Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 54

Tổng truy cập: 1376976

MỘT PHÚC LÀNH NGỌT NGÀO

Một phúc lành ngọt ngào

Một đám đông tụ họp gần một cái ao trong một sở thú rộng lớn. Hđang ngắm nhìn một con công đang xòe ra bđuôi tuyệt đẹp của nó. Con công đứng thẳng trong cung điệu lộng lẫy của nó. Bỗng dưng không biết đâu một con vịt màu nâu xấu xí bơi lại gần chỗ con công đang đứng. Thấy con vịt xấu xí ấy, con công liền sừng sđuổi con vịt đi. Bộ mặt thùy mị sang trọng của con công lúc này đã biến mất mà thay vào đó là bộ mặt hung dữ. Con vịt thấy vậy thì âm thầm bình tĩnh ung dung bơi ra chỗ khác. Thế là đám đông nãy giđang chiêm ngắm con công bỗng dưng đâm ra trầm trồ khen ngợi con vịt.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đang dự tiệc với những người khách tại một nhà ông Pharisiêu. Ở đây chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu trong nhân tính của Ngài. Ngài cũng làm như những người khác thường làm tại các buổi tiệc. Bởi vì ngồi cùng bàn với Ngài là những người Pharisiêu, cho nên câu chuyện bất ngờ đổi về luật lệ giữ ngày Sabát. Chúa Giêsu đã nói với những người dự tiệc rằng có lúc luật pháp phải nhường chỗ cho những giá trị cao quí hơn của con người. Chẳng hạn họ sẽ phải coi sóc người bệnh, hoặc cứu giúp người con của họ bị bệnh vào ngày Sabát. Sau đó, Chúa Giêsu còn dạy cho tất cả mọi người một bài học mới về mời khách dự tiệc. Ngài khuyên họ đừng nên mời những người mà mình quen biết hằng ngày, những người mà mình sẽ cần đến họ, hoặc là những người mà mình cần phải dựa hơi. Ngài khuyên họ nên đổi mới tư tưởng bằng cách mời những kẻ ăn mày và nghèo khổ đến dự tiệc bởi vì qua đó họ sẽ được trổi vượt trên đường nhân đức, và chính Thiên Chúa sẽ khen thưởng họ.

Trong khi trao đổi trong bàn ăn, Chúa Giêsu lại còn nêu lên một vấn đề nữa là lòng khiêm nhường. Ngài khuyên những người đi dự tiệc không nên ngồi vào chỗ nhất hay những chỗ sang trọng, nhưng nên tìm ngồi vào những chỗ rốt bét để chủ nhà đến mời lên chỗ cao hơn thì mới có danh dự. “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(Lc 14:8,10-11).

Sự khiêm nhượng là căn bản để đạt tới cuộc sống mỹ mãn. Nếu chúng ta tin vào lời của Chúa Giêsu phán rằng sự khiêm nhượng có thể lớn lên, cải tiến, biến đổi, tha thứ, và yêu thương, thì chúng ta đang đi trên con đường tiến đến cuộc sống mới. Sự khiêm nhượng Kitô giáo thật là một điều phúc lành. Nó làm cho chúng ta cảm thấy sự ngọt ngào trong tâm hồn.

Ở thời đại chúng ta, thật là một điều khó khăn để thực hành sự khiêm nhường. Chúng ta bị áp lực đủ phía để chống lại điều căn bản trong đạo Kitô giáo này. Thế giới ngày nay ca tụng sự tranh chấp, cải tiến, và danh dự thế gian. Thắng bại là một điều quan trọng, chứ không phải là thi hành sự khiêm nhường của Phúc Âm.

Một cha sở nọ in ra một câu truyền thông như sau và dán lên bảng tin tức của giáo xứ, “Cuộc sống là Yêu Thương, chứ không phải là cuộc Thi Đấu.”Ngày hôm đó, điện thoại nhà xứ rung như điên. Hết người này đến người nọ gọi cho cha sở để bài bác và chửi cha bởi vì họ cho rằng cuộc sống phải là một cuộc thi đấu. Thật là rõ ràng bởi vì nhiều Kitô hữu không nhận ra bài học của bài Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu khuyên răn chúng ta rằng người nào biết sống khiêm nhường sẽ được nâng cao.

Điều đó đối với chúng ta ra sao? Chúng ta sẽ ôm ấp lý thuyết của thế gian răng đền răng, hay chúng ta sẽ đón nhận giáo lý của Chúa Giêsu, phục vụ không hưởng thụ.

Lạy Chúa, con cầu xin cho con sức mạnh để con có thể thành công, con đã được ban cho sự yếu nhược để con biết học sống khiêm nhượng.

Con cầu xin Ngài cho con sức khỏe để con có thể làm những việc lớn lao, con đã được ban cho sđau yếu để con biết làm những việc tốt hơn.

Con cầu xin Ngài cho con của cải để con sống hạnh phúc, con đã được ban cho sự nghèo khđể con biết khôn ngoan.

Con cầu xin Ngài cho con quyền lực để con được thiên hạ ca ngợi, con đã được ban cho sự yếu đuối để con biết cậy trông vào Ngài.

Con cầu xin Ngài cho con tất cđể con có thể hưởng dụng cuộc sống, con đã được ban cho sự sống để con có thể hưởng cuộc sống.

 

61. Con người khiêm tốn

"Anh em hãy yêu thương k thù và làm ơn cho k oán ghét mình". (Lc 3, 24)

Anh chị em thân mến,

Đức Hng Y Jos. Bernadin ca Tng giáo phn Chicago, M, tâm s vi các chng sinh: T ngày Ngài nhn giáo phn Chicago, hu như không thiếu ngày nào, mi ngày Ngài đều nhn mt lá thư gi đến chi Ngài là "son of bitch" (chó đẻ!) Ti sao vy? Vì Ngài theo đường hướng ca Giáo hi, luôn lên án các th t đoan xã hi, làm mt quyn li ca bn tư bn, nên b chi như thế! Đức HY Bernadin, đã khiêm tn sn lòng để cho người ta chưởi bi... Bài Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu dạy cho mọi người cách xử thế khiêm tốn trước mặt Chúa, cũng như tha nhân.

Nhân khi thấy khách được mời dự tiệc, họ hay lựa chỗ nhất, có khi còn coi thường người khác nữa, Chúa Giêsu dạy cho họ bài học khiêm nhượng, một thứ khiêm nhượng chân thật, và bên trong, phát xuất từ đáy lòng. Vì thế:

1) Khiêm nhượng là chp nhn s tht v chính mình: Người xưa có câu: "Khiêm nhượng không phải là nghĩ ít hơn về cái mình có; nhưng là ít nghĩ về mình. Thực sự, khi ai ít nghĩ về mình, hay không nghĩ về mình nữa, làm sao họ có thể tự phụ được? Thánh Augustinô nói: Khiêm nhượng làm cho con người trở nên thiên thần; nhưng kiêu ngạo làm thay đổi các thiên thần thành ma quỉ.

Thánh Phêrô dạy: "Anh em hãy lấy đức khiêm nhượng mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường".

2) Khiêm nhượng là biết mình có ti: Ma quỉ (Lucifer) chính là những thiên thần mang ánh sáng; vậy mà khi thiên thần phạm tội thành ma quỉ, chúng không nhận, cũng không biết mình có tội. Nếu ma quỉ đã nhận mình có tội, và biết mình có tội, thì cũng đồng nghĩa với ăn năn, chúng sẽ được tha rồi. Thực tế nơi ma quỉ không có khiêm nhượng, ngược lại chỉ có kiêu căng mà thôi.

Biết mình thấp hèn, tội lỗi trước mặt Chúa và anh em, đó chính là nền tảng của đức khiêm nhượng, cũng là nền tảng của việc cầu nguyện để đưa ta tới với Thiên Chúa

3) Chúa Giêsu là mu gương ca đức khiêm nhượng: Xem qua cuốn phim Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta có thể nhờ đó hiểu được phần nào khổ đau của Con Thiên Chúa phải chịu vì nhân loại chúng ta. Nhất là mới có thể hiểu được: dù là Con Thiên Chúa, Ngài khiêm tốn biết bao, như lời thư Thánh Phaolô gởi cho tín hữu Philipphê (2, 6-9):.... Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, đã không nghĩ phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, để mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân giữa trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nổi bằng lòng chịu chết, và chết trên thập giá......

4) Gi ý sng và chia s: Khiêm nhượng thật sự là tự biết mình, cả về ưu lẫn khuyết điểm. Biết cái ưu điểm là để phát huy, làm cho lớn mạnh thêm, đồng thời cũng sẵn sàng lãnh trách nhiệm với mọi người, với tập thể. Biết cái khuyết điểm là để sửa chữa, phấn đấu vươn cao lên. Đó mới là đức khiêm nhượng thật sự. bao lâu nay ta đã thực hành đức khiêm nhương như thế nào? Cũng có một thứ gọi là khiêm nhượng ống điếu, khi trước mặt người khác, ta cũng giả bộ nhận lỗi, cũng xỉ vả mình; nhưng sau lưng thì tìm cách tự bào chữa... ta đã sống như thế nào đây?

 

62. Suy Niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Có bao giờ bạn làm ra vẻ yêu thương ai, giả bộ khiêm nhường, tỏ ra mình là người có giá trị, có tư cách không?

Bạn nghĩ gì về sự giả bộ này? Nó có phổ biến nơi tâm lý mọi người không?

2. Khi người khác thành công hơn bạn, được ca tụng hơn bạn, bạn có tự nhiên cảm thấy có gì đó làm mình khó chịu, ganh tức, buồn phiền không?

3. Hành động theo khuynh hướng giả trá ấy có lợi ích lâu dài không? có phải là khôn ngoan không? Tại sao?

Suy niệm

1. Ai cũng muốn bản thân mình là một cái gì có giá trị, và được mọi người công nhận và tôn trọng giá trị của mình

Thiên Chúa đã dựng nên con người giống như Ngài, theo hình ảnh Ngài (xem St 1,26-27; 9,6), nhưng ở mức độ hoàn hảo của một tạo vật giới hạn, đương nhiên kém Ngài rất xa vì Ngài ở mức độ hoàn hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức hoàn hảo của con người về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu thẳm, con người vẫn muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện Chân Thiện Mỹ, nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa hơn. Đấy quả là một chiều hướng rất tốt.

Nhưng do tội lỗi và nhất là tính kiêu ngạo, sự xấu đã xâm nhập vào bản thể con người, khiến cho chiều hướng tốt ấy bị lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hoàn hảo, có giá trị thật sự (điều này khó, đòi hỏi con người phải cố gắng nhiều và quên mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như yêu thương, như có giá trị, như giống Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ bên trong, con người tìm cách để mình có vẻ như, hay được coi như, và được đối xử như có giá trị, bất chấp bên trong có giá trị đích thực hay không.

