cải, cả về vốn lẫn lãi.

- sống phóng đãng (13): Trạng từ asôtôs có nghĩa là “một cách không lành mạnh”. Chúng ta không biết là “không lành mạnh” cụ thể là thế nào; ở c. 30, người anh cả mô tả là “nuốt hết của cải với bọn điếm”, nhưng phải chăng anh đã phóng đại?

- chăn heo (15): Theo Lv 11,7 (x. Đnl 14,8), con heo, tuy có chân chẻ làm hai móng, nhưng không là loài nhai lại, nên bị coi là “ô uế” đối với người Do Thái. Chi tiết này cho thấy sự sa sút của chàng trai.

- nhưng chẳng ai cho (16): Thế thì anh ta lấy thức ăn ở đâu, tác giả không nói, bởi vì điều này không quan trọng.

- chạy ra (20): Chi tiết này diễn tả sáng kiến của người cha, tình yêu bền bỉ của ông đối với đứa con đã bỏ đi.

- và hôn lấy hôn để (20): Không phải chỉ là để chào đón, nhưng là bày tỏ sự tha thứ (x. 2 Sm 14,33).

- Thưa cha … con (21): Người con lặp lại lời thú lỗi đã soạn trước (cc. 18-19), nhưng trước khi anh ta kịp nói ra lời thỉnh cầu, người cha đã can thiệp rồi.

- áo đẹp nhất (22): dịch sát là “chiếc áo thứ nhất”, tức là áo hạng nhất. Như thế, người cha không xử với người con như anh ta yêu cầu (“như người làm công”), nhưng như một người khách được tôn kính.

- xỏ nhẫn… xỏ dép (22): Nhẫn là dấu chỉ quyền bính (St 41,42; Et 3,10; 8,2); dép là dấu chỉ một con người tự do.

- đã mất mà nay lại tìm thấy (24): Đây là cụm từ móc nối liên kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước.

- con hầu hạ cha (29): Người con cả dùng động từ douleuein, “phục vụ”, “hầu hạ”, hàm ý là anh ta không chỉ tự liệt mình vào hạng người làm công (misthios), nhưng là hạng nô lệ (doulos): “hầu hạ cha trung thành như một tên nô lệ”.

- chẳng khi nào trái lệnh (29): Anh ta ý thức về sự trung thành của anh, anh nhấn mạnh đến lòng trung thành này, tức nêu bật điều nghịch lý ở đây là nhân đức lại được ban thưởng tồi tệ hơn là tật xấu!

- một con dê con (29): Chi tiết này cho thấy người con cả không tin tưởng vào cha, anh tính toán, kể công.

- thằng con của cha đó (30): Người con cả diễn tả mức khinh bỉ cao độ; anh ta không thể chấp nhận nói về người con thứ như là “em con”. Ở đây thêm một lần nữa, tính từ houtos được dùng với nghĩa xấu.

- lúc nào con cũng ở với cha (31): Người cha không trách móc, than thở, không nói rằng người con cả sai; ông cũng chẳng phê phán thái độ cao ngạo hoặc bình phẩm gì cả. Ông coi mọi chuyện đó là đúng như thế. Nhưng ông chỉ nhấn mạnh trên sự liên kết thâm sâu giữa cha con: “Lúc nào con cũng ở với cha” (= con chưa bao giờ chết; con chưa bao giờ mất).

- tất cả những gì của cha đều là của con (31): nghĩa là tất cả của cải (x. c. 12), những gì còn lại sau khi người con thứ đã lấy đi phần của anh ta; tất cả những thứ này sẽ thuộc về người con cả, sau khi cha chết.

- em con (32): Câu trả lời của người cha làm vọng lại công thức của người anh, và là một cách sửa chữa.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Một dẫn nhập (1-3)

Đức Giêsu đã đến để cứu tất cả mọi người; những người thu thuế và tội lỗi phải đến với Người bởi vì họ không gặp được ở nơi nào khác lời đưa lại niềm hy vọng và sự tiếp đón ân cần nhưng-không. Cách xử sự này khiến người Pharisêu và các kinh sư phải lẩm bẩm trách móc. Họ trách Đức Giêsu hai điểm: đón tiếp người tội lỗi và ăn uống với họ. Các kinh sư thường nói: “”Chớ có một ai đi giao du với những kẻ xấu xa, cho dù là thử thuyết phục họ đi theo luật của Thiên Chúa”. Những người thu thuế và tội lỗi không được thuộc về cộng đoàn, vì Thiên Chúa đã ngoảnh mặt đi tránh họ; do đó, Israel cũng phải làm như thế. Vậy mà Đức Giêsu lại đón tiếp họ! Đã thế, Người lại còn ăn uống với họ, tức là làm một việc đáng trách hơn nữa, vì ăn uống với ai là kết giao, chia sẻ tình bạn, tình liên đới với người ấy.

Dẫn nhập này đưa lại cho [các] dụ ngôn một đặc tính là biện hộ, là bào chữa cho cách xử sự của Đức Giêsu đối với người tội lỗi. Qua cách xử sự này, Đức Giêsu cho thấy là sự hoán cải không là điều kiện tiên quyết người ta phải có để được Thiên Chúa đón tiếp; trái lại Thiên Chúa đã thực hiện “sự hoán cải” trước, để người ta có thể lại đi vào quan hệ an bình với Ngài.

* Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (4-32)

Từ dụ ngôn đầu đến dụ ngôn thứ ba của chương 15, tác giả cho thấy có một sự tiệm tiến: một con chiên trong số một trăm, một đồng bạc trong số mười đồng, rồi một đứa con trong số hai người. Bản văn càng đi tới càng cho thấy rằng điều đã mất nay lại tìm thấy càng lúc càng trở nên quí báu hơn.

Người mục tử, người phụ nữ và người cha đều vô danh, bởi vì cả ba được đề ra như một biểu tượng của Thiên Chúa yêu thương.

Một con chiên có giá trị của nó. Không phải vì còn chín mươi chín con kia, mà con chiên bị lạc không đáng kể. Người mục tử sẽ kiên nhẫn đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy nó. Chín đồng bạc còn lại vẫn không miễn cho người phụ nữ khỏi tha thiết đi tìm đồng đã mất. Một người con thì còn đáng giá hơn muôn vàn con chiên hoặc đồng bạc. Các kinh sư dạy rằng Thiên Chúa vui mừng khi người công chính sống lại, và kẻ gian ác phải tiêu vong. Đứcd Giêsu lại nói rằng Thiên Chúa vui mừng khi kẻ gian ác được sống lại, “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (c. 7). Ở đây không phải là một lời kêu gọi hãy phạm tội, nhưng là một lời mời gọi hãy nhìn nhận rằng tất cả chúng ta là những kẻ tội lỗi trước mắt Thiên Chúa. Không có một ai là “công chính” cả. Vị thần linh ban thưởng tùy theo các công trạng chỉ hiện hữu trong tâm trí người Pharisêu (xưa và nay). Vị Thiên Chúa của Đức Giêsu là một vì Thiên Chúa ban tặng nhưng-không ơn cứu độ cho tất cả chúng ta mặc dù chúng ta không đáng nhận.

Giờ đây chúng ta suy niệm về truyện người con thứ và người con cả. Thật ra, cả hai người con được nói tới chỉ là để cho người cha có cơ hội diễn tả các tâm tình của ông ra.

a) Người con thứ:

Sau khi đã nhận đủ phần gia tài, người con thứ đi đến một xứ xa xôi, hẳn là một miền đất dân ngoại. Tại đó, anh đã xài hết tiền của. Rơi vào tình trạng khốn đốn, anh phải chăn heo: đây là sự sa cơ thất thế cùng cực! Anh ta suy nghĩ. Nhưng không phải là hối hận về lối sống, không phải là tiếc nuối vì đã làm cho cha đau buồn. Anh ta chỉ tự trách là ngu ngốc chịu đói chịu khát ở đây trong khi các tôi tớ ở nhà có ăn dư thừa. Thế là để có thể trở về và được nhạn vào nhà như người làm công, anh chuẩn bị một bài “diễn từ cảm đông” để mong cha nguôi giạn: các lời lẽ hối tiếc không đi đôi với các tâm tình của anh.

Quả thật hình ảnh này không tôn vinh kẻ tội lỗi chút nào. Đây đúng là chân dung mà người Pharisêu chờ đợi.

b) Người con cả:

Lúc người con thứ trở về, người con cả đang làm việc ngoài đồng. Khi trở về, anh nhận ra trong nhà có chuyện lạ. Sau khi hỏi một người đầy tớ, anh ta hiểu chuyện; anh không thể chấp nhận được, anh nổi giận. Ta thông cảm với anh. Vì anh không chịu vào nhà, người cha đã ra gặp. Thế là anh cho tuôn ra hết những gì vẫn chất chứa tận đáy lòng: anh nói với giọng chua cay, nhưng kể ra đúng các sự việc. Theo anh, đúng là người cha đã xử sự bất công! Những người Pharisêu và các kinh sư cũng nghĩ rằng họ có lý khi tỏ ra khó chịu với Đức Giêsu.

Trước tiên người con cả nói về chính mình: “Bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh”. Chắc chắn đấy cũng là lý tưởng của người Pharisêu và các kinh sư: “phục vụ” Thiên Chúa bền bỉ, và rất chú ý để không bao giờ vi phạm một điều răn nào.

Sau đó, người con cả nói về em với giọng hết sức khinh bỉ. Anh không gọi là “em con”, nhưng nói là “thằng con của cha đó”. Điều này cũng giống như người Pharisêu trong dụ ngôn Lc 18,10-14 nói đến “tên thu thuế kia” với giọng miệt thị.

Như thế, Đức Giêsu đã ngỏ lời với những người vẫn nghĩ rằng mình là những tôi tớ tốt lành, luôn quan tâm để không bao giờ thiếu sót một điều răn nhỏ. Khi đó, họ nghĩ họ có nhiều quyền; họ tỏ ra khó chịu, không phải đối với người tội lỗi, nhưng đối với chính Thiên Chúa vì Ngài đã đối xử với kẻ tội lỗi như vậy: Nếu như thế, sống đạo đức còn ích lợi gì? Nếu như thế, sống trung thành và vâng phục Thiên Chúa còn có ý nghĩa gì nữa?

c) Người cha:

Người cha trông mong người con thứ từng ngày, nên ngay khi anh còn ở đàng xa, ông đã trông thấy. Ông vội vã chạy ra đón con, ông cuống quýt thúc đầy tớ chuẩn bị lễ mừng. Ông chẳng màng đến bài diễn từ bần tiện của anh ta. Ở nhà có con bê béo, ông quyết định cho giết ngay để ăn mừng. Rõ ràng trong lòng ông, niềm vui đang bùng nổ. Ông chưa bao giờ thôi thương yêu con. Nó đi xa, nó đã mất; nay nó lại được tìm thấy. Quá khứ không còn gì đáng kể, Điều quan trọng là nó đã trở về!

Đã không muốn nghe lời hối lỗi của con thứ, nay người cha lại để cho người con cả tha hồ nói lên những tâm tình chua chát. Sau đó, ông đã trả lời với giọng dịu dàng âu yếm. Qua lời ông nói, người con cả chẳng còn lý do gì mà nói rằng cha xử bất công với mình nữa. Nhưng ông tế nhị điều chỉnh: “vì em con đây…”. Nếu cha đã sung sướng đến thế khi gặp lại con, lẽ nào người anh lại không vui sướng khi gặp lại em?

Chúng ta không bao giờ biết được phản ứng sau đó của người con cả (nghe theo đề nghị của cha? Đi vào nhà và chào em? Đi vào ăn tiệc chung vui?). Chúng ta cũng không biết người con thứ được sống theo chế độ nào, anh ta sẽ đáp lại thế nào. Dù sao, toàn chương 15 giống như một bài ca chan hòa niềm vui được tấu lên để mừng niềm hạnh phúc của người đã tìm lại được điều mà họ đã mất.

+ Kết luận

Nếu đọc cả ba dụ ngôn, chúng ta sẽ thấy hai dụ ngôn đầu kết “có hậu”, còn dụ ngôn thứ ba có kết mở: Người con cả có vào nhà theo lời cha mời chăng? Như thế, hai kết luận tốt đẹp đầu nhằm đưa tới chúng ta một câu hỏi: Chúng ta có hết lòng chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa mà đón người tội lỗi hối cải vào Nước Thiên Chúa không? Trong thực tế, chúng ta vẫn được Thiên Chúa vui lòng đón tiếp, chúng ta cũng hãy sẵn lòng đón lấy người anh em trở về.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Mỗi con người đều có giá trị vô song trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã tạo nên từng con người với tất cả những phong phú làm nên nhân vị con người ấy. Ngài hỗ trợ cho con người ấy phát triển đến mức tối đa, để cuộc đời người ấy thành một tuyệt tác cho Ngài và cho loài người. Khi chúng ta phục vụ anh chị em, chúng ta phục vụ từng con người có giá trị độc đáo duy nhất, hay là chúng ta chỉ coi như là những con số, những “con chiên” không tên tuổi, theo nhau lầm lũi trước mặt chúng ta?

2. Thiên Chúa thương tất cả mọi người và muốn cho mọi người đều được cứu độ. Nhưng “tất cả” không có nghĩa là một khối người tương đối đông, mà là “từng người”. “Tất cả” là “từng người” trong thế giới, không bỏ sót một ai. Thiên Chúa chiếu cố đến từng con người y như chỉ có một mình người ấy trên đời.

3. Chúng ta có thể thấy mình như người con thứ: không phải là tên ăn cắp, chỉ lấy đúng phần mình; chúng ta cũng còn biết nói “thưa cha!”, nhưng không hề vui thích được ở với cha, mà chỉ muốn ra đi “ăn chơi” cho thỏa thích. Và mỗi khi gặp khó khăn, thì chỉ dâng lên Thiên Chúa một lời cầu nguyện đầy vụ lợi, tính toán. Người con thứ không biết nghĩ rằng xin làm một “người làm công”, thì sỉ nhục cha quá nặng nề, bởi vì cha vẫn chỉ mong đón mình về để làm “con”. Nay được cha đón vào nhà rồi, anh có biết đáp lại tình cha không? Phần này, chính chúng ta sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.

4. Chúng ta cũng có thể thấy mình như người con cả, không bao giờ trái lệnh cha, nhưng cũng chẳng thích ở với cha; trái lại chỉ tính toán, mong có ngay “thoát ly” để đi vui chơi với bạn bè. Đã thế, chúng ta lại tỏ ra khinh bỉ, miệt thị những kẻ bị coi là “tội lỗi”. Nay đã được cha ra gặp để tâm sự rồi, anh có vào nhà để chung vui không? Phần này, chính chúng ta cũng sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.

5. Vì không hiểu tình yêu của cha, cả hai người con, đặc biệt anh cả, không hiểu tiếng gọi kèm theo sự hiểu biết đó: anh chỉ thực sự là con của cha, khi yêu thương anh em mình. Ta không thể phục vụ Thiên Chúa như Ngài muốn nếu không yêu mến Ngài và thông chia tình yêu của Ngài cho anh chị em mình, cho dù họ thế nào. Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?

 

76. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin.

NHỮNG DỤ NGÔN VỀ NIỀM VUI TẬP THỂ SAU KHI TÌM LẠI ĐƯỢC CÁI ĐÃ MẤT

Trong các chương từ 15 đến 19 sẽ có nhiều giáo huấn của Chúa Giêsu, chủ yếu dưới hình thức các dụ ngôn, được trình bày trước hết để soi sáng trên thái độ ân cần của Thiên Chúa đối với những kẻ bị xã hội tôn giáo khinh chê và ruồng bỏ. Đó là trường hợp của ba dụ ngôn làm nên chương 15. Tình yêu của Thiên Chúa đối với những kẻ không được yêu thương, cũng không đáng thương lên án một cách gián tiếp sự cứng cỏi và nghiêm khắc mà những người”công chính” hơn đối xử với họ.

Điểm bắt đầu ở chương 15 lại là một bữa ăn (cc. 1-3). Nhưng lần này Chúa Giêsu đón tiếp –có thể tại chính nhà Ngài- những người thu thuế và những người tội lỗi (với nghĩa xã hội lẫn tôn giáo của từ này) và Ngài ăn uống với họ. Những người thuộc phái Pharisêu và các Kinh sư lên án cử chỉ này vì nó bẻ gãy những hàng rào truyền thống phù hợp với sự khôn ngoan Kinh Thánh (x. Cn 1,1-15), và như họ đã từng làm nhân bữa ăn tại nhà ông Lêvi (5,29-30), họ lẩm bẩm. Dưới dạng dụ ngôn, lời đáp của Chúa Giêsu ở đây ngắn gọn và đanh thép (5,31-32); sự tương phản giữa những kẻ công chính và người tội lỗi ăn năn sám hối được nói đến ở 5,32 cũng như ở 15,7. Ba dụ ngôn ở đây thiết lập một liên hệ chặt chẽ giữa cách hành xử của Chúa Giêsu và thái độ của Thiên Chúa –đó là điều mới mẻ và căn bản. Những dụ ngôn này được gắn liền với nhau bằng các đề tài (niềm vui, sự hoán cải) và một diễn ngữ (bởi vì cái mất lại được tìm thấy) như một sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt cả chương. Hai đề tài đầu tiên (cc. 4,10) minh hoạ phần đầu của lời khẳng định:”Ta đến không phải để gọi những người công chính mà gọi các tội nhân” (5,32a), đề tài sau cùng minh hoạ phần cuối”để chúng ăn năn sám hối” (5,32b).

Để biện minh cho thái độ của mình, Chúa Giêsu bắt đầu bằng hai dụ ngôn có cấu trúc song song (cc.4,10). Cùng một câu hỏi giả thiết một lời đáp khẳng định. Một cái gì đó bị mất (từ nayù được dùng tới năm lần) mà người ta đã tìm lại được (sáu lần). Một người chăn chiên khá giả và ngược lại, một bà nội trợ nghèo mời bạn bè hàng xóm lại chia sẻ niềm vui của họ. Nếu con chiên tự đi lạc, thì một trong số mười đồng bạc –với một đồng đủ sống một ngày- bị người đàn bà đánh mất. Như vậy các dụ ngôn này không quan tâm tới cách thức sự mất mát; ngay cả việc tìm thấy cái đã mất cũng thuộc về quá khứ. Việc tìm kiếm ít được nhấn mạnh hơn là lời mời gọi cùng chia sẻ niềm vui.

Các dụ ngôn kép này (cc. 4-6.8-9) và việc áp dụng của chúng chỉ hơi khác nhau ở hình thức (cc.7-10), đồng hoá cái đã mất với tội nhân. Điều quan trọng hàng đầu là đừng đọc lời giải thích mà không có con người đi trước: liên hệ giữa chúng nhấn mạnh rằng việc sám hối của tội nhân không thể xảy ra, nếu trước đó Thiên Chúa đã không đi tìm họ. Ở cuối tiến trình này là niềm vui của Thiên Chúa đối với chỉ một tội nhân sám hối, một niềm vui mà Thiên Chúa chia sẻ cho toàn triều thần Thiên Quốc. Ở câu 7 (chứ không ở câu 10) có vấn đề chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn. Phải chăng đó là một lời mai mỉa nói với các người Pharisêu và Kinh sư, vì họ phải biết rằng không ai là công chính trước mặt Thiên Chúa (x. Rm 3,10tt) và chính họ cũng cần hoán cải? Phải chăng đây là một cách nhấn mạnh cách tột cùng – như trong chính dụ ngôn, câu 4 – cái giá trị của từng cá nhân đối với Thiên Chúa khi họ quay về với Ngài?

Như thế, việc Chúa Giêsu năng lui tới các kẻ bị loại trừ được biện minh bằng hành động của chính Thiên Chúa. Và diễn từ dụ ngôn như muốn nêu lên cho các thính giả một câu hỏi: Các bạn có thể chung vui với Chúa Kitô khi thấy những người tội lỗi đến gần Ngài để nghe Ngài chăng?

Dụ ngôn về người có hai con trai (cc.11-32) được trình bày như một bức tranh bộ đôi đưa vào hoạt cảnh người con út, rồi người con cả; trong cả hai trường hợp, người cha giữ một vai trò quyết định. Khi đọc dụ ngôn này chúng ta sẽ nhận thấy rằng: trong một dụ ngôn có hai kết luận, hai”cao điểm” thì cao điểm thứ hai là điều Luca muốn nhấn mạnh hơn cả.

Phần thứ nhất của dụ ngôn trình bày người con út dưới một hình ảnh không có gì đáng khen (cc. 1-24). Nó không đợi cha qua đời rồi mới sử dụng phần gia tài của nó, và nhất là nó hoang phí gia tài khi sống một cách truỵ lạc. Thế là nó phải đi làm công cho một kẻ ngoại giáo đến đỗi đi chăn heo –loại thú vật nhơ bẩn trong Do Thái giáo- và sẵn sàng nhét cho đầy bụng thức ăn của chúng. Nó chỉ quyết định trở về vì tình thế bắt buộc thôi. Chắc hẳn rằng trước một dung mạo như thế những người Pharisêu và luật sĩ đang nghe một câu chuyện phải cảm thấy đối với nhân vật này một tâm tình tương tự như họ đã có đối với các thực khách đồng bàn với Chúa Giêsu! Giọng văn thay đổi với sự suy tư của đứa con hoang đàng (cc. 17-19). Hành động mà anh ta định làm chắc hẳn có một lý do vụ lợi, nhưng nó ghi dấu bước chân khởi đầu của một cuộc hoán cải, một cuộc trở về với Thiên Chúa cũng như với cha của mình. Khi anh ta quả quyết rằng anh chẳng con đáng gọi là”con”, và xin được đối xử như một người làm công cho cha anh, anh không toan tính một mưu mẹo gì, với óc thực tế, anh ta tính toán về cái giá phải trả cho một cuộc trở về của anh.