Vì thế, khi xét mình, nếu thành thật với lòng mình, ai cũng đều cảm nhận khuynh hướng này: “Tôi biết anh nịnh tôi, nhưng tôi vẫn thấy thích thú”, và nếu ai nói về một tật xấu hay điều dở của ta, cho dù có đúng 100%, ta cũng cảm thấy khó chịu. Từ đó, thay vì nỗ lực hoàn thiện “cái tôi”, làm cho nó có giá trị đích thực, thì ta lại tìm đủ mọi cách để “cái tôi” được tôn trọng, được coi là có giá trị. Chẳng hạn, khi dự tiệc thì thích lên ngồi ở chỗ danh dự, chỗ dành cho những bậc vị vọng, trong giáo xứ hay trong xã hội thì tìm cách vận động để ngoi lên những chức vụ quan trọng… Ngoài ra còn tìm đủ mọi cách để che bớt những cái xấu, cái dở của mình, để đừng có ai nhìn thấy. Khuynh hướng giả trá này còn đi xa hơn: bên trong càng ít giá trị, thì bên ngoài lại càng phải tỏ ra nhiều giá trị. Vì thế nên mới có tình trạng “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”, “thùng rỗng kêu to”, càng tự ty thì lại càng tự tôn. Thậm chí sẵn sàng đánh lừa cả chính mình: nghĩ mình đích thực có giá trị đúng như mình đang muốn làm ra vẻ như thế.

2. Phải vạch mặt khuynh hướng giả trá ấy ngay trong bản thân mình

Chính khuynh hướng này, xem ra rất tự nhiên nơi mỗi người và mọi người, là đầu mối gây nên biết bao nhiêu tội lỗi, xấu xa và rắc rối cuộc đời. Tại sao? Vì nó chính là một khuynh hướng giả trá, ma mãnh, nên kết quả cuối cùng bao giờ cũng là thất bại thê thảm, mặc dù nhất thời nó có thể đem lại nhiều vinh quang, lợi lộc. Ta dễ ganh tị khi thấy người khác hơn mình (tốt hơn, đẹp hơn, hạnh phúc hơn, đạo đức hơn, tài năng hơn, giàu có hơn, được yêu mến hơn…). Sự ganh tị ấy khiến ta vô tình hoặc cố ý tìm cách hạ người khác xuống bằng lời nói hoặc bằng hành động, thậm chí làm hại hoặc trừ khử họ. Nhưng rồi tới một lúc nào đó, chẳng sớm thì muộn, sự ganh tị ấy cũng sẽ bị lột mặt nạ, để rồi tất cả những gì giả tạo mình vất vả xây dựng được, có thể bằng tội ác, bằng những phương tiện bất chính, sẽ sụp đổ hoàn toàn. Lúc đó trước mặt người khác, mình lại trở thành kẻ vô giá trị, hơn thế nữa, bị nguyền rủa thậm tệ.

Khuynh hướng giả trá này, bao hàm sự ganh tị, là mẫu số chung tự nhiên của tất cả mọi con cháu Ađam–Eva, cho dù người ấy thánh thiện tới đâu. Sự thánh thiện của một con người không phải nằm ở chỗ không có hay tiêu diệt khuynh hướng ấy, mà thắng vượt được khuynh hướng ấy. Thật vậy, cho dù tôi có thánh thiện tới đâu, khi có ai nịnh tôi, hay khi tôi được đề cao (dù không xứng đáng) thì phản ứng tâm lý đầu tiên của tôi là cảm thấy thích thú, và khi có ai chê bai (dù là chê đúng), hay khi thấy bạn bè hơn mình, tôi vẫn thấy khó chịu. Nếu không thế thì chắc hẳn tôi đã thoát khỏi hậu quả xấu ác của tội nguyên tổ rồi! Phản ứng đầu tiên hay “sơ cấp” phát xuất từ tâm lý ấy, dù tôi không muốn phản ứng như thế cũng không được, trừ trường hợp tôi đã tu luyện rất nhiều năm. Và phản ứng tuy xuất phát từ một khuynh hướng xấu, nhưng không phải là tội lỗi, vì nó xảy ra ngoài ý muốn của tôi. Nhưng sau đó, tôi bắt đầu phản tỉnh lại và nhận ra đó là một khuynh hướng xấu. Vấn đề là sau khi phản tỉnh, tôi có hành động theo khuynh hướng xấu đó hay không. Phản ứng sau này hay “thứ cấp” có sự can dự của ý chí, nghĩa là ta có thể hành động theo hoặc không theo khuynh hướng đó tùy quyết định của ta. Thánh thiện hay tội lỗi là tùy thuộc phản ứng thứ cấp này. Như vậy, người thánh thiện hay tội lỗi đều giống nhau ở phản ứng sơ cấp, nhưng khác hẳn nhau ở phản ứng thứ cấp.

3. Nhận định hậu quả cuối cùng rất tai hại của khuynh hướng giả trá ấy để dứt khoát không chiều theo

Hành động theo khuynh hướng giả trá này có thể đem lại một số lợi lộc nhất thời, chóng qua, nhưng kết quả cuối cùng và lâu dài thì rất tai hại. Chúng ta rất dễ bị hấp dẫn, lôi cuốn vì những lợi lộc nhất thời ấy, nhất là khi chúng ta không nghĩ tới hậu quả cuối cùng rất tai hại và kéo rất dài của nó. Chẳng hạn, trường hợp một người không xứng đáng ngồi vào chỗ danh dự trong bàn tiệc, nhưng lại chiều theo khuynh hướng “muốn có vẻ là có giá trị”, hay “muốn được coi là danh giá” nên ngồi vào đó. Khi ngồi đấy, anh ta cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ đến những cặp mắt đang nhìn anh ta với sự nể phục. Nhưng hạnh phúc đó không thể kéo dài được nếu nó không có nền tảng là sự xứng đáng. Chỉ trong chốc lát, khi có nhiều bậc vị vọng tới dự tiệc, họ xứng đáng ngồi ở chỗ đó hơn, thì chủ nhà nhận ra ngay sự không xứng đáng của anh ta. Thế là anh ta bị mời xuống. Niềm hãnh diện và hạnh phúc chỉ kéo dài được dăm ba phút khi bữa tiệc mới bắt đầu, nhưng sự nhục nhã và đau khổ thì kéo dài suốt cả bữa tiệc, thậm chí nhiều ngày tháng sau bữa tiệc nữa.

Ngược lại, nếu ta không màng gì tới những cái có vẻ bên ngoài ấy, thì cuối cùng ta cũng chẳng mất chúng. Vì cuối cùng chúng sẽ trở lại với người xứng đáng với chúng. Chẳng hạn, trong bữa tiệc, nếu ta là người xứng đáng ngồi ở chỗ danh dự, nhưng vì nghĩ mình không xứng đáng nên ta lại chọn một chỗ hèn kém, thì khi chủ tiệc nhận ra sự có mặt của ta ở chỗ hèn kém ấy, ông ta sẽ mời ta lên chỗ cao hơn. Như thế, ta chẳng những không bị mất danh dự xứng đáng với ta, mà người khác còn thấy được phong cách cao thượng của ta nữa.

Tuy nhiên, điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự khiêm nhường đích thực bên trong, chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bên ngoài. Khuynh hướng giả trá nói trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, trong bữa tiệc, ta cố ý chọn một chỗ kém hơn địa vị của ta với mục đích được được nâng lên. Nhưng nếu người chủ vô ý không mời ta lên bàn trên, thì ta trở nên bực bội trong lòng… Người khiêm nhường đích thực không tự coi mình là gì cả, nên không cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm thấy có gì đáng phải lên mặt vinh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những người khiêm nhường đích thực ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh thản, nhẹ nhàng, và được Thiên Chúa yêu quí.

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin giúp con thắng được khuynh hướng giả trá muốn làm ra vẻ có giá trị hơn giá trđích thực của con. Xin giúp con thành thật với chính mình, và với mọi người, đừng để con ham được đánh giá cao hơn bản chất thực của con. Xin giúp con đừng coi mình là gì cả, đừng quan trọng hóa mình, để con trở nên một con người chân thực, một phản ảnh quan trọng của Cha ở trong con. Amen

 

63. Sự thật không nhìn thấy

1/ Khi anh được mi ăn cưới, thì đừng ngi vào ch nht... hãy ngi vào ch cui..

Khi giải thích đoạn nầy thường người ta nói là khiêm nhường. Khiêm nhường hiểu là nhường chỗ trên chọn chỗ duới hoặc hạ thấp mình. Còn nói chọn chỗ rốt để được mời lên thì không là khiêm nhường, khiêm tốn gì đâu. Gọi là humilite accrochee. Phải hiểu lời nầy của Đức Giêsu thế nào?

Nghĩa đời thường: khi đi ăn tiệc thì nên thận trọng vì không biết chủ nhà mời ai với ai, ai lớn hơn mình, không biết chỗ đứng của mình là chỗ nào. Nên chờ chủ nhà xếp cho. Trong khi chờ thì tạm chỗ nào đó. Nhưng nếu ngồi cao bị mời xuống thì ê quá nên thận trọng là ngồi dưới, rốt cũng được để khi chủ nhà sắp chỗ thì được mời lên ít ra thí cũng không phải ê. Dè dặt thì tốt.

Còn những kẻ tự cao tự đại, chọn chỗ nhất, không tự lượng sức mình, bị mời xuống thì phải ê là đáng!

Đức Giêsu không nhằm dạy sự khôn ngoan đời thuờng theo kiểu thế gian mà là muốn dạy về Nước Trời nên phải coi đây là dụ ngôn.

Trước hết hãy xem gương Đức Giêsu:

Người không nghĩ phải "dành được ngang hàng với Thiên Chúa" mà Người tự khiêm, tự hạ đến tự hủy, làm nguời thấp hèn, vâng phục cho đến chết và chết thập tự. Thiên Chúa làm người và làm người nhỏ nhoi. Hạ mình không phải là yếu đuối, là kém cõi mà là "cái dủng của thánh nhân", là sự vĩ đại của Thiên Chúa. Thiên Chúa mới làm nổi, mới làm đuợc. Vì thế Người được siêu tôn vì Thiên Chúa "nâng cao những người phận nhỏ, đề cao những kẻ khiêm nhường"....

Thiên Chúa làm người và làm người thấp hèn để dạy con nguời biết thân phận con người mà biết làm người đúng là người. Nhưng con người thì thích làm Chúa. Người ta thích câu: Chúa làm người để người làm Chúa.

Khiêm nhuờng nghĩa là gì? Thần học luân lý định nghĩa: Nhìn nhận đúng sự thật về chính mình. Đây là điều mà Thiên Chúa muốn và chờ đợi nơi con người.

Nếu đến tiệc cưới chủ nhà có dán tên khách mời trên lưng ghế thì mọi người cứ chỗ có tên mình mà ngồi vào thì không có vấn đề mời lên mời xuống. Đúng trật tự rồi. Nếu ai cố tình ngồi trên thì phải bị mời xuống là tất nhiên. Phải đúng trật tự mới được. Còn nếu cố tình ngồi dưới để được mời lên thì làm rối trật tự sẽ phiền chủ nhà.

Về trật tự trong Nước Trời thì rõ ràng con người phải nhìn nhận thân phận thụ tạo của mình, nhìn nhận mọi sự mình có là của Chúa ban và có bổn phận sinh lợi theo ý Chúa là chủ, là Tạo Hóa, là Đấng ban cho.Phần của ta là cái công sinh lợi. Đừng dựng mình lên làm tề thiên, cốt khỉ thì phải hoàn khỉ không khác được đâu.(khi nghe nói con người là con cháu loài khỉ thì ai ai cũng nhảy dựng lên không chịu nhưng thật là thế).

Thiên Chúa không đòi ta phải hạ mình trước mặt Người như kẻ độc đoán muốn tất cả phải phục lạy dưới chân mình, muốn đi trên đầu trên cổ tất cả. Thiên Chúa chỉ muốn sự thật vì Người là chính sự thật.