Thái độ của người cha, trong phần thứ nhất này, làm người ta phải ngạc nhiên, ông không từ chối yêu cầu của đứa con út. Ông chia của cải cho các con, phân phát gia tài cho hai đứa. Đứa út nhận được một phần ba của cải, trong khi hai phần ba kia dành cho con cả (x. Đnl 21,17), thì người cha vẫn quản lý cho tới khi ông qua đời. Người cha để cho đứa con út được hoàn toàn tự do và, khác với người chăn chiên và bà nội trợ trong dụ ngôn trước, ông không làm bất cứ điều gì để tìm lại con mình. Nhưng chính tuy ân cần mà ông đón tiếp con khi nó trở về, có nguy cơ gây nên cho chúng ta, các độc giả, một lời kêu ca trách móc gần giống như lời trách móc mấy ông Pharisêu ở câu 21. Người ta cứ tưởng, như chính đứa con út đã tưởng, cùng làm người cha sẽ đối xử với nó như một người làm công cho mình (c.18), và sẽ đòi buộc nó phải đền bù lỗi lầm. Thay vì làm thế, người cha chạnh lòng thương, ông hạ mình chạy ra đón con –một sự vội vã không xứng đáng với một người Đông phương- ông bày tỏ với nó cách công khai những dấu hiệu yêu thương, ngay cả trước khi nó xưng thú tội lỗi. Rồi ông ngắt lời nó xưng thú, cho nó đeo nhẫn là dấu chỉ uy quyền, cho nó mang giày là dấu hiệu riêng của người tự do. Ông hồi phục nó hoàn toàn trong cuộc sống gia đình và tổ chức một bữa tiệc để cả nhà cùng chia sẻ niềm vui.

Cùng một lý do như người chăn chiên và bà nội trợ:”Vì con ta… đã mất nay lại tìm thấy”. Hơn nữa, lý do ấy được bày tỏ một cách mới mẻ:”Nó đã chết mà nay sống lại”. Hoán cải là trở về với Thiên Chúa và như thế là trở về với cuộc sống đích thức. Nói một cách trống không –với các đầy tớ, mà cũng với các người Pharisêu và cả với chúng ta nữa- lời mời gọi hãy vui mừng mang một hình thức rõ rệt:”Hãy mở tiệc ăn mừng!”. Niềm vui này dễ hiểu đối với con chiên hay đồng bạc bị mất, thì ở đây lại làm cho chúng ta ngỡ ngàng vì tội lỗi của đứa con hoang đàng –một đề tài không có trong hai dụ ngôn đầu này. Niềm vui đó sẽ làm cho người con cả nổi giận như các người Pharisêu: chẳng lẽ cha lại mời nó ăn tiệc mừng với một tên tội lỗi, với một kẻ nhơ bẩn!

Trong phần thứ hai của dụ ngôn, chân dung của người con cả biểu lộ sự giận dữ, ganh tỵ và gây gổ (cc. 25-32) khi anh ta quả quyết rằng đã bao nhiêu năm trời hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh (c.19), anh tự đặt mình trong tương quan với cha như là một bổn phận hơn là do tình yêu. Thái độ”công chính” của anh làm ta nghĩ đến thái độ của các người Pharisêu và các luật sĩ. Như họ, anh tỏ ra giữ khoảng cách với tên hoang đàng khi nhắc đến tội của hắn (nó đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm) và gọi hắn là”thằng con của cha đó” –chứ không phải là”em của anh ta”. Anh ta tố cáo cha đã thiên vị và cuối cùng, trách cha đã giết bê béo ăn mừng với một kẻ chỉ là tội nhân.

Hình ảnh người cha phù hợp với chân dung đã có trong phần thứ nhất. Ở đây nữa, thái độ của ông không phải được tạo nên do những ước lệ của Đông phương mà bởi tình yêu đối với con ông: ông ra và năn nỉ con ông (c.28)! Để biện minh cho cách xử sự của mình, ông nhìn nhận rằng người con cả của ông chưa bao giờ đã chết hay bị mất và ông nhấn mạnh đến cuộc sống thân tình giữa hai người. Câu nói”tất cả những gì của cha đều là của con” nhắc nhở rằng, từ khi chia gia tài, người cha và người con cả cùng chung hưởng phần gia tài nhiều gấp đôi thuộc về người con cả (xc.12). Hai điểm được nhấn mạnh với cậu cả đang giận dữ: phải mở tiệc ăn mừng –thái độ này nằm trong chương trình của Thiên Chúa (x.2,49). Bởi vì được dựa trên hành động của chính Thiên Chúa (x.7,10). Và”đứa con” (c.30) cùng là”người em” của anh cả… Cuối cùng người cha nói lại lý do nền tảng, lần này được phong phú hoá nhờ lời giải thích thần học (cc.24-32): việc đi từ sự chết đến sự sống.

Dụ ngôn vẫn còn mở ngỏ: người ta không biết anh con cả có đón nhận lời khuyến dụ của cha và quyết định chia sẻ niềm vui vì cái đã mất lại tìm thấy như các bạn bè và hàng xóm trong hai dụ ngôn trước chăng. Anh có chịu chấp nhận cùng ăn với đứa em”nhơ bẩn” không hay cứ tự nhốt mình trong cơn giận dữ của anh ta? Vậy, nếu chính tôi, là thính giả hay độc giả của dụ ngôn này, đang ở trong hoàn cảnh của người con cả, thì chính tôi phải chọn lựa chấp nhận hay không lời năn nỉ của người cha. Một lời đáp tích cực là điều khó, đôi khi còn đau đớn nữa, dụ ngôn không nói rằng điều đó sẽ tự động có được. Lập trường của người con cả, trong đó phần chót của dụ ngôn đặt chúng ta vào, ngột ngạt hơn những gì phụng vụ thống hối đề nghị: vì phụng vụ này chỉ giới hạn ở phần thứ nhất của dụ ngôn và dẫn dắt chúng ta như thể đồng hoá chúng ta với người con út – điều này có lẽ dễ dàng hơn! Không thể chối cãi và Luca nhấn mạnh nhiều hơn đến phần thứ hai. Dù sao, quan điểm chính nhắm tới tình yêu và sự thương cảm của người cha đối với từng đứa con, được thể hiện qua suốt cả trình thuật. Chính đó là điều làm cho việc trở về của tội nhân thành khả thi và mời gọi chúng ta vui mừng, dù đôi khi có khó khăn lắm cũng phải vui mừng.

 

77. Chú giải của Noel Quesson.

Tin Mừng hôm nay, nếu đọc đầy đủ, gồm “ba dụ ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu, mà Luca đã tập họp trong chương 15: *1. Con chiên bị mất và tìm lại được *2. Đồng bạc bị đánh mất và tìm lại được *3. Đứa con đi mất và trở về. Ba dụ ngôn này được xây dựng trên cùng một sơ đồ và đạt đỉnh cao trong dụ ngôn thứ ba mà nhan đề truyền thống là “dụ ngôn đứa con hoang đàng”. Tuy nhiên, vì dụ ngôn thứ ba này đã được suy gẫm vào Chúa nhật IV Mùa Chay của cùng năm Phụng vụ này, nên hôm nay chúng ta chỉ cần chú giải hai dụ ngôn đầu.

Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.

“Ông này đón tiếp phường tội lỗi, đó là một định nghĩa về Chúa Giêsu, đồng thời cũng là một mạc khải của Thiên Chúa!”. “Ai thấy tôi là thấy cha tôi” (Ga 14,9).

Những người Pharisêu và các kinh sư là những người rất được trọng vọng. Họ thật sự bị sỉ nhục vì Đức Giêsu thường tiếp phường tội lỗi. Phần chúng ta, chúng ta có thể hoàn toàn bỏ qua khía cạnh “Tin Mừng” của ngày hôm nay, nếu chúng ta không nhận ra rằng bài Tin Mừng này cũng vì chúng ta. Phải chăng chúng ta là những người nói rằng: “Tôi không làm gì xấu, tôi là một người tử tế, tôi không có tội”.

Tuy nhiên, trong phần thư của Thánh Phaolô mà chúng ta đọc hôm nay, thánh nhân lặp lại với chúng ta: “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi mà kẻ đầu tiên là tôi” (1 Timôtê I,15). Phụng vụ ngày Chúa nhật đầy rẫy thực tại “cứu độ” “tội lỗi được tha thứ”. Chúng ta có đem lại một nội dung cụ thể cho các từ đó? Chúng ta có thuộc phái Pharisêu chỉ nhìn thấy tội lỗi. Trong những người khác? Trước khi đi xa hơn trong sự suy niệm của tôi, tôi cần phải bình tâm và sáng suốt nhận thực rằng tôi là kẻ tội lỗi” khi nhớ đến những thiếu sót mà tôi phạm phải trong đời tôi.

Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang để tìm cho kđược con chiên bị mất?”

Đức Giêsu hỏi. Người kêu gọi kinh nghiệm của các cử tọa, các ông nghĩ gì? Các ông sẽ làm gì? Thật ra, không một mục đồng nào chịu mất dù chỉ một con chiên, nhưng lo lắng để tìm lại nó.

Các triết gia đã biến Thiên Chúa thành một ý niệm vững chắc: Một hữu thể bất động, không hề thay đổi... Còn ở đây chúng ta đứng trước một Thiên Chúa “chuyển động”, đang mở chiến dịch tìm kiếm cái mà Người đã mất? Và Đức Giệsu đặt trước mắt - chúng ta các cậu mục đồng vùng đồi núi Galilê đang chạy hết tốc độ, chân trần trên sỏi đá để tìm lại một con chiên đi lạc khỏi đàn. Chúng ta đoán được sự ngoan cường của các cậu trai ấy, “tìm kiếm cho tới khi nào tìm thấy!”

Thiên Chúa là như thế...

Không bao giờ có người nào bị Thiên Chúa bỏ rơi.

Không bao giờ có người nào “bị mất” hẳn, bởi vì có Đấng yêu thương người ấy không ngừng đi tìm người ấy. Thiên Chúa không chịu ngồi chờ kẻ tội lỗi trở về. Người ra đi tìm họ.

Chúng ta còn phải chiêm niệm lâu dài Thiên Chúa đó, Đấng mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta. Khi người ta yêu thương, thì số học không còn như cũ. Lúc đó, có thể đặt dấu bằng (=) ở giữa số 1 và số 99. Đối với Thiên Chúa, mỗi người đàn ông, mỗi phụ nữ có một giá trị độc nhất, vô giá. Tôi nhìn thấy con chiên độc nhất ấy đã bò trốn hoặc đã bị mất. Đó là con chiên chiếm hết ý nghĩ của cậu mục đồng. Và xem ra chỉ có nó mới là đáng kể. Chúng ta có một Thiên Chúa như thế. Một Thiên Chúa tiếp tục nghĩ đến những ai đã bỏ rơi Người, một Thiên Chúa yêu mến những ai không yêu mến Người, một Thiên Chúa đau khổ chỉ vì một trong số các con chiên của Người làm Người lo lắng.