Nhìn nhận đúng thực tế của mình, đúng như mình là, là thụ tạo, là được dựng nên từ không, thì là nhỏ bé trước Thiên Chúa. Không đòi tự hạ mà đòi ta phải nhìn nhận mình nhỏ bé đúng như mình là, cái gì là của Chúa cái gì là của ta.

Về mặt luân lý: Cửa trời hẹp, nhỏ mới lọt qua được, to không thể vào. Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng.

2/ Khi dn ba trưa hay ti thì đừng mi bà con bn bè.... hãy mi nhng người nghèo khó tàn tt... h không có gì đền đáp...ông có phúc vì s được (Thiên Chúa) đền đáp khi các người công cính sng li.

Đức Giêsu nói chuyện Nước Trời. Đời nầy thì chẳng có ai!

Người ta thường giải nghĩa câu nầy là "vô vị lợi". Bất cứ con vật hay con người không lợi là không làm. Con vật chết vì miếng mồi, con người chết vì miếng ăn. Không có ăn thì không ai chịu dám chết. Phải có lợi và lợi to như Đức Giêsu nói là bội hậu, đời nầy và cả đời sau. Bỏ cái lợi đời nầy để được cái lợi lớn vô cùng và đời đời ở đời sau. Nói rõ như vậy mà còn chưa hấp dẫn được mấy nguời huống chi nói vô vị lợi thì vô phương, không lọt được tai ai! Thánh Phanxico Xavie mỗi khi được Chúa cho một chút an ủi thì thưa với Chúa: satis, lạy Chúa, đủ rồi, xin để cho đời sau.

Cho cách nào thì được kể có công?

Trước hết chúng ta hãy kể những cái cho không kể:

- Cho vì bổn phận như đóng thuế, cho người thân...

- Cho vì tư lợi như đầu tư, tính toán...

- Cho để tỏ ra là người trên, để được khen..

- Cho để được cảm giác minh làm được việc tốt.

Chỉ có cho vì tình yêu thúc giục, vì Chúa Giêsu "ta đói cho ta ăn, ta khát cho ta uống".., như các tu sĩ của Mẹ Teresa "họ làm mọi sự cực nhọc vì làm cho Chúa Giesu". Cho Chúa thì Chúa mới kể và mới thưởng.

Thiên Chúa bỏ vốn, ta sinh lợi. Thiên Chúa định đoạt về ta nhưng không phải tùy tiện, độc đoán mà theo như "ta có, theo những gì Ta làm, như thể ta là".

Là sự thật 100% mà không ai thấy có lẽ vì không muốn thấy.

Ly Chúa xin giúp chúng con thy và nhìn nhn s tht và sng đúng s tht v chính mình.

 

64. Thái độ về “cái tôi”

khiến ta nên thánh thiện hay tội lỗi

Câu hỏi gợi ý:

1. Bạn nghĩ gì về “cái tôi” của bạn? Nó tốt hay xấu, thuận lợi hay bất lợi cho việc nên thánh của bạn?

2. Người thánh thiện có còn “cái tôi” của mình không? “Cái tôi” của người thánh thiện khác với “cái tôi” của kẻ tội lỗi ở điểm nào?

3. Bạn nghĩ gì về một người chọn chỗ kém nhất trong bàn tiệc rồi ngồi mong người ta mời lên chỗ cao hơn? Đó có phải là kẻ khiêm nhường không?

4. Trong việc kết hiệp với Thiên Chúa và sống hòa hợp với tha nhân, “cái tôi” giúp ta hay cản trở ta? Giúp hay cản trở thế nào?

Suy tư gợi ý:

1. “Cái tôi” hay ngôi vị của mỗi người là hồng ân cao quý nhất mà Thiên Chúa ban cho con người

Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa có ngôi vị hay bản vị (persona), nghĩa là một Thiên Chúa có “cái tôi”. Con người được Ngài dựng nên theo hình ảnh của Ngài, nên mỗi người cũng có một “cái tôi”. Vì thế, “cái tôi” là một giá trị căn bản và thâm sâu nhất của một con người. Không có bản vị hay “cái tôi” thì chúng ta chỉ hiện hữu giống như đất đá, cỏ cây, là những thứ không có bản vị. Do đó, chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban cho chúng ta một hồng ân rất cao quý là có “cái tôi” như Ngài đã có. Phải nói rằng không có hồng ân nào cao quý cho bằng hồng ân ấy.

2. Thái độ về “cái tôi” quyết định sự thánh thiện hay tội lỗi

Tuy nhiên, “cái tôi” vô cùng cao quý ấy lại gây ra những vấn đề vô cùng rắc rối. Cũng “cái tôi” ấy có thể làm cho con người trở thành thánh thiện mà cũng có thể trở thành tội lỗi.

– Thánh thiện là khi “cái tôi” biết tự xóa mình đi trước “cái tôi” của Thiên Chúa và của tha nhân. Chính Thiên Chúa, nguồn mạnh mọi sự thánh thiện, luôn luôn tự xóa mình; chúng ta có thể thấy điều này qua hành động tự xóa mình của Ngôi Hai trước Hai Ngôi kia: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự”(Pl 2,6-8).

– Tội lỗi là khi ta đặt “cái tôi” của ta lên trên “cái tôi” của Thiên Chúa và của tha nhân. Tội lỗi của thiên thần Lucifer và ông bà nguyên tổ của con người nằm ở chỗ đã đặt “cái tôi” của mình lên trên “cái tôi” của Thiên Chúa.

Vì thế, “cái tôi” là một con dao hai lưỡi. Chính thái độ của “cái tôi” của ta đối với “cái tôi” của Thiên Chúa và của tha nhân khiến ta trở nên thánh thiện hay tội lỗi.

3. Nghịch lý của “cái tôi”

Theo niềm tin Kitô hữu, Thiên Chúa đã dựng nên linh hồn con người – yếu tố chủ yếu làm nên “cái tôi” của ta – mang tính bất tử hay vĩnh cửu. Vì thế, dù “cái tôi” ấy có tự xóa mình đến thế nào thì nó cũng vẫn tồn tại. Điều rất nghịch lý nhưng cũng rất hữu lý là “cái tôi” càng tự xóa mình hay tự làm nhỏ mình đi bao nhiêu, thì nó càng trở nên vĩ đại, nổi bật và có giá trị hơn trước mặt Thiên Chúa và tha nhân. Trái lại, “cái tôi” càng muốn phình to và nổi bật lên để lấn át những “cái tôi” khác thì nó càng trở nên nhỏ bé, lu mờ và kém giá trị trước mặt Thiên Chúa và tha nhân. Đúng như lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng: “phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

Hai lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng ứng dụng cái nghịch lý trên. Trong bữa tiệc, hay trong rất nhiều tình huống khác của cuộc đời, ta nên chọn chỗ hèn kém hơn tha nhân. Chọn chỗ hèn kém không phải để sau đó mong chờ người ta đưa mình lên. Nếu còn ý hướng mong chờ đó thì việc chọn chỗ hèn kém ấy chỉ là giả hình, giả khiêm nhượng, không phải là xóa mình thật sự. Chọn chỗ hèn kém như một thái độ tự xóa mình thật sự – nghĩa là vì không muốn ai để ý đến mình, không làm theo khuynh hướng tự nhiên của “cái tôi” là muốn được trọng vọng, đề cao – thì mới thật sự là khiêm nhường. Khiêm nhường thật sự như thế mới có giá trị cao cả trước mặt Thiên Chúa.

Khi làm ơn cho ai, nếu còn mong người ta nhớ ơn hay trả ơn mình – khiến ta chỉ muốn làm ơn cho những ai mà ta hy vọng họ sẽ trả ơn ta – thì ta vẫn còn đặt nặng “cái tôi” của mình. Người thánh thiện hay trọn hảo, khi làm ơn cho ai, không mong được họ đáp trả, nên sẵn sàng làm ơn cho cả những người không thể trả ơn được, và họ ưu tiên làm ơn cho những đối tượng này. Làm được việc gì, dù to tát đến đâu cũng không cậy công, không tự hào rằng mình đã làm được như thế. Đức Giêsu dạy: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”(Lc 17,10). Có như thế mới thật sự là xả kỷ, quên mình. Nhưng chính khi quên mình thật sự như thế, ta mới thật sự gặp lại chính mình: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”(Kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô Khó Khăn). Người biết xóa mình hay quên mình thì thường xuyên sống trong bình an và hạnh phúc.

4. Quan trọng hóa “cái tôi” là một trở ngại rất lớn cho việc sống kết hiệp với Thiên Chúa và hòa hợp với tha nhân

Trong đời sống Kitô hữu, điều quan trọng nhất phải thực hiện là mến Chúa và yêu người, hay nói cách khác là sống kết hiệp với Thiên Chúa và hòa hợp với tha nhân. Trong việc kết hiệp với Thiên Chúa, dụ ngôn sau đây trong Ấn Độ giáo có một ý nghĩa sâu sắc:

“Xưa có một linh hồn tu nhiều kiếp đến gõ cửa Thiên Đàng. Thượng Đế hỏi:

– Ai đó?

– Con, linh hn tr li.

– Con là ai? Thượng Đế hi li.

– Con là con, linh hn đáp.

đây không đủ ch cho Ta và con cùng , con hãy đi nơi khác! Thượng Đế nói.

Linh hn y tr li trn gian tu luyn thêm 1000 năm na, sau đó lên Tri gõ ca li. Thượng Đế hi:

– Ai đó?

– Con, linh hn tr li.

– Con là ai? Thượng Đế hi li.

– Con là Ngài, linh hn đáp.

Khi y, Thượng Đế m ca Thiên Đàng cho linh hn y vào”.

Dụ ngôn trên cho thấy muốn kết hiệp với Thiên Chúa, con người phải xóa mình đi, nghĩa là phải biết coi nhẹ “cái tôi” của mình, coi nó như không là gì cả. Lúc ấy, “cái tôi” của ta như bị mất cái vỏ bên ngoài chỉ còn cái lõi bên trong là chính Thiên Chúa, nên rất dễ kết hợp với Ngài. Vì Thiên Chúa chính là nền tảng, là cốt tủy cho sự hiện hữu và tồn tại của “cái tôi” mỗi người. Đúng như thánh Âu Tinh nói: “Thiên Chúa còn thân mật với tôi hơn chính nội tâm tôi” (Deus intimior intimo meo). Chỉ khi kết hiệp với Thiên Chúa trong tình trạng tự xóa như thế, sự kết hiệp mới trọn vẹn và đem lại hạnh phúc tuyệt vời.

Đối với tha nhân, ta chỉ có thể yêu thương và hòa hợp với tha nhân khi ta tự xóa mình. Đối với ta, “cái tôi (của ta) là cái đáng yêu” nhất, nhưng đối với tha nhân, “cái tôi (của ta) là cái đáng ghét”nhất. Vì thế, tự đề cao mình, tự làm cho mình nổi bật lên, tự quan trọng hóa mình… trước tha nhân chỉ làm cho “cái tôi” của mình thêm đáng ghét, khiến ta và tha nhân tự nhiên xa cách nhau. Khi tự xóa mình trước tha nhân, coi tha nhân là quan trọng, làm cho tha nhân được nổi bật lên, thì đối với tha nhân, “cái tôi” của ta sẽ trở nên đáng yêu, khiến ta và họ trở nên gần gũi, dễ hòa hợp với nhau. Nhờ đó việc sống chung, làm việc chung trở nên vui thú và hạnh phúc.

CU NGUYN

Ly Cha, Cha đã dng nên con có mt ngôi v hay mt “cái tôi” ging như Cha. Chính nh “cái tôi” này mà con có th tr nên thánh thin như Cha, mà cũng có th ti li như ma qu. Vn đề là con đã hành x vi “cái tôi” ca con thế nào: con coi nó quan trng hơn Cha, hơn tha nhân, là trung tâm ca vũ tr, hay coi nó ch mt “cái tôi” nh bé cn đặt dưới tt c nhng “cái tôi” khác!? Ti li hay thánh thin nm thái độ này. Xin cho con biết coi nh “cái tôi” ca mình trước Cha và tha nhân.

 

65. Khuyến khích sống khiêm hạ- Lm. Hồ Bặc Xái

A. Khám phá s đip Li Chúa hôm nay

Sứ điệp nổi rõ nhất qua Bài đọc I, đáp ca và bài Tin Mừng là Khuyến khích sống Khiêm hạ.

- Bài đọc I chứa đựng những châm ngôn về sự khiêm hạ được sưu tầm trong một đoạn sách Huấn ca.

- Đáp ca: Ca tụng lòng ưu ái của Thiên Chúa dành cho những người nghèo hèn yếu đuối.

- Tin Mừng: Chúa Giêsu chỉ trích thói dành chỗ vinh dự trong bàn tiệc và thói thích mời những kẻ danh giá đến dự tiệc của mình.

B. Tìm hiu s đip

1. Bài đọc I (Hc 3,17-18.20.28-29)

Đoạn sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm tốn:

- Kẻ làm việc cách khiêm tốn thì được người khác mến yêu

- Chính Thiên Chúa yêu thương những kẻ khiêm tốn

- Kẻ kiêu căng khi lâm cảnh khốn khổ thì vô phương cứu chữa.

2. Đáp ca (Tv 67)

Thánh vịnh này được gọi là Bài ca của kẻ nghèo hèn: Lòng yêu thương của Thiên Chúa đặc biệt dành cho những người yếu đuối, cô thế cô thân và nghèo hèn.

3. Tin Mừng (Lc 14,1.7-14)

Khung cảnh của câu chuyện này là Chúa Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa, và nhóm Pharisêu cố dò xét Ngài. Trong khung cảnh bữa tiệc ấy, Chúa Giêsu dạy hai bài học:

a/ Bài học về việc chọn chỗ ngồi (cc 7-11): chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị.

- Không nên tự mình tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm giá của mình.

- Địa vị ấy, hãy để cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan của họ đối với mình.

- Và tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó, vì “hễ ai tự nâng mình lên sẽ bị (Thiên Chúa) hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng lên”.

b/ Bài học về việc phục vụ vô vị lợi: Chúa Giêsu lấy việc mời khách dự tiệc làm thí dụ:

- “Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui”: ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ “người nghèo”. Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (xem 2Sm 5,8; Lv 21,18).

- “Họ không có gì đáp lễ”: người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ”: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là Đấng chủ động).

4. Bài đọc II (Dt 12,18-19.22-24a)

Tác giả thư Do thái khích lệ các kitô hữu gốc do thái đang gặp khó khăn: khi họ bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo, xem ra như họ bỏ núi Sinai (một trong những biểu tượng của Do thái giáo), nhưng bù lại họ được tiến lên núi Sion trên trời, trên đó có thành Giêrusalem trên trời, họ được đến với chính Thiên Chúa.

C. Rao giảng sđiệp

I. GỢI Ý GIẢNG

Nhân cơ hội được mời dự tiệc, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bữa tiệc để dạy hai bài học: bài học khi được mời dự tiệc và bài học khi đứng ra đãi tiệc. Cách dự tiệc và cách đãi tiệc là hình ảnh của những cách sống.

1. Vinh dự trong cuộc sống:

- Chúa Giêsu thấy người do thái hay chọn chỗ nhất mà ngồi. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn, mà vì chỗ đó vinh dự hơn (tiếng “chủ tịch”nghĩa là làm chủ chiếc chiếu tiệc, lớn nhất trong chiếu). Như vậy “chỗ ngồi”là vinh dự.

- Những người tự chọn chỗ vinh dự nghĩa là tự tô vẽ vinh dự cho mình. Việc tự tô vẽ như thế có khi không đúng sự thật, cho nên có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, vinh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhân nơi mình và đặt mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ vinh dự có thể bị hố và xấu hổ.

- Chú ý câu cuối “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”: Động từ “Bị hạ xuống”ở thể thụ động, một kiểu tránh nói trực tiếp tới Thiên Chúa: không phải người đời mà chính cả Thiên Chúa cũng hạ kẻ tự tô vẽ vinh dự của mình. Như vậy, điều khám phá thứ hai là Vinh dự của mình là do Thiên Chúa đặt mình vào. Mà Thiên Chúa thì thường nâng cao kẻ thấp hèn (Rất nhiều thí dụ trong Thánh Kinh: Abel và Cain; Giacóp và Êsau; Giuse và các anh; Đavít và các anh; Đức Maria v.v)

2. Đền đáp trong cuộc sống:

- Nhiều người mong sự đền đáp nơi người ta. Vì thế họ làm gì cũng theo óc tính toán: “do ut dat”(tôi cho nó để nó cho tôi). Nhưng mong đợi như thế chưa chắc là sẽ được thỏa mãn, bởi vì có khi người ta không đền đáp cân xứng với mong đợi của mình, thậm chí có khi người ta còn không nhớ ơn để mà đền đáp. Và cho dù người ta có đền đáp thì cái mà người ta đền đáp cũng chỉ có giá trị tạm bợ ở đời này.

- Chúa Giêsu dạy chúng ta khôn ngoan hơn, đừng chờ mong sự đền đáp của người ta, mà hãy nghĩ tới sự đền đáp của Thiên Chúa. Một mặt, Thiên Chúa không bao giờ quên những việc lành chúng ta làm; mặt khác Chúa mà đền đáp thì dĩ nhiên sự đền đáp ấy chẳng những cân xứng mà còn bội hậu.

- Chúa còn hứa rằng khi ta làm một việc tốt cho những người không có khả năng đền đáp thì chính Chúa sẽ thay họ đền đáp cho chúng ta. Những người không có khả năng đền đáp là “những người tàn tật, què quặt và đui mù”, nói tóm lại là những người nghèo.

II. ĐỂ THAM KHẢO THÊM

1. Đức tin bị vỡ mộng (Bài đọc II – Thư Do thái)

Đoạn thánh thư hôm nay được viết cho những tín hữu do thái bị vỡ mộng về đức tin: họ đã rời bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo. Nhưng sau một thời gian, họ bị vỡ mộng và có cảm giác bỏ mồi bắt bóng. Họ tưởng phụng vụ Kitô giáo huy hoàng hơn Do thái giáo, nhưng thực tế ngược hẳn lại; họ tưởng nếp sống kitô giáo sung sướng hơn nếp sống cũ, nhưng thực tế ngược hẳn lại… Những tín hữu gốc do thái này tiếc nuối thứ tín ngưỡng ngày xưa của họ, cũng giống như dân Israel trong sa mạc tiếc nuối củ hành củ tỏi lúc còn ở Ai cập.

Nhiều tín hữu thích sống với thứ tín ngưỡng thời thơ ấu xa xưa vì họ thấy rất đẹp, rất ngọt ngào: những chuyện thánh với rất nhiều phép lạ, những bài giáo lý dạy cho trẻ em với những lối giải thích rất đơn giản về những vấn đề của cuộc sống đời này và đời sau, những cách giải quyết vấn đề rất đơn giản hễ có công thì được thưởng và hễ có tội thì bị phạt v.v.

Thế rồi, khi họ đụng chạm với thực tế ngày nay, cái đức tin trẻ thơ ấy không trả lời được những vấn nạn hóc búa. Và họ bị vỡ mộng.

Nhưng sự vỡ mộng này là cần thiết, vì nó thúc giục chúng ta phải bồi dưỡng đức tin, củng cố đức tin. Bởi vì không thể sống một cuộc sống trưởng thành chỉ với đức tin của một đứa bé (Viết theo Flor McCarthy).

2. Chuyện minh họa

a/ Chỗ ngồi và người ngồi

Một người chủ nhà kia mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách mời, có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, người chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối, nói rằng ông muốn được ngồi chung với những người bình dân nghèo nàn. Sau Daniel còn có nhiều người khách lần lượt đến. Ai cũng dành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Rốt cuộc chỉ có cái bàn tận dưới cùng, bàn mà Daniel đang ngồi, là còn chỗ trống. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất cứ bàn nào khác, nên người chủ nhà buộc lòng mời Ông Thị Trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với ông Daniel. Vị Thị Trưởng thắc mắc: “Nhưng đây là chiếc bàn cuối mà!”Người chủ nhà nhanh trí đáp: “Thưa không, đây là bàn danh dự, vì là bàn có Ông Daniel đang ngồi”. Vị Thị Trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ.

Ý nghĩa câu chuyện này là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự; ngược lại chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự (Sưu tầm).

b/ Cho thế nào mới có giá trị

Nicholas là một người nổi tiếng về lòng quảng đại vì đã dùng rất nhiều của cải để cho rất nhiều người. Ông chết và được dẫn tới cửa thiên đàng.

Thánh Phêrô chỉ cho ông thấy hai đống vàng, một đống to và một đống nhỏ, đống nào cũng gồm nhiều cục vàng có kích cỡ khác nhau. Nicholas hỏi:

- Những cục vàng kia để làm gì thế?

Thánh Phêrô giải thích:

- Đó là phần thưởng dành cho những người có lòng quảng đại. Mỗi cục vàng tương đương với một lần cho đi mà con người thực hiện khi còn sống.

Nicholas phấn khởi trong lòng, tin chắc mình sđược thưởng rất nhiều. Nhưng ngay lúc đó Thánh Phêrô nói tiếp:

- Tuy nhiên không phải lần nào người ta cho cũng đều là thật lòng cđâu. Đa số những lần cho đều do tính toán vụ lợi. Chúng là những cục trong đống vàng lớn này, không được kể.

- Sao vậy?

- Đống vàng lớn tượng trưng cho những thứ mà người ta cho bà con, bạn bè thân thích. Chúng chẳng có giá trị gì cả, vì ngay cả những tên trộm cướp cũng biết cho những người thân của mình như thế.

Thánh Phêrô vừa nói xong thì đống vàng lớn tan thành bụi.

Tiếp đến, thánh Phêrô lấy một cái sàng có những lỗ khá to. Rồi Ngài lấy những cục vàng trong đống còn lại để lên sàng mà sàng. Rất nhiều cục vàng bị lọt xuống. Và Thánh Phêrô giải thích:

- Những cục vàng bị lọt xuống ấy là những của người ta cho đi với tính toán sđược cho lại. Đó không thực sự là cho, mà là đầu tư, vì thế cũng không kể.

Thế là những cục vàng ấy trở thành bụi.

Thánh Phêrô chỉnh các lỗ sàng cho rộng thêm một chút. Ngài lấy những cục vàng còn lại đặt lên sàng và sàng lần nữa. Lại một số lọt xuống:

- Đây là những của người ta cho đi để được người khác khen ngợi. Cũng là một hình thức mua bán, cho nên cũng không kể.