Đôi khi, tôi chẳng phải là con chiên đó sao? Và, xung quanh tôi, như ông nọ, bà kia, cô X..., ông Y... không người nào bị bỏ rơi. Thiên Chúa đang tìm kiếm họ.

“Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai...”

Đây là một hình ảnh kỳ diệu, một trong những tranh thánh đã thể hiện Đức Giêsu như thế ngay từ những thế kỷ đầu: Một người chăn chiên sung sướng, tươi cười, vác trên vai một con chiên. Trong nội tâm mình, chúng ta còn phải chiêm niệm hình ảnh ấy của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã có một sự quan sát rất tinh tế với chi tiết đơn giản đó: “vác con chiên trên đôi vai”, khi một con chiên đi lang thang nhiều giờ hoặc nhiều ngày xa đàn chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó thời. Và một con chiên nặng đấy? Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi nhiều sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời... Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc? Nhưng, Đức Giêsu nói, hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của mình, bế nó lên tay và vác nó.

Chính Thiên Chúa được giới thiệu với chúng ta như thế! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Kinh thánh đã thể hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “Người chăn chiên” (Isaia 40,11; 49,10 v.v...). Và mỗi Kitô hữu thỉnh thoảng phải đọc lại Thánh Vịnh 26 tuyệt vời: “Chúa là đấng chăn dắt tôi, tôi không thiếu thốn chi”.

“Vđến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”.

Niềm vui của người chăn chiên rất mạnh mẽ nên người ấy không thể, giữ lại cho một mình mình. “Xin chung vui với Ta” Thiên Chúa nói. Vậy giờ đây Thiên Chúa là hữu thể đang vui mừng và chia sẻ nềm vui. Chúng ta hoàn toàn khác với các người Pharisêu và kinh sư hay càu nhàu, bẳn gắt!

Vậy tôi nói cho các ông hay: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.

Thiên Chúa vui mừng tha thứ cho những kẻ tội lỗi.

Thiên Chúa vui mừng để cứu độ, vì Người không biết kết án ai. Trên trời có niềm vui! Vậy khi nào? Mỗi lần một kẻ tội lỗi hoán cải. Chỉ một thôi ư! Mỗi lần mà sự ác lùi lại một chút trên mặt đất.

Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà moi móc tìm cho kđược?

Luca, vốn rất quan tâm đến các phụ nữ là người duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn đầy “nữ tính” này, để nói lại với chúng ta cùng một sự việc dưới một hình ảnh bổ sung. Sự lặp lại này không đơn thuần là một minh họa mới: Đức Giêsu nhấn mạnh, như để nói với chúng ta rằng điều Người vừa mới mạc khải không phải là một sự nói quá hoặc một sự nhầm lẫn ngẫu nhiên. Tình yêu phi thường của Thiên Chúa được tái xác nhận ở đây.

Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất”.

Vậy giờ đây một niềm vui rất đơn sơ được chia sẻ giữa những Người phận nhỏ. Đây cũng là một sự quan sát cụ thể của Đức Giêsu. Người phụ nữ được đưa lên sân khấu này là một Người nghèo: Bà không sở hữu “một trăm con chiên”, bà chỉ có mười “đồng quan “! Đồng quan này chỉ số tiền lương trung bình một ngày công nông nghiệp (Mt 20;2). Vì thế không phải là gia tài to lớn gì mà bà đã tìm lại được Nhưng bà cũng muốn chia sẻ niềm vui. Thiên Chúa là như thế đó. Chúng ta còn chưa hiểu đủ bầu khí vui mừng xuất phát từ tấm lòng của Thiên Chúa nằm rải rác khắp nơi trong toàn bộ Tin Mừng như một “Tin Mừng”, và niềm vui ấy muốn tràn ngập nhân loại được “cứu thoát”.

“Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”.

Hình ảnh này rất đẹp. Không nên cụ thể hóa nó. Có một cuộc lễ trên thiên giới. Niềm vui của Thiên Chúa lan truyền và trở thành niềm vui của các thiên thần.

Tất cả lễ hội hân hoan này chỉ vì sự hối cải của một người tội lỗi?

Tư tưởng Kitô giáo, phản ánh tư tưởng của Đức Giêsu đầy sự tinh tế. Phải nhấn mạnh rằng, không hề có một sự làm hại thanh danh với “tội lỗi” trong thái độ đó. Đức Giêsu không bao giờ nói rằng tội lỗi không quan trọng. Trái lại, sự lên án của Người đối với tội lỗi thì mãnh liệt và không chút mơ hồ. Như mọi ngôn sứ, Đức Giêsu đòi hỏi sự hoán cải và sám hối (Máccô 1,15). Và nếu các dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe là một lời rao giảng về tình yêu Thiên Chúa thì chúng cũng là một lời rao giảng về sự hoán cải cần thiết của kẻ tội lỗi. Nhưng điều được nói ở đây một cách mạnh mẽ là luôn luôn Thiên Chúa có sáng kiến “đi tìm” điều đã bị mất. 'Tình yêu cốt ở điều này; không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,10 -19).

Chúng ta có để Thiên Chúa yêu thương chúng ta không? Chúng ta có mang lại niềm vui cho Thiên Chúa không? Và có bước vào trong niềm vui của Thiên Chúa không? Cần phải đọc lại phần kế tiếp là dụ ngôn về đứa con hoang đàng, trong Chúa nhật IV Mùa Chay.

 

78. Chú giải của R. Gutzwiller

CHIÊN LẠC (15, 1-7)

Trong số những người môn đệ Chúa, có nhiều người thu thuế và tội lỗi. Các ký lục và biệt phái lấy điều đó là gương mù và ta biết là họ đã tỏ ý không chấp thuận điều đó, cho nên họ đưa ra những vấn nạn là chuyện đương nhiên.

1. Vấn nạn

Những người thu thuế là những người làm ăn sinh sống bằng những nghề khá mập mờ. Thế nên, họ chẳng lưu tâm đến luật lệ của Thiên Chúa trong lý thuyết lẫn trong thực hành; họ chẳng cần biết đến những giá trị tinh thần, những cái họ coi là chỉ tổ mất thì giờ và bất lợi. Họ còn có thái độ khinh dể những nơi thờ phượng nữa.

Còn những người tội lỗi, họ chỉ thấy bình thản khi lãng quên Thiên Chúa và cố tránh né mọi bận tâm về tôn giáo.

Thế nhưng sao họ đến với Chúa Giêsu thật đông như thế? Chúa Giêsu không chấp nhận một não trạng duy vật, một cuộc sống xa cách Thiên Chúa, Ngài cũng chẳng có ý làm cho tôn giáo thành dễ theo hơn. Thế mà sao họ vẫn đến với Ngài?

Ngược lại, những người biệt phái, đại biểu cho thành phần tôn giáo ‘đạo gốc’, là những nhà đạo đức chuyên nghiệp, những người sùng đạo nhiệt thành, những người hoàn toàn không thể trách cứ: tóm lại họ là thành phần đạo đức ưu hạng.

Các luật sĩ là những nhà chuyên môn, những người thông thạo lề luật và thực hành về tôn giáo, thông thái về khoa giáo điều, nói những lời đáng tin về Thiên Chúa. Và hẳn là những hạng người này đã không đến với Đức Kitô, có chăng là tính cách địch thủ, hầu hại Ngài và làm cho Ngài ‘mất tín nhiệm’.

Những người thu thuế và tội lỗi vẫn là những kẻ bị lên án, còn luật sĩ và biệt phái là những người ưu tuyển. Dân chúng nghĩ như thế và chắc có lẽ là Thiên Chúa cũng vậy. Thế mà tại sao lại xẩy ra thế khác?

2. Trả lời

Nhưng Thiên Chúa đã và còn đang xét định cách khác. Tư cách của những người thu thuế và tội lỗi có xâú thật, tư cách của luật sĩ và biệt phái có đúng về nhiều điểm thật. Thế nhưng, những ý định bên trong, những động lực của việc họ làm lại chứng tỏ hoàn toàn khác hẳn.

Những người thu thuế và tội lỗi coi mình như hạng hư mất, xa cách Thiên Chúa, không còn sùng mộ chi nữa, đúng ra đầy tội lỗi. Do đó họ xác tín về sự bất lực của họ, không thể tự thoát mà phải chờ mong tất cả từ ân sủng và lòng nhân lành của Thiên Chúa.

Biệt phái và luật sĩ tự hào là những người công chính, được bảo đảm an toàn, nơi họ tất cả đều ổn định và ân sủng đầy tràn. Vì tự lực thánh hoá bản thân, những người như thế đâu cần nhờ nguồn lực thánh hoá độc nhất nữa.

Nhưng Thiên Chúa lại có cái nhìn khác hẳn. Ngài không xét hành vi bên ngoài, nhưng là những ý định trong lòng.

Linh hồn có ý thức sự yếu đuối của mình, sự hèn hạ, giới hạn và tội lỗi của mình, khi ấy nó mới tìm kiếm Thiên Chúa nơi thâm sâu của lòng mình, mới ao ước Ngài, mới có thể đón nhận ân sủng của Ngài và như thế là mở cửa để đón Ngài.

Nương đồng dẫu có sỏi đá cũng không hề chi: nó đã được cày bừa và những luống cày sâu sẵn sàng tiếp nhận hạt giống sẽ gieo vào. Tạo vật mang tật bệnh, vì thế nó cần đến y sĩ; vì thấy mình trống rỗng, nên chỉ có sự viên mãn của Thiên Chúa mới có thể lấp đầy. Sự viên mãn ấy thấu nhập nơi ngõ hẹp cuộc đời của nó: vì thế nó sẵn sàng trở về, sẵn sàng hoán cải, nó khẩn khoản bàn tay cứu nhân độ thế đến cứu thoát mình.

Ngược lại, con người tự hào về sự cao trọng, về sức mạnh của mình, nghĩ rằng mình không thể phạm tội và vinh vang vì giai cấp được tôn trọng, tưởng rằng mình hoàn hảo trong đàng đạo đức, thì họ sẽ chẳng lo kiếm tìm Thiên Chúa, bởi vì họ lấy bản thân làm nơi an nghỉ. Tin tưởng ở mình thì không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa; tình yêu mình sẽ thay thế cho lòng yêu mến Thiên Chúa.

Người thu thuế có thể hoán cải khi họ nhận thấy thân phận tội lỗi của mình. Còn biệt phái và luật sĩ không thể hối cải vì họ cứ ngỡ là mình công chính. Trên trời sẽ vui mừng khi có một người cải tà qui chánh, bởi vì đây là một sự quay về, một khuôn mặt nhìn lại Chúa, một con người đã hư mất được cứu thoát. Như thế trên trời sẽ vui mừng mỗi lần có người ‘tội lỗi’ trở về, chứ không phải mỗi khi có người ‘công chính’ tin rằng mình không cần hoán cải nữa. Trên trời vui mừng vì người tội lỗi thực sự được Chúa Kitô, Đấng hằng tìm kiếm những tâm hồn tội lỗi, đến cứu thoát.

Nhưng trên trời không vui vì số phận của những người –và họ là đa số- không thể được cứu thoát chỉ vì lý do họ nghĩ rằng không cần thiết.

Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là ý tưởng của chúng ta và đường lối của Người chẳng phải là đường lối của ta. Vì đó, Chúa Kitô đã cho họ thấy rằng những ý định của Thiên Chúa khác hẳn của con người, xưa cũng như nay, Ngài đi tìm kiếm những kẻ tội lỗi thực sự, và bỏ qua những người ‘công chính’ giả hiệu.

TÌM KIẾM (15, 8-10)

Liều mất mạng sống vì tình yêu Chúa Kitô, mất mạng sống vì không có Ngài… Bây giờ là vấn đề được Đức Kitô kiếm tìm và đi tìm kiếm theo gương Ngài.

1. Được kiếm tìm.

Người đàn bà đánh mất một đồng bạc. Bà tìm kiếm không ngơi cho đến khi thấy lại đồng bạc đã mất: theo một nghĩa loại suy, dựa theo lời Đức Kitô, ta có thể nói về việc Thiên Chúa tìm kiếm.

Ân sủng không được ban theo kiêủ buôn bán, dè xẻn, mà Thiên Chúa cũng chẳng đưa cho con người một bản tổng kết những gì Ngài đã ban cho họ. Ân sủng của Người tuôn chảy không ngừng, tình Người yêu thương chẳng bao giờ cạn.

Thiên Chúa kiếm tìm tạo vật đã lạc mất bằng những lời khuyên nhủ, cảnh cáo, khích lệ; đó là bề trong, còn bề ngoài người dùng Giáo Hội, các linh mục, sách vở, người này người nọ, biến cố này biến cố khác. Nhiều biến cố có vẻ phũ phàng. Nhưng thực ra đó chỉ là những dấu chân hữu hình của Thiên Chúa, dõi theo từng người chúng ta.

Bệnh tật giúp người ta mau mắn hồi tâm lại, mất mát của cải sẽ tách người ta ra khỏi những sự thế trần. Thất vọng sẽ cho thấy không nên quá tin tưởng vào con người. Thất bại sẽ thanh lọc tính kiêu căng và những lời phê bình gay gắt sẽ giải thoát ta khỏi tính ích kỷ.

Cả khi con người lang thang phiêu lãng, Thiên Chúa vẫn đuổi theo. Không có chỗ nào con người ở một mình cả. Chẳng bao giờ con người có thể tự nhủ Thiên Chúa đã bỏ rơi mình rồi. Một người thợ săn kiên nhẫn, rình chờ con mồi, một ngư phủ lưới người cũng kiên nhẫn đợi chờ chú cá bé nhỏ dính vào lưới ân sủng, hoặc là có dẫy dụa đi nữa, thì cũng mắc vào chiếc lưỡi câu. Đấy Thiên Chúa như thế đấy.

Chỉ có ở thế giới bên kia, tạo vật đã bị chiếm hữu sẽ nhận thấy rằng Thiên Chúa vẫn luôn theo đuổi, tìm kiếm mình, và tình Ngài yêu thương không ngừng đưa ra hết cách, và hết thế để dẫn đưa mình trở về. Tất cả mọi người chúng ta –dầu không nhận thấy- đang sống trong bầu khí yêu thương của Người.

Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta tỏ ra phong phú –đây là điều khó có thể tưởng tượng được-. Điều này giải thích niềm vui trên trời khi một người xa lạc được tìm về.

2. Tìm kiếm

Cũng có thể áp dụng dụ ngôn này cho việc tìm kiếm những người con đã hư mất. Người mục tử không bao giờ được bằng lòng với những con chiên sốt sắng ngoan đạo, mà phải biết nghĩ đến những tâm hồn còn đang xa cách, đang gặp nguy khốn, đã sa ngã, đã lầm đường lạc lối.

Thực là một hiện tượng đáng buồn khi thấy trong tiểu thuyết hiện đại, thường các vị linh mục được miêu tả như những vị trưởng giả đầy đủ. Rõ ràng những nguyên tắc bất can thiệp và nhẫn nhục ảnh hưởng nhiều đến đời sống linh mục. Ngạc nhiên hơn nữa là ngày nay các toà Giám mục, đa số gồm có những vị trẻ trung, tinh thần cởi mở, đến độ gần như cách mạng trong khoảng thời gian thế chiến thứ nhất. Kết quả vẫn chán nản biết bao!

Một số lớn các linh mục hiện nay đã tham dự vào thế chiến thứ hai, và rồi người ta mới thấy điều đó.

Có lẽ người ta cho rằng nhận một trọng trách trong Giáo Hội đã có quy củ, chắc chắn sẽ làm cho họ mau an phận và làm suy yếu tinh thần tìm kiếm của họ. Thực sự những người mà Giáo Hội có trách nhiệm, đã tiếp tục lìa xa Giáo Hội.

Nếu người mục tử tốt lành để lại chín mươi chín con chiên để tìm kiếm một con thất lạc, và nếu người đàn bà bỏ mọi công chuyện để tìm đồng bạc đánh mất, thì người mục tử cũng phải tìm ra đường lối và phương pháp để dẫn những kẻ lầm lạc trở về. Chúng tôi có ý nói đến sứ vụ tông đồ tại các gia đình, tổ chức thăm viếng tận nhà, tái phối trí những họ đạo lớn, phát huy tinh thần tìm kiếm trong công tác tông đồ giáo dân, sự chuẩn bị môi trường bằng báo chí, những nỗ lực bác ái xã hội, những điều kiện ưu tiên cho vùng ‘sỏi đá’. Nói tóm lại, ta không thể bằng lòng với những gì mình đang có mà phải nghĩ đến những gì đã mất mát đi.

Làm cho những người vốn đã tốt, trở nên tốt hơn không đủ. Thực tế rất thường chưa hẳn những người đó đã là những người tốt.

Nhiều khi những người tân tòng, những người ăn năn hối cải lại khiến cho người ta mừng rỡ hơn bởi vì họ biết mình lầm lạc và đã được tìm kiếm, họ biết rằng chính bản thân họ đã tìm lại điều đã mất; Họ quí chuộng kho tàng của họ hơn là những người bao giờ đức tin cũng bình thường, không yếu đuối cũng chẳng lu mờ.

NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG (15, 11-32)

Xét theo tâm lý, phải là bậc thầy mới hoạ nổi dụ ngôn đứa con hoang đàng. Thế nhưng đây lại chẳng nhấn mạnh về đứa con hoang đàng, về những nỗi khốn nạn và sự trở về của chàng ta. Mà lại nhấn mạnh nhiều đến người cha.

Tất cả những đoạn văn Thánh Luca nói về vấn đề hư mất đã kết thúc một cách ý nghĩa khi đưa chúng ta về Thiên Chúa, Đấng cứu thoát những gì đã hư hại và bù đắp dư dật.

1. Người cha để cho đứa con hư hỏng.

Trong dụ ngôn, người cha có thể, hoặc tạm thời từ chối không chia cho người con phần gia tài của anh ta, hoặc là nói cho thấy hơn thiệt. Bản văn lại chẳng đả động đến chi tiết. Người cha đã chia gia tài cho anh, và để anh ra đi. Đối với đứa con, chẳng phải vì xung khắc hay vì sự sa đoạ nào đó thúc đẩy anh ra đi, nhưng là vì anh khát khao được sống ngoài vòng kềm toả, vì háo hức khao khát kinh nghiệm, vì muốn biết cái mới lạ, vì chưa có bản lãnh, vì tính hung hăng và bản năng thích phiêu lưu mạo hiểm.

Thiên Chúa cũng để cho con người hành động. Người có thể gìn giữ con người khỏi tội lỗi bằng những đường lối quan phòng của Người hoặc bằng áp lực của ân sủng mà con người không thể nào cưỡng lại được. Thế nhưng, Người vẫn tôn trọng tự do của con người: điều này làm chúng ta ngạc nhiên và khó hiểu.

Nhưng thể theo Thánh ý của Người, sau khi con người đã được tạo dựng một cách tự do và được ban cho quyền tự do, Thiên Chúa đã thực sự để cho con người làm chủ những quyết định của mình, lại còn ban cho con người sự trợ giúp tự nhiên để thực hiện những quyết định đó nữa. Bởi chưng mọi chuyện con người thực hiện –cả khi con người làm điều ác nữa- con người cần phải có sự trợ lực của Thiên Chúa, nếu không con người hoàn toàn bất lực.

Trong dụ ngôn, đứa con lầm lạc dần dần sa sút, trước tiên là một sự phung phí dại dột, rồi hắn phung phí gia tài cho bọn đĩ điếm cho đến lúc hắn hoàn toàn chìm đắm trong tình cảnh khốn nạn và phải đi chăn heo (ta chớ quên thái độ xa lánh của người Do thái đối với loại thú vật này) rồi suýt chết đói.

Thiên Chúa cũng thế, Ngài để mặc con người tự do theo con đường đã chọn lựa, để họ xuống dốc theo ý muốn và ao ước của họ. Ai tưởng mình có thể định đoạt giá trị sự vật thì Chúa sẽ để họ theo ý riêng mình, cho đến khi họ hiểu rằng ý muốn tự quyết của họ chỉ là sự sụp đổ bất lực.

Thiên Chúa thường thông cảm với việc con người yếu đuối sa ngã giữa lúc làm bạn với bầy heo và cơn đói ám ảnh. Tuy nhiên –sẽ có một hiện tượng kỳ dị- bao lâu mọi sự tốt đẹp thì con người ít nghĩ đến Thiên Chúa. Họ muốn quán xuyến tất cả và tự mình quyết định. Nhưng khi có trục trặc vì lỗi của họ, họ vội vàng quy trách cho Thiên Chúa.

2. Người cha đón nhận đứa con hư hỏng

Trong dụ ngôn, người con đã trở về với chính mình. Bị lâm vào cảnh phiền muộn, nó mới biết đến kinh vực sâu, thú nhận lỗi lầm của mình và dọn sẵn lời thú tội: ‘Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha’. Nó ý thức mình không còn quyền lợi nữa và chỉ còn trông cậy vào lòng nhân hậu để được coi như một kẻ hèn hạ nhất trong đám thợ làm công.

Khi con người có kinh nghiệm sâu sắc và chua cay về thất bại bản thân, họ dễ ý thức giá trị của ân sủng. Lúc ấy, họ biết không thể tự sức mình mà được việc, nên phải phó thác vào ân sủng của Thiên Chúa. Tội lỗi đã làm cho con người mất địa vị làm con Thiên Chúa, cho nên, làm tôi tớ đối với nó là một đặc ân. Con người không còn đến trước Thiên Chúa Cha với tư cách một người con quấy rầy, nhưng như một kẻ van xin đầy lòng hối hận đứng trước chủ nhân. Và Thiên Chúa chấp nhận họ.