Mớ vàng ấy lại tan thành bụi.

Thánh Phêrô lại chỉnh những lỗ sàng cho rộng hơn nữa và lại sàng mớ vàng còn lại. Một số lại lọt xuống:

- Đây là những của người ta cho đi để được cảm giác mình đã làm một việc tốt. Chúng cũng không được kể.

Và mớ vàng đó cũng lập tức tan thành bụi.

Sau lần sàng thứ tư, thánh Phêrô nói:

- Đây là những của người ta cho vì bổn phận. Cũng không được kể. Và chúng cũng tan thành bụi.

Thánh Phêrô chuẩn bị sàng lần thứ năm thì Nicholas đưa tay chặn lại: “Thôi thôi, xin Ngài đừng sàng nữa, vì nếu cứ tiếp tục thì tôi sẽ chẳng còn gì c”. Thánh Phêrô ôn tồn đáp:

- Đúng thế, những của cho thực sự thì rất ít, cũng như vàng nguyên chất thì rất ít vậy. Tuy nhiên anh đừng nản lòng, tôi có một tin vui cho anh.

- Tin vui gì?

- Thiên Chúa là người quảng đại thật lòng nhất. Nào chúng ta hãy đến gặp Ngài.

- Nhưng mà hai bàn tay của con rỗng không, con không có gì cả.

- Nghĩa là anh nghèo chứ gì! Thì càng tốt, bởi vì Thiên Chúa đối xử quảng đại hào phóng nhất đối với những người nghèo mà tự biết mình nghèo (Sưu tầm).

 

66. Khiêm tốn trước Chúa

Mỗi khi dâng Thánh lễ, trước hết Giáo hội luôn mời gọi chúng ta sám hối. Giáo hội muốn nhắc chúng ta nhớ, trước Chúa mình chỉ là những tôi tớ hèn mọn, là những con người tội lỗi cần được Chúa xót thương và ban ơn. Đấy là thái độ khiêm tốn cần thiết cho người tín hữu chúng ta trước Chúa.

Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu mượn hình ảnh người được mời đến dự tiệc để dạy chúng ta: "... Khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên".

Có người ph n kia mt hôm nm mơ thy mình được gp Chúa:

Chúa hi: "Ch là ai?"

Ch tr li: "D, d con là v ca ông bin A h đạo X, giáo phn Y nè Chúa nh con không?"

Chúa đáp li: "Ta không hi con v chuyn đó, Ta hi con là ai?"

Ch ta tưởng Chúa chưa nghe rõ nên mi tr li ln hơn: "D con là v ca ông bin..." và thêm mt hơi: "con đi l misa mi ngày, con ăn chay mi tun và 4 đứa con nh con biết nuôi dy nên chúng nó đã thành tài hết ri Chúa ơi: 2 đứa làm bác sĩ, mt đứa làm k sư và mt đứa làm giáo viên..."

Ch nghĩ trong lòng s được Chúa khen nhiu lm. Tuy nhiên, Chúa vn nói vi ch là Người không hi điu đó. Ch bun lm không biết tr li thế nào nên lng thinh hi lâu. Sau đó, ch tr li trong nước mt: "D con là mt con người yếu đui ti li nhưng vn được Chúa thương tha th và cho làm con Chúa."

Không ngờ chính câu trả lời ấy Chúa đã gật đầu và tỏ vẻ rất đồng ý. Chị sực tỉnh giấc và nhớ lại dường như từ đó đến giờ mình sống kiêu ngạo quá. Những gì mình làm chỉ với ý muốn khoe với Chúa và người khác thôi. Từ đó về sau, chị đã sửa mình. Chị vẫn sống và làm tiếp những gì đã làm nhưng với thành ý đền ơn Chúa và đền tội mình, chứ không còn ý nghĩ kiêu ngạo như trước.

Thái độ lúc đầu của chị này, làm ta nhớ lại dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện (Lc 18, 9-14). Người Pharisêu cũng đã hãnh diện khoe với Chúa đủ điều nhưng vẫn không được Chúa khen. Ngược lại, người thu thuế đứng cuối đền thờ không dám ngước mặt lên mà rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi" đã được Chúa khen.

Như thế, một trong những thái độ quan trọng và cần thiết của chúng ta trước Chúa là hết sức khiêm tốn. Khiêm tốn như thế là chúng ta đón nhận chính con người thật của mình. Chúng ta chỉ là thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.

Nếu Chúa Giêsu không khiêm tốn đón nhận những gì Chúa Cha trao phó có lẽ chúng ta sẽ khó mà nhận được ơn cứu chuộc. Và cả cuộc đời của Chúa Giêsu, biết bao lần dư khả năng dùng quyền phép của mình nhưng Người vẫn khiêm tốn chẳng tỏ ra. Chẳng hạn, khi ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc Chúa Giêsu đã phải khiêm tốn lắm mới không đáp lại những thách thức của ma quỷ. (Lc 4, 1 - 13). Vì thế, chúng ta hãy sống luôn trong thái độ khiêm tốn trước Chúa và luôn nhớ lời Người dặn: "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên".

 

67. Suy niệm của Lm. Trần Văn Trợ

ĐỐI X TRONG TÂM TÌNH KHIÊM H VI NGƯỜI CHUNG QUANH.

Khi ta tự chọn cho mình chỗ tốt nhất, rõ ràng là ta chỉ biết nghĩ đến bản thân mình trước hết mọi người khác, đó chính là động lực âm thầm nhưng rất mạnh mẽ vẫn thúc đẩy nhiều công việc thường ngày của ta! Động lực này phô bày cái bản năng ích kỷ, lo lắng cho cái tôi trước nhất mọi sự! Nó hoàn toàn trái ngược với con đường quên mình trong phục vụ của Chúa Giêsu!

Bài học chọn ngồi chỗ cuối của Chúa Giêsu dành cho chúng ta không những là một bài học hết sức thực tiển trong cuộc sống để tránh bị bẻ mặt trước đám đông; nhưng còn là một thách đố liên lỉ cho mỗi người biết quên mình mà nghĩ đến anh chị em chung quanh trước tiên. Nó nhắc nhở ta suy nghĩ và hành động ngược lại với bản năng thô thiển của người thiếu đắn đo suy nghĩ trong hành động. Nó giúp ta biết để ý mở tâm hồn và cõi lòng mình ra mà chăm lo cho những người xung quanh trước, giống như gương lành của Chúa Giêsu đã sống và trối lại cho các môn đệ của Ngài. Chỉ có con đường duy nhất là hy sinh phục vụ trong tinh thần yêu thương mới giúp ta đi theo đúng con đường yêu thương phục vụ của Chúa Kitô. Vì nếu việc hy sinh phục vụ người khác là một bản năng tự nhiên trong mỗi chúng ta, chắc hẳn Chúa Giêsu đã không phải khổ sở xuống thế làm người, để nêu một tấm gương sống động cho loài người noi theo. Và gương sáng của Ngài vẫn còn đó, nhưng liệu có mấy người tin theo và dám sống như Ngài đã từng sống trọn vẹn một đời cho yêu thương phục vụ? Chúng ta là những người đang sống với danh hiệu Kitô hữu, nếu ta không dám sống như người đã từng sống trong việc yêu thương phục vụ, thì ta chỉ là những kẻ mạo danh, đội lốt làm nhơ ố Danh Thánh của Ngài, khiến người đời càng khinh rẻ Ngài thêm nữa!

Ly Chúa Giêsu, xin giúp con tin yêu Ngài tha thiết hơn, để con có thêm can đảm sng như Ngài mun con sng, sut mt đời yêu thương phc v, hu cho người đời nhn biết rng ch có Chúa là Thiên Chúa tht ca tình yêu thương.

 

 

68. Chú giải của Noel Quesson

Mt ngày sa-bát kia, Đức Giêsu đến nhà mt ông th lãnh nhóm Pharisêu để dùng ba

Luca, môn đệ của Phaolô nguyên là một người Pharisêu nên ngài dễ dàng phá bỏ hình ảnh quá đơn giản của một Đức Giêsu được trình bày một cách có hệ thống như người chống lại nhóm Pharisêu. Một cách tiên thiên, Đức Giêsu không chống lại một ai: Người là Người tự do, có thể giao du với tất cả mọi người: Các người thu thuế Pharisêu (Lc 7,36; 11,37; 14,1). Ở đây, chúng ta thấy Người được mời đến nhà “một thủ lãnh nhóm Pharisêu”, một trong các vị thân hào này đóng vai trò lãnh đạo trong đảng của những người công chính. Nhóm này thường chống đối Đức Giêsu mạnh nhất.

Luca ghi nhận đó là một ngày Sabát. Ngày này, các bữa ăn có một sự quan trọng đăc biệt. Bữa ăn trưa liền sau thánh vụ ở Hội Đồng. Sau một kinh cộng đoàn dài, bữa ăn mang một tính cách sang trọng hơn, vui vẻ hơn bữa ăn của các ngày làm việc. Thật vậy, vì thời gian nghỉ ngơi trong ngày Sabát phải rất chuẩn xác nên mọi món ăn phải được chuẩn bị vào tối ngày thứ sáu, đây là ngày “chuẩn bị” (Máccô 15,42). Như thế, tách khỏi mọi lo lắng về vật chất, những ai tiếp đãi bạn bè hoặc gia đình họ có thể hoàn toàn sống cho tình bằng hữu, cho việc trao đổi đối thoại. Ngày Sabát, người ta sẵn sàng mời khách. Và những “câu chuyện ở bàn ăn” là một cơ hội để vui vẻ và để suy tư.

Những ngày Chúa nhật của chúng ta chẳng phải đã đánh mất một cái gì đó sao?

Người nhn thy khách d tic c chn c nht mà ngi, nên nói vi h d ngôn này: “Khi anh được mi đi ăn cưới, thì đừng ngi vào c nht, ko l có nhân vt nào quan trng hơn anh cũng được mi, và ri người đã mi c anh ln nhân vt kia phi đến nói vi anh rng: ‘Xin ông nhường ch cho v này.’ By gi anh s phi xu h mà xung ngi ch cui.

Vậy Đức Giêsu đã quan sát. Người đã thấy có những người khéo luồn lách để được ngồi vào chỗ tốt. Trong mọi xã hội, người ta thừa nhận cuộc chạy đua để dành các chỗ nhất đó. Ngày nay có hàng ngàn dấu hiệu phân biệt, và không chỉ ở bàn ăn, để tôn cao giá trị. Từ cách trang phục cho đến xe ôtô của một địa vị xã hội nào đó, rồi đến thói bọc làm sang trọng các đề tài phải đề cập khi trao đổi câu chuyện vì đó là thời thượng!

Trước tiên, rõ ràng Đức Giêsu không kể lại dụ ngôn để khuyến khích chúng ta tôn trọng các quy tắc thế tục của sự tương xứng về xã hội và cấp bậc.

Người muốn khuyến khích chúng ta phải hạ mình, khiêm tốn. Nhưng trước hết, như thường lệ, Người nói với chúng ta về “Thiên Chúa”: Điều kiện nào là chủ yếu để được nhận vào Nước Thiên Chúa?