Trong dụ ngôn, người cha đã chờ đợi rồi ông đã chạy ra đón đứa con hư, tỏ lòng tha thứ mà không cần đứa con giãi bày lời thú tội. Ông đã dọn một bàn tiệc, tổ chức một buổi lễ… Đối với tội nhân hối cải, Thiên Chúa cũng có một thái độ tương tự. Ngài đến gặp họ. Phán quyết trong nội tâm và lòng hối cải đã là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa. Kẻ lầm lạc khi tự phán quyết rồi lại quyết định trở về với Thiên Chúa, đó cũng là ân sủng.

Thiên Chúa cầu mong lại đón nhận họ. Đó là do lòng nhân hậu của Ngài. Và, nói một cách sát chữ, Ngài đem lòng yêu thương dạt dào người tội lỗi đã hối cải, quên đi quá khứ, xoá bỏ ác quả và tội vạ, và hơn nữa, cho họ được những đặc ân không ngờ, đây là mầu nhiệm khôn dò của ân sủng Người.

Bữa tiệc sẽ minh chứng là Thiên Chúa yêu thương. Người anh khó tính với cảm nghĩ tầm thường lấy vẻ liêm chính che đậy đầu óc thiển cận, tâm hồn hẹp hòi của mình. Trái lại, qua hành vi quảng đại của người cha, dụ ngôn cho chúng ta thấy bản tính thâm sâu của Thiên Chúa, tầm mức vô biên của tình yêu, nhịp điệu và hài hoà, âm vang trong Thiên Chúa.

Lầm lạc không còn là điều đáng quan tâm. Tăm tối đã biến đi. Ánh sáng chói chan khắp nơi, mọi sự thấy đẹp hơn bao giờ hết. Tội hồng phúc!... Tội lỗi là dịp vô cùng hữu ích để chúng ta nhận ra sự cao cả của Thiên Chúa đến nỗi chính các lỗi lầm của con người lại dẫn đến ơn cứu độ và vinh quang của Thiên Chúa.

 

79. Chú giải của Fiches Dominicales

XIN CHUNG VUI VỚI TÔI

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Bữa ăn chung với kẻ tội lỗi

Ở đây chúng ta chỉ nhắc qua bối cảnh là một cuộc tranh luận, và tập trung chú ý vào lời mời gọi hãy chung vui vì tìm lại được những gì đã mất, được ghi lại trong cả ba dụ ngôn.

Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ phải đổ máu để cứu muôn người. Nhiều “người thu thuế và tội lỗi, đến để nghe Người giảng. Những người Biệt phái và kinh sư thì khó chịu “xầm xì với nhau” chống lại Người bởi vì không chỉ “đón tiếp phường tội lỗi”, Đức Giêsu còn “ăn uống đồng bàn với chúng”, một hành động tỏ ra cùng phe với bọn chúng!

Để trả lời, Đức Giêsu nói với họ ba dụ ngôn rất hay về lòng thương xót, làm thành chương 15 của Tin Mừng Luca. Để biện minh cho cách đối xử của mình, Đức Giêsu nêu lên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi. Qua những lời Người nói và các việc Người làm, từng là cớ vấp phạm cho đối phương, Người cho thấy lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đang được thể hiện và hoạt động. Và “tình yêu ấy của Thiên Chúa dành cho tất cả những ai chúng được yêu và cũng chúng đáng yêu, gián tiếp lên án sự cứng cỏi và khắc nghiệt mà những con người “đàng hoàng” hơn kia đã đối xử với họ” (Cousin, L’Evangile de Luc, Centurion, trg 211).

2. Lời mời gọi chung vui

Cả ba dụ ngôn đều nêu bật sáng kiến của Thiên Chúa, Đấng đi bước trước trong việc tìm kiếm tội nhân (hai dụ ngôn đầu) và đã “chạy ra” đón đứa con hoang trở về dụ ngôn thứ ba. Tuy nhiên đỉnh cao của mỗi dụ ngôn đều nằm ở lời mời gọi hãy chung vui vì đã tìm lại được: Niềm vui của người “chăn chiên” vác “con chiên lạc đã được tìm thấy” trên vai. Mời gọi bạn bè và hàng xóm đến chia sẻ: “xin chung vui với tôi!”.

Niềm vui của “người phụ nữ” tìm lại được “đồng bạc đã đánh mất”, mời gọi bạn bè và chị em xóm giềng đến chia sẻ: “xin chung vui với tôi!”.

Niềm vui của “người cha” khi đứa con trở về, “đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”, mời gọi người con cả cố chấp của mình cùng chia sẻ: “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ!”.

Roland Meynet nhận định, “Những người Pharisêu và các kinh sư, coi thái độ xử sự của Đức Giêsu như một hành dộng phản lại họ. Bởi vì đón tiếp những kẻ tội lỗi cũng có nghĩa là bỏ rơi những người công chính, là để mặc những con chiên ngoan ngoài hoang địa. Như vậy, chính những người này đã tự tách riêng mình ra, đứng ngoài bữa tiệc vui của Đức Giêsu và những kẻ tội lỗi ăn năn trở lại niềm vui của người khác làm gai mắt họ, trong khi chính họ cũng được mời đến tham dự cuộc vui đoàn tụ của tất cả mọi người. Họ không hiểu rằng niềm vui đoàn tụ không chỉ riêng của con chiên lạc với chủ nó mà thôi, nhưng còn là niềm vui đoàn tụ chung của tất cả các con chiên với nhau, của con chiên lạc với 99 con kia, trong cùng một chuồng chiên, dưới cùng một chiếc gậy chăn của một chủ chiên duy nhất. Niềm vui còn phải được nới rộng ra đến mọi người hàng xóm và bạn bè, nếu không nó sẽ không trọn vẹn. Sẽ không thể có niềm vui đoàn tụ đích thực nếu có ai đó còn đứng ngoài. Tất cả đều được mời, và vòng tròn tham dự còn rộng mở đến tận trời cao, đến các thiên thần của Thiên Chúa. Như vậy làm sao tự cho phép mình đứng ngoài và tự tách rời khỏi cuộc hoà giải của tất cả? Từ chối chung vui với Đức Giêsu, không chia sẻ niềm vui của ơn tha thứ được trao ban và đón nhận, chính là khước từ niềm vui Nước Trời, là xầm xì chống lại Thiên Chúa” (L'Evangile selon Saint Luc. Analyse rhélorique, tập 2, Cerf, trg 161-162).

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Niềm vui cho tất cả.

(G. Bessière, trong “Diêu siproche. Année C”, Desclée de

Brouwer, trg 146-147)

“Một xã hội đang bị câu thúc. Nhiều phe cánh kình chống nhau. Cả một mớ những lời lẽ và ánh mắt thô tục. Ở giữa đó, hiện lên một khuôn mặt, đó là Đức Giêsu. Con người ấy đã dám đánh đổ mọi phe phái đạo đức và tôn giáo của đất nước mình. Thử tưởng tượng xem: “ông ta đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Tất cả bọn chúng tuôn đến để nghe ông ta. Trong lúc phía bên kia là những phần tử ưu tú trong dân về mặt trí thức, nhân đức và lòng đạo: nhóm Pharisêu và các kinh sư, những đấng bậc khả kính, những con người đủ tư cách sửa dạy người khác...

Sự thinh lặng được phá vỡ. Và đây con người lạ lùng kia, với biệt tài vô song, lên tiếng kể chuyện. Có ai ngờ được rằng suốt hai ngàn năm, và còn mãi về sau, người ta vẫn còn ngồi lại thuật cho nhau nghe những câu chuyện đó, và chúng sẽ mãi mãi là những gì quí báu nhất còn ghi lại trong ký ức của nhân loại.

Con chiên bị mất, không hề có chi tiết nào nói nó kêu be be, để gọi chủ. Nó chẳng có công gì xứng đáng để được chủ vác lên vai. Mọi sự đều phát xuất từ người chăn chiên mà ‘niềm vui trong tim’ cứ muốn tràn sang đến tất cả. Và cả cõi thiên đình chẳng quan tâm bao nhiêu tới trật tự tốt đẹp nơi bầy chiên ngoan, lại tỏ ra vui mừng rộn ràng khi có một con người biết chỗi dậy và bắt đầu cuộc sống mới? Còn việc trở về của thằng con phung phá, ăn chơi và hư đốn? Tới bước đường cùng hắn mới chịu “hồi tâm suy nghĩ”: dù có cố tìm một lời lẽ gì đó để nói khi về đến nhà, thì chẳng qua chỉ vì đói nên hắn mới chịu mò về đó thôi. Cũng thế, tất cả đều khởi động từ cõi lòng người cha, “trông thấy con từ xa, ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để”. Thằng con có ráng ấp úng bài diễn văn tạ tội đã dọn sẵn trong đầu cũng vô ích thôi, bởi lúc này ai nấy đang tưng bừng chuẩn bị dọn tiệc ăn mừng. Có cả tiếng ca tiếng đàn nữa! Chắc chắn rồi. Đối diện trước cả hai cánh tốt xấu trên của nhân loại, Đức Giêsu tuyên bố mọi sáng kiến của Người dành cho những kẻ bị loại trừ, bị khinh miệt và tất cả những người tật nguyền về mặt tinh thần, đều là những sáng kiến của chính Đấng được tung hô ba lần Thánh. Người là Mục Tử của Israel, là Cha của dân tộc, là người đã chạy đi tìm con chiên lạc và ra đón đứa con hoang trở về.

Thiên Chúa, mà người nhân đức thánh thiện tưởng mình độc quyền sở hữu, kẻ tội lỗi thì nghĩ mình đã quá xa rời, chính Người đã lật đổ mọi thứ học thuyết và mọi lề lối sống đạo có sẵn. Chúng ta có thực sự tin rằng nơi vị Thiên Chúa ấy có tình yêu mãnh liệt, khiến Người luôn mơ đến một thế giới trong đó mọi người đều là anh em, và làm dậy lên trong Người một niềm vui mong được chia sẻ với tất cả?”.

2. Khuôn mặt thật của Thiên Chúa.

(“Missel Emmaus des Dimanches”, trg 1105).

“Thiên Chúa! Đấng chúng ta muốn là quan toà kết tội người khác, nhất là những kẻ thù nghịch, trong lúc chúng ta lại xin Người tỏ lòng nhân từ với chính mình: phải chăng đó là chuyện “hoàn toàn tự nhiên?”.

Do suy nghĩ như vậy, nên giữa chúng ta vẫn xảy ra thói xét đoán lẫn nhau, lên án lẫn nhau.

Thiên Chúa chúng ta mơ tưởng đó thực ra chỉ là một ngẫu tượng do chúng ta nhào nặn ra và nhằm phục vụ lợi ích của bản thân. Đó không phải là Thiên Chúa thật. Phải, Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi xua tan đi lớp mây mù do trí khôn loài người bày ra che phủ khuôn mặt thật của Người. Tuy nhiên chỉ những ai nhận ra tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, và những ai để cho ân sủng ấy chiếm hết đời mình, đồng thời phản chiếu ra bên ngoài qua cách ăn ở với mọi người xung quanh. Chỉ những người như vậy mới cảm nghiệm được khuôn mặt thật của Thiên Chúa. Ích kỷ chỉ biết đến mình là điều ai nấy đều không thể chấp nhận cho dù đó là những con người “ngoan đạo” nhất!

 

80. Chú giải của William Barclay.

VUI MỪNG CỦA NGƯỜI CHĂN CHIÊN (15,1-7)

Có thể nói không chương nào trong Tân Ước quen thuộc và đáng yêu cho bằng chương 15 của Luca. Nó được gọi là “Phúc Âm trong Phúc Âm”, như thể chứa đựng chính bản chất tinh tuyền của Tin Mừng Chúa Giêsu đã rao giảng.

Những dụ ngôn này của Chúa Giêsu đã phát xuất trong một bối cảnh đặc biệt. Các Kinh sư và Pharisêu đã vấp phạm vì thấy Chúa Giêsu nhập bọn và bầu bạn với những kẻ mà người Do Thái chính thống gọi là tội nhân. Pharisêu đã xếp tất cả những ai không tuân giữ luật vào chung một hạng, họ gọi những người đó là “dân của đất”. Có một hàng rào ngăn cách dứt khoát giữa Pharisêu và người “dân của đất”. Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của Pharisêu định rằng “Khi có một người dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặt nó coi sóc trẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”. Có luật cấm Pharisêu không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời của ai trong hạng người đó. Luật cũng cấm Pharisêu không được liên lạc bình thường với họ, không được mua bán với họ. Pharisêu tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết vớ vẩn, nhỏ nhen trong luật. Dĩ nhiên họ rất khó chịu khi thấy Chúa Giêsu làm bạn với những người không những thuộc hạng cùng đinh mà còn là tội nhân nữa, vì giao thiệp với hạng người đó thì bị ô uế. Chúng ta sẽ hiểu các dụ ngôn này đầy đủ hơn nếu chúng ta nhớ rằng người Do Thái ngoan đạo không nói “cả thiên đàng vui mừng vì một tội nhân hoán cải”, nhưng họ nói “cả thiên đàng vui mừng vị một tội nhân bị diệt mất trước mặt chúng”. Họ hướng cặp mắt độc ác để chờ xem huỷ diệt tội nhân, chứ không chờ mong giải cứu tội nhân.

Vì thế Chúa Giêsu nói cho họ dụ ngôn về con chiên lạc và vui mừng của kẻ chăn. Người chăn chiên ở xứ Do Thái có một công việc khó nhọc và nguy hiểm. Đồng cỏ thì hiếm. Cánh đồng cao nguyên ở giữa xứ chỉ rộng chừng vài dặm thôi, còn phần nhiều địa thế là những khe trũng dốc đứng và cảnh sa mạc hoang vu. Không có những bức tường chắn giữ nên chiên dễ đi lạc. G.A. Smith đã viết về người chăn chiên như sau “Trên mọt cánh đồng khô cỏ cháy, ban đêm chỉ có tiếng chó hú, người chăn chiên với gương mặt tỉnh táo, đôi mắt nhìn xa, màu da cháy nắng, mình đeo khí giới, đứng dựa trên cây gậy, mắt chăm chú nhìn bầy chiên đang ăn”. Chúng ta hiểu tại sao người chăn chiên ở xứ Do Thái lại là những người ở vị trí hàng đầu trong lịch sử nước họ, tại sao người chăn chiên là biểu tượng về sự quan phòng của Thiên Chúa, tại sao Chúa Cứu Thế đã lấy hình ảnh người chăn chiên làm gương mẫu cho sự từ bỏ mình. Người chăn sẽ trực tiếp chịu trách nhiệm về đoàn chiên. Nếu một con chiên bị mất thì người chăn phải mang về nhà ít ra là cái lốt chiên để chứng tỏ là nó đã chết. Những người chăn chiên có tài theo dấu vết cách đặc biệt, có thể theo dõi dấu chân của một con chiên đi lạc hàng dặm qua núi đồi. Không có người chăn chiên nào không coi bổn phận mỗi người của mình là bỏ mạng sống mình vì đoàn chiên. Có nhiều đoàn chiên là tài sản chung, không thuộc cá nhân nào, nhưng thuộc một làng và có hai hay ba người chăn. Những người chăn có đoàn chiên còn đầy đủ thì có thể về nhà đúng giờ và báo tin rằng còn có một người chăn đang lặn lội trên sườn núi để tìm con chiên lạc. Cả làng sẽ thức chờ đợi, rồi khi thấy từ đàng xa một người chăn đang vội vã về làng, trên vai vác một con chiên, cả làng sẽ reo mừng và cảm tạ. Đó là hình ảnh của Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói Thiên Chúa cũng thế, Ngài vui mừng vì tìm lại được một tội nhân đã lạc mất, cũng như người chăn vui mừng vì tìm được chiên lạc đem về chuồng. Một thánh nhân đã nói “Thiên Chúa cũng vậy, niềm vui vô cùng lớn lao khi tìm thấy những sự đã mất”.

Có một ý tưởng kỳ diệu ở đây. Đó là chân lý vĩ đại cho ta biết Thiên Chúa nhân từ hơn loài người. Những người Do Thái chính thống hẳn sẽ gạt bỏ các kẻ thâu thuế, các tội nhân như một thứ phải loại trừ, chỉ đáng tiêu diệt. Chúa thì chẳng bao giờ như thế. Loài người có thể mất hết hy vọng về một tội nhân nào đó, nhưng Chúa thì không thế, Ngài yêu mến nhưng con chiên không hề đi lạc, nhưng trong lòng Ngài, có sự vui mừng cực lớn khi một con chiên lạc được tìm thấy và đem về nhà.

NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI ĐỒNG TIỀN ĐÁNH MẤT RỒI TÌM LẠI ĐƯỢC (15,8-10)

Đồng tiền nói trong dụ ngôn này là đồng Drachma, trị giá chừng 4 xu Anh. Đồng tiền nhỏ nhất rất dễ rơi mất trong nhà của người dân quê xứ Palestine, và cũng phải mất nhiều thì giờ mới tìm được. Nhà của người Palestine thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn mà đường kính khoảng 4 tấc rưỡi. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây nhỏ. Tìm kiếm một đồng tiền nhỏ trên một nền nhà như vậy không khác gì tìm một cây kim trong đống cỏ khô. Người đàn bà quét nhà, hy vọng nhìn thấy mặt đồng tiền lấp lánh hoặc nghe tiếng kêu của nó khi lăn trên những cành cây nhỏ. Có hai lý do khiến người đàn bà sốt sắng tìm kiếm đồng tiền.

1. Có thể vì nhu cầu.

Dù 4 xu không phải là nhiều, nhưng nó cũng cao hơn tiền công một ngày làm việc của một công nhân tại xứ Palestine. Họ thường sống trong cảnh thiếu hụt và hầu như luôn bị nạn đói đe doạ. Có thể người đàn bà nóng nảy tìm cho ra nếu không tìm được thì gia đình bà sẽ thiếu ăn.

2. Nhưng có thể còn có một lý do khác thơ mộng hơn lý do trên.

Tại Palestine, dấu hiệu của một phụ nữ có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng một sợi dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ mười đồng tiền nhỏ đó, bởi vì cái chuỗi tiền tên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó, thì nó là của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt được của nàng, và nếu có đánh mất một đồng tiền nhỏ thì phải tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm thế khi đánh mất cái nhẫn cưới.

Vì thế chúng ta dễ hiểu niềm vui mừng khi bà nhìn thấy tia óng ánh của đồng bạc mất và khi tìm lại được nó. Chúa Giêsu phán: Thiên Chúa cũng làm thế, niềm vui mừng của Ngài và của các Thiên Thần khi có một tội nhân quay về nhà, cũng như niềm vui mừng của một gia đình khi đồng bạc quyết định cái no hay đói của họ được tìm thấy và cũng giống như người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc, rồi tìm lại được.

Không có một Pharisêu nào lại mơ đến một Thiên Chúa như vậy. Một học giả Do Thái danh tiếng đã thừa nhận đây là một điều tuyệt đối mới mà Chúa đã dạy cho loài người về Thiên Chúa –đó là Ngài thực sự tìm kiếm con người. Người Do Thái có thể hình dung một người bò về nhà Chúa với tất cả sự hạ mình và kêu xin thương xót và được thương xót. Nhưng họ không bao giờ có thể hình dung ra một Thiên Chúa lại ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Chúng ta thấy tình yêu đó hiện thân trong Chúa Giêsu. Con Thiên Chúa, Đấng đến để tìm và cứu những ai lạc mất.

CÂU CHUYỆN VỀ NGƯỜI CHA NHÂN LÀNH (15, 11-32)

Không phải là không có lý do khi người ta gọi chuyện này là chuyện ngắn vĩ đại nhất thế giới. Theo luật Do Thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được 2/3, đứa con thứ 1/3 gia tài (Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm trơ tráo nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nó đã nói “Cha hãy cho con ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì con cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để con ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.

Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái, vì luật nói: “đáng rủa xả kẻ nào chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khuyên chưa từng có “Khi nó trở về với chính mình (nó tỉnh ngộ)”. Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch với Thiên Chúa thì con người không thực sự là con người, con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang trên đường trở về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người, Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà –theo bản Hy văn tốt nhất- cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tiêu biểu sự tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không được. (Ước mong của người nô lệ trong bài ca của người da đen là mau đến thời kỳ mà “mọi con cái Chúa được mang giày” vì đi giày là dấu hiệu sự tự do). Và một bữa tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con hoang đàng trở về. Chúng ta dừng lại ở đây, thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này.

1. Không nên gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về người con hoang đàng vì đứa con không phải là nhân vật chính, phải gọi là dụ ngôn về Người Cha Nhân Lành, bởi vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.

2. Dụ ngôn này nói nhiều về sự tha thứ của Thiên Chúa. Người cha hẳn đã chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy từ đằng xa. Đứa con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội vẫn còn để đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn Miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời “Tôi sẽ đối xử với họ như họ chưa bao giờ ly khai với chúng ta”. Thật lạ lùng tình yêu của Chúa khi Ngài tha thứ chúng ta y như vậy.

Nhưng câu chuyện đến đây chưa chấm dứt. Người anh cả đi về, anh thực sự buồn rầu vì em anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho Pharisêu tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.

1. Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời cha chẳng qua chỉ là một bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc của tình yêu.

2. Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về người em nhưng không dùng tiếng “em tôi” nhưng dùng chữ “con của cha”. Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi hám càng ngã sâu hơn nữa.

3. Tâm địa chàng rất dơ bẩn. Câu chuyện không nói tới gái điếm. Chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng muốn.

Một lần nữa chúng ta lại gặp một chân lý diệu kỳ là hoán cải, xưng tội với Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa xét xử nhân từ hơn những người ngoại đạo. Tình yêu Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không chìm sâu trong kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.