Trái li, khi anh được mi, thì hãy vào ngi ch cui, để cho người đã mi anh phi đến nói: ‘Xin mi ông bn lên trên cho.’ Thế là anh s được vinh d trước mt mi người đồng bàn

Vâng, để được nhận vào Nước Chúa, điều kiện căn bản chính là phải đón nhận, phải tiếp đón Nước Trời, phải làm cho mình trở nên hoàn toàn bé nhỏ: Chính người “Chủ tiệc” sẽ có sáng kiến và nói “hãy đến, hãy tiến lên cao hơn”. Và thật nghịch lý, người nào coi mình là “người sau rốt” sẽ sẵn sàng hơn người kiêu ngạo, để nhờ ân sủng, đón nhận ơn mà mình nghĩ rằng mình không xứng đáng được hưởng. Chính những tội lỗi của chúng ta làm chúng ta cảm nhận sâu sắc sự kém cỏi triệt để của mình: Người “tội lỗi” trở về nhà và được “công chính hóa”, trong lúc kẻ tự phụ công chính tiếp tục đứng thẳng trước mặt Thiên Chúa kể lể những hành động tốt của mình; “Chúa thấy đó, con không cần đến Ngài, con không phạm tội, không trộm cắp, bất chính, ngoại tình... con làm điều lành, con ăn chay và bố thí...” (Lc 18,9-14).

Không phải tội lỗi chống lại ơn cứu độ nhiều nhất mà chính là tình cảm về sự “công chính của bản thân”: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31). Thánh Phao lô, lấy lại mạc khải này của Đức Giêsu, sẽ chứng minh rằng không một ai có thể đòi hỏi sự cứu độ đời đời như một quyền lợi căn cứ vào các công nghiệp của riêng mình qua việc hoàn thành Luật (Rm 3,21-31; Gl 2,16-21).

“Anh hãy ngồi vào chỗ cuối!” Đức Giêsu không nặng lặp lại điều đó; trước thánh Phaolô. Trước mặt Thiên Chúa phải biết mình “yếu đuối” “nhỏ bé” và “ở chỗ cuối”, để hoàn toàn trông cậy vào Người, đồng thời hoàn toàn từ bỏ niềm cậy trông vào sức lực của riêng mình (Lc 17,10; 18,10-14).

Phải nhỏ bé như một trẻ thơ để có chỗ trong Nước Trời (Lc 9,48). Bạn hãy đặt mình vào chỗ cuối? ông chủ sẽ cho mời bạn lên chỗ cao hơn.

Vì phàm ai tôn mình lên s b h xung; còn ai h mình xung s được tôn lên

Tính kiêu ngạo là tội nặng nhất trước mặt Thiên Chúa. Ai tưởng rằng mình xứng đáng không thế có chỗ trong Nước Thiên Chúa. Kinh nghiệm lịch sử của Israel rõ ràng là sự lật ngược các giá trị của trần gian này: Thiên Chúa đã chọn dân tộc nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất trong các dân tộc trên mặt đất... “Không phải vì anh em công chính hay vì lòng anh em Ngay thẳng mà anh em sắp được vào chiếm hữu đất ấy đã hứa cho anh em, bởi vì anh em là một dân cứng cổ... (Đệ nhị luật 9,5~ - 4,37-38; Edêkien 21,31; Thánh Vịnh 147,6). Hạ mình xuống ư. Thế giới hiện đại không chấp nhận thái độ ấy. Ngày nay, người ta diễn tả, thái độ ấy bằng không từ ngữ có nghĩa xấu? Nằm bẹp xuống... đào nhiệm... bò lết... nhượng bộ... đầu hàng... Trái lại người ta ca ngợi sự phát triển, mở mang, thăng tiến.... Tuy nhiên, sự hạ mình phải là một điều rất cao cả để Đức Giêsu khuyên chúng ta làm và trước hết chính Người đã sống sự hạ mình ấy như thái độ của chính Thiên Chúa ở giữa chúng ta! “Người đã chọn chỗ sau rốt đến nỗi không bao giờ và không một ai có thể cướp lấy của Người”. Đó chính là ý nghĩa của Nhập thể: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế: Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).

Nhưng để nhổ bỏ mọi xu hướng khỏi thái độ ấy, chúng ta phải biết rằng khi đặt mình vào chỗ sau rốt, chỗ của người bị đóng đinh, Đức Giêsu không giảm giá trị của minh, Người không thua kém chính mình. Trái lại, bằng sự hạ mình ấy, Người đã biểu lộ trọn vẹn sự cao cả tối thượng của Người. Người đã trở thành Tình Yêu Tuyệt Đối? Người đã trở thành “con người vì những người khác!” “con người vì Chúa Cha”. Chính trong ý nghĩa ấy, sự sống lại trong vinh quang không còn là điều trái ngược với thập giá. Sự quên mình hoàn toàn của Người đã trở thành vinh quang của Người. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên!

Chúng ta không chứng kiến những nguyên tắc về lễ độ nơi bàn ăn! Chúng ta được mời gọi đến được Nước Thiên Chúa, bằng cách noi gương Thiên Chúa, Đấng kín nhiệm, ẩn giấu, khiêm hạ; Đấng đã làm mình thành người sau rốt, người phục vụ cho mọi người! Không có sự đào nhiệm nào trong thái độ thánh thiêng ấy. Đó là sự cao cả của Người. Trái lại, chính nhu cầu khẳng định mình chống lại những người khác, thống trị họ bằng sức mạnh hoặc bằng sự mua chuộc, thúc cùi chỏ vào họ để được đứng ở hàng đầu tiên; chính bản năng sinh vật ấy muốn là kẻ mạnh nhất thể hiện sự yếu đuối nguyên thủy của chúng ta, tội nguyên tổ của chúng ta: Muốn được như các thần linh... như Thiên Chúa giả hiệu ấy; ở đó chúng ta quy chiếu bản năng chúng ta.

Trong bữa ăn cuối cùng để chia tay ở nhà Tiệc ly, những khách mời của Đức Giêsu vẫn chưa hiểu: “Các ông còn cãi, nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giêsu bảo các ông: “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị dân... Anh em thì không như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ... Thầy đây Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ (Lc 22,24-27).

Ri Đức Giêsu nói vi k đã mi Người rng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn ti, thì đừng mi bn bè, anh em, hay bà con, hoc láng ging giàu có, ko h cũng mi li ông, và như thế ông được đáp l ri

Xung quanh đề tài về “bàn ăn” đây là một dụ ngôn mới. Dụ ngôn này mời gọi chúng ta có thái độ vô tư, phải cho và phục vụ không chờ đền đáp lại. “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu? Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. (Lc 6,32-35).

Trái li, khi ông đãi tic, hãy mi nhng người nghèo khó, tàn tt, què qut, đui mù. H không có gì đáp l

Đây cũng là một trong các nghịch lý của Tin Mừng đi ngược nhiều với thế gian. Những lời này thật sự là cách mạng. Thật vậy ở đây, phải hiểu rằng Đức Giêsu kể ra những hạng người bấy giờ bị coi là những hạng người ô nhục. Một cấm kỵ lâu đời trong nghi lễ cấm những người dị dạng tham dự các buổi lễ ở Đền Thờ (2 Samuen 5,8; Lê vi 21,18). “Luật Qumram”, thời Đức Kitô quy định như sau: “Không một người mắc phải sự ô uế của con người được vào trong Hội đường của Thiên Chúa! Mọi người bị tì vết trong da thịt mà người ta có thể nhìn thấy, bị liệt ở bàn chân, bàn tay, bị thọt, mù hoặc điếc, hoặc câm. Những người này không được vào để tham dự ở giữa Hội đoàn của những con người danh tiếng!”. Vả lại, theo Đức Giêsu, chính những con người bị khinh miệt ấy, những người tàn tật ấy lại là đối tượng của các ơn huệ thiêng liêng và được mời đến Bàn Tiệc của Người (Lc 14,21). Bệnh nhân, người đau khổ, nghèo khó, bị nhục mạ, xấu hổ, đáng thương, thương tích, đựng sau rốt, bạn đang được Chúa yêu thương. Tấm lòng của Thiên Chúa chúng ta lớn hơn tấm lòng của chúng ta. Sự yếu đuối của Đức Kitô còn mạnh mẽ hơn sự mạnh mẽ của chúng ta! Khôn ngoan của Nước Thiên Chúa là sự điên rồ đối với con người. Ai khiêm nhường ấy là phúc thật, họ sẽ được đất Đức Chúa Trời làm của mình vậy…

Như thế, ông mi tht có phúc: vì ông s được đáp l trong ngày các k lành sng li

Người ta thấy rằng bởi việc nhắc đến ngày sống lại sau cùng, những lời nói về bàn ăn của Đức Giêsu đi xa hơn những lời khuyên tầm thường khi mời khách. Nhưng điều đó không có nghĩa là không được áp dụng vào các bình diện cụ thể hơn. Thật vậy, những lời của Đức Giêsu nhắm đến ba loại bữa ăn:

Trước tiên những bữa ăn của bàn ăn con người: phải chăng là điều Đức Giêsu nói với chúng ta?

Kế đó là bữa ăn Thánh Thể: có phải là không phân biệt ngôi thứ, mở ra cho tất cả mọi người?

Sau cùng, bữa ăn thời thế mạt: Thiên Chúa đã dự trù sự no nê cho những lũ tội lỗi, với điều kiện duy nhất là họ noi gương Thiên Chúa để sống yêu thướng mà không chờ đền đáp lại.

 

69. Chú giải của R. Gutzwiller

KHIÊM NHƯỜNG (14, 7-11)

Lời khuyến dụ thứ hai của Đức Giêsu trong bữa tiệc có nhiều điểm khác lạ. Bề ngoài đó chỉ là vấn đề lịch sự. Ở đây Ngài còn nhận định trong phạm vi hoàn toàn tự nhiên. Ngài thấy khách dự tiệc chọn chỗ tốt nhất, nên mới lên tiếng nhắn nhủ: ‘khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, nhưng hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết. Trong trường hợp này, gia chủ sẽ đến và nói: ‘này bạn, xin mời bạn lên trên’.

Theo phép lịch sự, không nên ngồi trên mà trái lại nên tế nhị kín đáo tìm chỗ thấp. Sắp xếp chỗ ngồi là phận sự của gia chủ chứ không phải khách tiệc. Khi nhấn mạnh về xã giao, Đức Giêsu đã xử sự khác thường: người ta cũng có thể nói Ngài giả hình vì Ngài khuyên thực khách mưu mô ở dưới để được đưa lên hàn trên: ‘Khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: ‘này bạn, xin mời bạn lên trên’. Bấy giờ ngươi sẽ được vinh dự trước mặt những người dự tiệc’.

Tuy nhiên nếu tìm chỗ dưới với hậu ý hay hy vọng được lên cao, đó chẳng phải là khiêm tốn giả tạo và nhún nhường một cách tinh vi sao?

T cao là điu không nên có nơi Kitô hu.

Thực sự đối với Đức Kitô thì hoàn toàn khác. Chắc chắn lời cảnh cáo những người biệt phái của Ngài hoàn toàn có tính cách tự nhiên, nhưng còn tiềm ẩn trong đó một ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Đối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng nước Thiên Chúa, một đề tài đã được Thánh Luca nói đến trong đoạn trước. Thực vậy, Thánh Luca đã viết: ‘và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa’. Lời đó cũng ám chỉ những người sau hết sẽ trở thành trước hết và ngược lại.