BA VẬT LẠC MẤT

Sau cùng chúng ta nên lưu ý rằng ba dụ ngôn này không chỉ là ba cách diễn tả cùng một việc. Có một sự khác biệt. Con chiên bị lạc mất hoàn toàn chỉ vì ngu dại. Nó không biết suy nghĩ. Có nhiều người sẽ tránh được tội lỗi nếu họ suy nghĩ kíp thời. Đồng bạc bị mất không phải vì lỗi của chính nó. Có người đi lạc đường vì bị kẻ khác lừa dối và Thiên Chúa không kể là vô tội kẻ nào xui kẻ khác phạm tội.

Nhưng Thiên Chúa có thể dùng tình yêu của Ngài, chiến thắng sự dại dột của con người, chiến thắng những tiếng cám dỗ, và chiến thắng cả sự tự ý phản loạn của con tim chúng ta nữa.

 

81. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

TIN VÀO SỰ THA THỨ ĐỂ LÀM HÒA VỚI CHÚA VÀ VỚI ANH EM

Kính thưa quý OBACE

Trên tầm mức thế giới chúng ta thấy các cuộc nội chiến tại một số quốc gia hiện nay dường như mỗi ngày một khốc liệt hơn, anh em chém giết lẫn nhau. Các quốc gia khác, kể cả Tòa Thánh cũng đã nỗ lực hết mình để mong tìm được giải pháp hòa bình, hòa giải cho các quốc gia nội chiến này, mà dường như vẫn chưa đạt được kết quả như mong đợi. Quốc gia này còn đang đánh nhau thì quốc gia khác lại bắt đầu khai chiến chém giết, đàn áp, trả thù… con người dường như khó chấp nhận sự tha thứ và hòa giải với nhau. Ngay trong một gia đình, một xóm nhỏ cũng đã xảy ra như thế, những cuộc cãi vã qua lại giữa hàng xóm, giữa vợ chồng thường xuyên xảy ra, bởi vì ai cũng cho rằng mình là người đúng, còn bên kia hoàn toàn có lỗi. Trong lãnh vực đời sống tâm linh đối với Thiên Chúa cũng thế, nhiều người đã cố tình sai phạm, quay lưng lại với Thiên Chúa nhưng họ vẫn cho là mình đúng, và tìm mọi cách để biện minh cho những hành động sai trái của mình.

Thưa quý vị, con người chỉ có thể thực sự hòa giải được với Thiên Chúa, làm hòa được với anh em khi mỗi người nhận ra tình trạng sai lỗi của mình, tin vào sự tha thứ và quyết tâm làm lại cuộc đời. Nếu như Chúa nhật tuần trước, Tin Mừng mời gọi chúng ta sám hối cách cụ thể chân thành, thì Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin vào sự tha thứ của một Thiên Chúa là Cha để trở về với Ngài làm hòa cùng Thiên Chúa và anh em, làm lại cuộc đời mới.

Câu chuyện Người Cha nhân hậu mà Thánh Luca thuật lại hôm nay, trước hết muốn diễn ta một Thiên Chúa là cha yêu thương con người và sẵn sàng tha thứ cho những ngỗ nghịch của con người. Đứa con thứ tượng trưng cho sự ngỗ nghịch ấy. Trong ánh mắt của người con thứ, người cha dường như chẳng con vị trí nào quan trọng, mặc dù rằng ông yêu thương kể cả chiều chuộng nó, ông đáp ứng cho nó đầy đủ không thiếu thứ gì. Khi khôn lớn, người con thứ đòi chia gia tài của ông, ông cũng sãn lòng chia cho nó, rồi nó bỏ nhà ra đi mang theo của cải của ông. Ông biết rõ, là nó sẽ phung phí hết số tài sản đó, và nó sẽ không còn nhớ gì đến ông, nhưng ông vẫn đợi vẫn chờ. Đến khi nó trở về với thân tàn ma dại quần áo tả tơi thì ông lại chạy ra ôm lấy nó mà hôn, ông còn ra lệnh cho đầy tớ đem áo, đem nhẫn và giày dép mang vào cho nó và còn giết bê béo ăn mừng với chỉ một lý do duy nhất: Vì con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Mặc dù nó trở về vời lý do khác, nhưng ông vẫn tin vào sự trở về của nó và đã trả lại cho nó quyền được làm con cái trong nhà. Điều đó cho thấy rằng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về tình trạng của con người, dù con người có tội lỗi xấu xa, nếu biết quyết tâm chỗi dậy, thì Thiên Chúa luôn tin vào sự hoán cải của con người, để đón nhận và tha thứ.

Đứa con thứ đã lao vào tình trạng tồi tệ, tội của nó đáng chết đến trăm lần, nó đã bỏ tình yêu và cuộc sống hạnh phúc trong nhà Cha để lao đầu vào cuộc sống hưởng thụ sa đọa, nó lấy tiền của cha nó để ăn chơi đàng điếm. Chỉ khi nó sa cơ thất thế, không còn tiền bạc của cải, không còn chỗ dựa nào nữa, nó đã rơi xuống tận đáy của xã hội, đến tột cùng của sự nhục nhã nó phải đi chăn heo cho người khác, và thậm chí còn phải giành ăn đồ ăn của mấy con heo. Chính từ lúc cùng quẫn nhục nhã đó, nó có cơ hội để nhìn lại quãng đời của mình, và thấy rằng, chỉ có quãng thời gian ở trong nhà với cha là quãng đời đẹp nhất và hạnh phúc nhất, trong khi đầy tớ trong nhà cũng được ăn uống dư thừa, còn nó thì đang phảỉ đói khát phải sống cùng bầy heo. Nó tin rằng nó trở về, thì cha nó sẽ tha thứ, sẽ đón nhận nó, dù cho nó sẽ phải sống kiếp đầy tớ trong nhà, thì vẫn còn hạnh phúc hơn là cảnh xa nhà: Nó hồi tâm và tự nhủ tôi sẽ chỗi dậy và trở về với Cha tôi và thưa Người rằng: Thưa Cha con đã lỗi phạm đến trời và đến Cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin Cha đối xử với con như đầy tớ trong nhà của cha. Nhận ra tình trạng của mình, tin vào sự tha thứ của Cha, và nó đã chỗi dậy làm một cuộc trở về với Cha, bỏ lại quá khứ để làm lại cuộc đời, bắt đầu một cuộc đời mới, và nó đã đón nhận được sự tha thứ vượt trên cả sức nó tưởng tượng. Người cha đã chạy ra ôm nó vào lòng, trả lại danh dự cho nó, và đón nhận nó với niềm vui mừng hân hoàn: Vì con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.

Nếu như lý do thúc đẩy cho sự trở về làm hòa với Thiên Chúa là: Tin vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, thì việc làm hòa với anh em, đòi phải nhìn thấy tình huynh đệ con cùng một cha nơi người anh em mình, để có thể tha thứ và đón nhận nhau, đó là câu chuyện xảy ra cho người con cả. Anh này không chấp nhận và không tin vào sự hối hận trở về của em mình, vì thế anh ta đã giận dỗi và từ chối không chỉ người em, mà vì giận người em, anh từ chối không bước vào nhà cha nữa. Khi người ta giận dỗi nhau, thì người ta cũng từ chối gặp mặt Thiên Chúa, đó cũng là thái độ của nhiều người hôm nay: khi có vấn đề xích mích với anh em thì bỏ bê việc đến với Chúa. Người anh cả này đã nhất định từ chối người em, và từ chối bước vào nhà cha để dự bữa tiệc vui: Cha coi, đã bao năm tôi hầu hạ cha chẳng hề trái lời, vậy mà có bao giờ cha cho riêng tôi được một con bê để ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của Cha kia sau khi đã phung phí hết tài sản thì cha lại cho làm thịt bê béo để ăn mừng.

Anh đã tự mãn với đời sống hiện tại của mình, anh ganh tị với người em, anh không nhìn nhận nó là em của anh nữa, anh đã gọi nó là: thằng con của cha kia, chứ không phài là em tôi. Anh ở với Cha, nhưng lại không cảm nhận được tình thương của cha, anh có đầy đủ, cả khối tài sản được chia giống như người em, nhưng anh vẫn không thỏa mãn, anh còn tham một con bê nhỏ. Anh không thể tha thứ khi nhìn em của anh được cha tha thứ, anh muốn tiếp tục đẩy người em ra khỏi nhà, và khi anh giận dỗi với em mình, thì anh cũng đã tự tách mình ra khỏi nhà của cha, trở thành kẻ đứng ngoài.

Thưa quý OBACE, người cha trong câu chuyện của Tin Mừng hôm nay là hình ảnh của Thiên Chúa là cha yêu thương đang vẫn đang ngày ngày đợi chờ chúng ta là những đứa con trở về với Ngài. Có thể chúng ta giống như đứa con thứ đã xa lìa tình cha, vô ơn bội nghĩa với thiên Chúa, để mình chìm đắm trong cuộc sống hoang đàng, song chúng ta không thất vọng, chỉ cần mỗi người cũng hãy tự nhủ với mình rằng: Tôi sẽ chỗi dậy và trở về với cha tôi và thưa với ngài rằng: thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, và chỗi dậy trở về, thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa là Cha chạy ra ôm lấy chúng ta và tha thứ cho chúng ta.

Cũng có thể nhiều khi chúng ta thấy mình không đến nỗi tội lỗi, cũng không bỏ nhà đi hoang như người con thứ, thì rất có thể chúng ta đang giống như người con cả, mặc dù vẫn ở gần Cha nhưng lòng thì xa Cha, và nhất là chúng ta đang để trong mình sự so đo tính toán với cha, ganh tị với anh em khác và cũng nhiều lần chúng ta đã khép lòng từ chối anh em, và không cho họ có cơ hội trở về, và cũng nhiều lần vì ghét bỏ anh em, mà chúng ta đã không đáp lại lời mời của Thiên Chúa từ chối tình thương của Thiên Chúa… tất cả chúng ta đều được mời gọi trở về để xin lỗi cha và làm hòa với anh chị em.

Thánh Phaolo đã cho thấy, tất cả chúng ta đã trở nên tạo vật mới, con người mới, với cuộc đời mới, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa, và vì thế chúng ta hãy mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa là cha, và nhất là mỗi người chúng ta đã lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, thì chúng ta cũng phải biết đón nhận và tha thứ cho nhau.

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người, mỗi gia đình, hãy mau chóng làm hòa cùng Thiên Chúa và làm hòa lại với nhau, đừng ngại ngần, hãy bước đến với Thiên Chúa nơi Bí tích Hòa giải, để mỗi người sẽ cảm nhận được tình yêu tha thứ của Thiên Chúa là cha, được an ủi và được chữa lành. Hãy rà soát lại các mối tương quan với anh chị em, hãy gỡ bỏ những bất đồng thành kiến, những giận hờn thù oán, hãy chủ động bước tới và đưa tay ra để bắt tay người anh em, để xóa đi những mặc cảm và giận dỗi, để cùng nhau sống tình huynh đệ con cùng một cha.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta đừng bao giờ thất vọng về tình trạng của mình, nhưng luôn tin tưởng vào lòng bao dung của Thiên Chúa để làm lại cuộc đời. Amen.

home Mục lục Lưu trữ