Chúng ta phải hiểu lời đó của Đức Giêsu trong tương quan với ý tưởng này: ‘Vì hễ ai nhắc mình lên sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên’. Trong tương giao giữa người với người, khiêm nhường thường quá chịu ảnh hưởng phức tạp của mặc cảm thua kém, yếu hèn tự nhiên, ảo tưởng sai lầm và nhận định thiếu thực tế. Không thể ngây ngô nghĩ rằng mình thua kém tha nhân. Có thể người này hơn người kia về sức mạnh thể xác, sắc đẹp, thông minh, năng lực, ưu điểm, tinh thần, và các đức tính luân lý. Dẫu thế họ vẫn phải đối đáp với người khác với tinh thần khiêm nhu.

Thái độ đó chỉ có ý nghĩa –ý nghĩa đích thực- khi ta biết đối chiếu không phải giữa người này với người kia, nhưng là giữa Thiên Chúa với con người và rút ra những qui tắc cho mối tương quan đó. Khi đó khiêm nhượng trở thành chân lý và giúp ta hiểu đứng đắn con người mình.

Trước nhan Thiên Chúa, con người là tạo vật sánh với Đấng Tạo hoá, tạm thời với Vĩnh cửu, tương đối với Tuyệt đối, bất tất đối với tất yếu, hữu hạn đối với Vô hạn, cho nên dưới mọi khía cạnh vẫn là bé nhỏ trước vĩ đại. Hơn thế, con người còn khiếm khuyết nữa và đã mang thân phận tội lỗi, con người như tội nhân ra trước quan toà, con nợ đứng trước chủ nợ, dơ bẩn trước vẹn sạch, tội nhân trước Đấng Thánh.

Xét như thế –và như thế mới là cái nhìn chính xác- khiêm nhường là một thái độ tất yếu duy nhất. Ước mong con người, dù có khiếm khuyết cũng được mời tham dự bàn tiệc nước trời với sự khoan hồng đặc biệt. Và với tâm tình tri ân, hẳn họ sẽ hoan hỷ chấp nhận chỗ kém.

Nếu Thiên Chúa mời gọi họ đến với Ngài, thì hẳn Ngài sẽ cho họ chỗ trọng hơn. Đó là một ân xá mà không thể không ngạc nhiên. Đấy là một vinh dự mà Thiên Chúa ban, lẽ ra họ không đáng được. Chỉ có ai tự hạ với ý thức mình là hư vô mới có thái độ chân chính, mới biết rõ lời mời gọi là ân sủng. Như thế, họ mới ở trong tình trạng sẵn sàng nhận ân sủng đó, ân sủng sẽ nâng họ lên cao.

Trái lại, ai tưởng mình cao trọng –họ nghĩ như thế vì ảo tưởng nào không rõ- thì chiếm lấy cho mình những điều thuộc về Thiên Chúa, thiếu ý thức về tính nhưng không của việc tuyển chọn, thiếu tư cách và thiếu chuẩn bị tư tưởng để đón nhận ân sủng.

Như thế, trong nước Thiên Chúa, khiêm nhường là điều kiện tiên quyết và cơ bản, là nhân đức chính danh Kitô giáo, bắt nguồn từ tinh tuý sâu xa nhất của cử chỉ đạo đức.

Lời nói của Đức Giêsu vượt ra ngoài tầm yêu sách của phép lịch sự và cách xử thế bên ngoài, nó đem lại cho nhân loại đi xuống chiều sâu khôn dò của lòng khiêm hạ, và tiến lên chiều cao thăm thẳm của ân sủng Thiên Chúa.

VÔ V LI (14, 12-14)

Đức Kitô đòi hỏi gia chủ phải vô vị lợi. Ông không nên mời bằng hữu và những người giàu có quen biết để họ sẽ đãi lại hay dễ dàng lợi dụng cho mình: Không: ông ta nên mời những người không hy vọng đền đáp hay không thể đối xử lịch thiệp với mình: người ăn xin, què quặt, tàn tật và mù loà.

Ngay lúc đó Đức Giêsu đã quy hướng về đời sau: ‘Vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn’. Ở đây có hai điểm nổi bật:

Trước hết, quan điểm của Đức Giêsu về đời sau. Đang lúc dự tiệc trần gian, Ngài liên tưởng đến bữa tiệc trong nước Thiên Chúa sẽ thành tựu hoàn toàn trong vinh quang của Ngài.

Tiến về thành thánh Giêrusalem thiên quốc. Sự viên mãn trần gian là mục tiêu viên mãn của siêu nhiên. Thế nên, Ngài để hết tâm tư vào thời sau hết, điểm này cho thấy lý do những điểm khai triển của Ngài trong suốt bữa tiệc.

Khi nói về việc chữa lành trong ngày Sabat và về luật nghỉ lễ, Ngài đã nghĩ đến ngày Sabat vĩnh cửu, trong ngày đó, mọi người sẽ được lành mạnh và được nghỉ ngơi trong Chúa. Ngày Sabat phàm trần có lẽ chỉ là sự tiền dự, là ánh chớp ngắn ngủi của ngày Sabat vĩnh cửu. Đó là lý do tại sao được phép chữa lành và sự chữa lành đáp ứng tinh thần của ngày này.

Khi đề cập đến vấn đề chỗ hơn chỗ kém, điều này chính yếu ám chỉ môt cuộc đảo ngược giá trị và địa vị trong thế giới bên kia.

Những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế phải hạ xuống. Người giầu có trở về tay trắng và kẻ nghèo nàn sẽ được giầu sang. Quyền thế trần gian đối với Thiên Chúa chỉ là yếu hèn, và Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài mà ban sức mạnh cho người yếu đuối.

Những người mù loà và bất toại trong tiệc cưới cũng được như vậy. Xét theo bề ngoài họ là những người có vẻ tàn tật và bạc phận, nhưng đối với Thiên Chúa, trong tâm hồn, họ có thể là một người giàu có, một kẻ mạnh mẽ tiến đến Thiên Chúa, một người tinh mắt được cái nhìn của đức tin soi chiếu. Họ đúng là một thực khách được mời dự tiệc của Chúa.

Trái lại, một người lân cận ‘tư sản’, một người bạn (có thể là bạn đãi bôi), một thân nhân, có thể thực sự lại là người xa cách Thiên Chúa; nói theo lối tu đức, có lẽ giao du với họ cũng chẳng được ích lợi gì.

Thứ nữa, người ta có thể tự hỏi xem việc ám chỉ về đời sau là thời mà ‘khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn’ đã không che dấu tâm trạng ích kỷ, đạo đức hơn lòng vô vị lời chân thành sao? Phần thưởng hứa ban là gì nếu không phải là việc chiếm hữu Thiên Chúa.

Con người có thể và phải ao ước đến gần Ngài bao nhiêu có thể, kết hợp với Ngài một cách sâu xa để được nhận biết Ngài một cách sâu thẳm nhất trong cuộc sống mai hậu.

Con người được sáng tạo vì Thiên Chúa và sống bởi Thiên Chúa, khát khao Ngài mãnh liệt. Vì niềm vui và hạnh phúc là hiện thân của Thiên Chúa mà tâm tư con người luôn khát khao những thứ này.

Đức Kitô đề cập đến điều đó. Chính Thiên Chúa ấn định những ước vọng đó trong bản tính nhân loại. Con của Ngài còn củng cố và khai triển thêm. Vinh danh Thiên Chúa và hạnh phúc của thụ tạo đều hợp với nhau và biến nên một trong thế giới bên kia.

Cho nên, ước vọng đó của con người thật chính đáng. Trong bàn tiệc vĩnh cửu, niềm vui sẽ ngự trị mà không bị hạn hẹp. Do đó, con người có thể và phải mong ước được tham dự bàn tiệc đó và ở đây sẽ nhận được phần thưởng mà Đức Kitô luôn nhắc nhở và mới thực là mục tiêu chi phối hành vi cuả chúng ta.

 

70. Chú giải của Fiches Dominicales

ĐỨC GIÊSU ĐÃ ĐẢO LỘN TẤT CẢ

VÀI ĐIM CHÚ GII

1. T chuyn ăn ung

“Trên đường lên Giêrusalem” (l3,22), nơi Người sẽ bị “hạ xuống chỗ thấp nhất”, trên thập giá, “giữa hai tên gian phi” (23,33), Đức Giêsu được mời dùng bữa, “vào một ngày Sabát”, “nơi nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu”. Một bữa ăn như thế cũng thường là dịp nổ ra những tranh luận tôn giáo.

Chuyện mời Chúa dùng bữa này chức không phải là không có dụng ý, bởi Luca ghi nhận: “họ cố ý dò xét Người” (14,1).

Vừa vào bàn, Đức Giêsu đã gặp ngay “một người mắc bệnh phù thũng”, và Người không ngần ngại chữa lành nạn nhân, dù hôm đó là “ngày Sabát”, vậy mà các nhà thông luật và những người Pharisêu có mặt “không thể đáp lại lời nào” (14,6).

2. Mi quy tc v ngôi th b đảo ln:

Đến lúc vào bàn ăn, Người lại bỡ ngỡ trước cảnh những khách mời cứ lo tranh dành nhau “cỗ nhất mà ngồi”. Thực ra phải nói là gối nhất mà nằm, bởi vào thời đó, trong các bữa tiệc, người ta nằm mà ăn trên những bộ ghế dài. Nhưng chỗ nhất đó, theo lời giải thích của A. Stoger, là những chỗ gần chủ nhà nhất. Các gối nằm được xếp theo ba nhóm. Ví trí danh dự ở vào phía trước hay ở chính giữa. Vào thời Đức Giêsu, ngôi thứ trong bàn tiệc được ấn định tuỳ tầm cỡ danh giá của thực khách, tức là phụ thuộc vào chức vị và tài sản của người đó.

Sử dụng lời nói dạy khôn ở đời, nói mà không gây tổn thương hay xúc phạm đến ai, Đức Giêsu ngỏ lời trước hết với những khách được mời: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất”.

Chúng ta đừng vội lầm! Ở đây Đức Giêsu không có ý dạy một bài học về nghệ thuật ứng xử ở đời để nhằm thành đạt nhờ những thủ đoạn khéo léo. Đàng khác, để loại bỏ mọi hàm hồ, Luca xác định rõ Đức Giêsu diễn tả bằng “dụ ngôn” (c.7) và Người đề cập đến “những bữa tiệc cưới “ (c.8), một đề tài lớn trong truyền thống Kinh Thánh, gợi lên bữa tiệc cưới giữa Thiên Chúa và loài người. Thực thế, dựa vào một câu trong sách Châm Ngôn (“Chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: “Xin mời ông lên trên!” còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng”) (Cn 25,6), Người cho thấy việc hình thành Nước Thiên Chúa gây nên một sự đảo lộn như thế nào trong thái độ sống của con người – ngược lại với thói thích ăn trên ngồi trước trong xã hội Do Thái: “Trái lại, khi anh được mời, thì hãy ngồi vào chỗi cuối...”

Trong suốt lịch sử dân Do Thái, sự thực cho thấy Thiên Chúa luôn đứng về phía những thành phần bé nhỏ và khiêm tốn: “Người thấp hèn sẽ được Chúa nâng lên, kẻ quyền thế sẽ bị Người hạ xuống”, ngôn sứ Êdêkien xưa đã loan báo như thế. Hôm nay, đến lượt Đức Giêsu cũng công bố: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Và con đường mà chính Người đường bước đi để tiến về Giêrusalem không gsì khác hơn là con đường của sự khiêm nhường và hạ mình.

N. Quesson đưa ra nhận xét: “Chúng ta thấy, đây chẳng đơn giản chỉ là những lời dạy về phép lịch sự ở bàn ăn. Chúng ta đang được mời gọi đến với Nước Thiên Chúa bằng cách noi gương Chúa là Đấng âm thầm, ẩn mình; khiêm tốn. Người đã tự nguyện làm kẻ cuối hết, làm đầy tớ phục vụ mọi người! Sự cao cả của Chúa là ở chỗ đó”

3. Thành phn được mi cũng b xáo trn.

Sau khi ngỏ lời với những khách được mời, giờ đây, câu chuyện của Đức Giêsu quay sang nói với những người đứng ra đãi tiệc. Cũng vẫn với kiểu nói dạy lẽ khôn ngoan: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối...”. Và nhân danh tính chất mới mẻ của Nước Trời, luôn luôn nhằm mời gọi phải có một cách sống ngược lại với lề lối thông thường của loài người chúng ta.

Theo lẽ thường, ai trong chúng ta cũng chỉ mời những người có liên hệ với mình cách nào đó: bà con họ hàng, thân hữu, những người gần gũi do yếu tố tinh thần, tư tưởng, hay một cái gì đó; và những người này đến lượt họ lại phải mời lại chúng ta để “đáp lễ”. Trái lại, theo lời kêu gọi của Đức Giêsu, chúng ta hãy mở rộng bàn tiệc cho tất cả những ai không có khả năng đáp lễ: người nghèo, kẻ bị loại trừ, thành phần bị con như đồ bỏ. Tại sao? Bởi vì đó chính là cách xử sự của chính Thiên Chúa. Người tỏ lòng thương yêu đặc biệt đối với những người phận nhỏ, thấp hèn, và sẵn sàng mời vào bàn tiệc của Người những kẻ “tàn tật, đui mù, què quặt” (Lc 14,15-24). Những người này từng thuộc diện bị Lề Luật khai trừ khỏi sinh hoạt tế tự ở Đền Thờ (2 Sm 5,8 và Lv 21,l8)

Khi thuật lại những lời này của Chúa, Luca có ý nhắc nhở cho mọi anh chị em Kitô hữu xưa cũng như nay – phải cử hành nghi lễ Bẻ Bánh trong Ngày của Chúa với tinh thần nào. Với cung cách của chính Đức tin, Đấng đã muốn sống giữa anh em như “một người phục vụ” (Lc 22,24-27). Bữa Tiệc của Chúa dứt khoát không chấp nhận những tranh dành ngôi thứ, nhưng ngược lại đòi hỏi thái độ phục vụ lẫn nhau vô vị lợi (x. 1Cr 11,17-22. 33-34).

BÀI ĐỌC THÊM

1. Mt lô-gic mi không ai ng.

“Những ai mong sẽ tìm thấy nơi giáo huấn của Đức Giêsu một nền đạo lý bay bổng, sẽ phải thất vọng thôi. Điều Người dạy xem ra rất thường. Nó còn có vẻ như phát xuất từ một sự tính toán hơi vị kỷ: giả bộ ngồi vào chỗ cuối để cho thiên hạ chú ý, mà trong bụng thì nhắm chỗ khác ngon hơn”.

Lời Đức Giêsu dạy, bao giờ cũng vậy. rất tinh tế. Nó mang nhiều tầng lớp ý nghĩa khác nhau. Có thể hiểu như là một lời khuyên về cách xử thế, theo kinh nghiệm khôn ngoan về mối giao tiếp giữa người với người. Có thể hiểu như là lời mời gọi phải tránh thói thổi phồng chính mình, phải tập luôn luôn ăn ở khiêm tốn. Nhưng coi chừng! Ở đây đang nói về những bữa tiệc cho những đầu óc thấm nhuần Kinh Thánh và quen với tính chất ẩn dụ trong ngôn ngữ của Đức Giêsu. Đây cũng chính là bữa tiệc cưới của Thiên Chúa với loài người, “Bữa Tiệc Nước Trời”, biến cố Thiên Chúa can thiệp để đổi mới địa cầu như hằng được mong đợi.

Một cách kín đáo, Đức Giêsu xác nhận lại điều Người đã từng nói: đối với Thiên Chúa, kẻ cuối hết là người trước hết. Bài Magnificat đã hát lên rằng: “ Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Qua toàn bộ cách sống của mình, Người Thợ Mộc làng Nadarét kia đã chứng tỏ một sự quan tâm đặc biệt tới những người bệnh hoạn, tật nguyền, những người “nghèo” nhất trong số những người nghèo.

Theo cái logic đó, Đức Giêsu bồi thêm một câu kết luận bất ngờ và khiến ai nấy kinh ngạc. Người quay sang phía chủ nhà và trách ông ta chỉ biết mời có bạn bè, bà con và láng giềng giàu có. Người ta có thể tưởng tượng những khách được mời sẽ phản ứng thế nào! Không lẽ phải rút lui hết để nhường chỗ cho hạng “tàn tật, què quặt, đui mù?”. Tiệc tùng như thế còn ra cái gì nữa?

Vẫn cứ mãi “hôm nay”, lời của Đức Giêsu tiếp tục giải phóng, mở rộng, mời gọi con người đi tới. Lời đó được gởi đến mỗi người, được gởi đến mọi người. Ai sẽ là người biết mời những kẻ không thể có khả năng đáp lễ lại? Cho đến bao giờ các dân tộc giàu có cứ ăn uống dư thừa trong lúc những dân tộc khác đang chết đói? Biết lúc nào chúng ta mới bắt đầu cử hành ‘tiệc cưới’, ‘bữa tiệc của Thiên Chúa’, ‘bữa tiệc của mọi người’? và ‘sống ngay từ trần thế này cuộc phục sinh của các kẻ lành?’.

2. Thiên Chúa t t ra trong s n mình

(“Missel Emmaus des dimanches”, trg l091).

“Không gì ngăn cách con người khỏi Thiên Chúa cho bằng sự kiêu căng tự phụ, khi con người chỉ biết tìm kiếm vinh dự cho chính mình. Thói kiêu căng chỉ giam hãm con người trong những giới hạn của riêng mình, đồng thời chỉ mưu vùi dập người khác xuống. Nó ngược hẳn với cung cách của Thiên Chúa: Người biểu dương vinh quang của Người, tức là chính tình yêu, bằng cách tự xoá mình đi. Chính trong sự ẩn mình của Thiên Chúa, chúng ta lại càng khám phá ra được vẻ cao cả đích thực của Người. Đó là điều Đức Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy khi Người hạ mình làm đầy tớ phục vụ loài người, khi Người vui lòng chịu đóng đinh vào thập giá. Đó cũng là điều Người mời gọi chúng ta nhận ra qua Bữa Tiệc Thánh Thể. Tuy nhiên, khiêm nhường thật không phải là chuyện dễ. Đôi khi chúng ta làm ta vẻ khiêm tốn chẳng qua để được thêm vinh quang danh dự mà thôi. Chỉ mình Thiên Chúa có thể giải gỡ chúng ta khỏi vòng vây của thói kiêu căng tự mãn”.

 

71. Suy niệm của William Barclay

Luca không tả về Chúa Giêsu như một nhà khổ tu nghiêm nhặt mà như một người với những tình cảm nhân bản, có khuynh hướng đoàn thể. Ngài sống chung với các người khác một cách tự nhiên, thờ phượng với họ trong nhà hội, ăn uống với họ trong gia đình. Không có một cảnh thân mật nào trong đời sống của Chúa được thánh ký phác họa tỷ mỷ bằng một bữa tiệc ngày sa bát tại nhà một người biệt phái. Luca thấy Chúa tiến vào nhà cùng với các khách dự tiệc, để ý thấy những giai cấp xã hội của họ, và ngài dẫn đầu trong một cuộc đàm luận. Nhưng Ngài không bao giờ quên sứ mạng của Ngài, Ngài nắm lấy cơ hội để nghiêm khắc khác thường, bởi vì Ngài đang ở giữa những kẻ bên ngoài thì tỏ vẻ lịch sự, nhưng trong lòng thì thù ghét Ngài. Nhưng Ngài đã tỏ cho mọi người ân huệ không suy giảm của Ngài về lòng Ngài ước muốn cho họ nhận được phúc tốt nhất.

Khi thấy khách được mời cứ tìm những chỗ danh dự, Ngài quở trách tính ham danh và dạy một bài học về lòng khiêm nhường. Khi Chúa Giêsu khuyên khách dự tiệc: “Hãy ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải nói: mời ông lên trên cho” thì không phải Ngài chỉ dạy họ giữ phong thái tốt đẹp hay sự khôn ngoan trần thế, cũng không phải khuyên nên ngụy trang sự kiêu hãnh bằng vẻ khiêm nhường. Ngài đã đưa ra luật cao cả rằng trong những kẻ theo Ngài, sự hạ mình và cảm biết mình vô giá trị trước mặt Chúa là điều kiện cốt yếu để được vinh dự: vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.

Ngài cũng lợi dụng bữa tiệc để ban bố một thông điệp về lòng bác ái. Trong giọng nói đượm vẻ hài hước, Ngài bảo chủ nhà khi mời khách thì đừng chỉ nhắm vào người giàu, kẻo rồi mai họ mời lại, nhưng phải nhắm mời cả những người nghèo là những người không có điều kiện mời lại. Lại một lần nữa, không phải Chúa chỉ dạy về những luật theo truyền thống xã hội, nhưng minh định cái nguyên tắc thuộc linh cao cả, cái động lực vô vị lợi cho các hành vi thiện đức: đừng bao giờ ban ơn để rồi được nhận lại. Ngài không bảo đừng bao giờ mời người giàu hay chỉ mời người nghèo, nhưng đừng phục vụ với hậu ý kiếm lợi. Nếu chỉ phục vụ với chủ ý mưu lợi cho tha nhân mà không nghĩ tới mình được trả trong đời này hay đời sau, thì hành vi đó lại chắc chắn được thưởng trong ngày Chúa quang lâm vinh hiển.

Qua đoạn Kinh Thánh này Chúa dạy ta về khiêm nhường và bác ái.

Chúa Giêsu đã chọn một hình ảnh quen thuộc để diễn tả chân lý vĩnh cửu. Nếu một người khách tầm thường đến sớm và chiếm chỗ ngồi cao nhất, sau đó có một người khách trọng hơn đến, và người chủ tiệc đề nghị người đã chiếm ghế nhất kia lùi xuống sau thì thật mất mặt cho người ấy. Nhưng nếu có người tình nguyện ngồi ghế cuối cùng, sau đó được mời lên ghế cao trọng hơn, thì thái độ khiêm tốn ấy lại đem đến vinh dự.

Khiêm nhường vốn là một trọng những đặc tính tất yếu của các vĩ nhân. Khi Thomas Hardy được nổi tiếng đến nỗi tờ báo nào cũng sẵn sàng trả tiền nhuận bút hậu hĩnh cho ông, thế mà khi gởi một bài thơ cho một tờ báo nào đó, ông vẫn kèm theo phong bì dán tem và địa chỉ sẵn để tiện việc trả lại bản thảo cho ông nếu bài bị loại. Dầu đã là vĩ nhân, ông vẫn khiêm nhường để nghĩ rằng bài của mình có thể bị loại. Trong ngày đăng quang của Đức Piô X, lúc kiệu của Đức Tân Giáo Hoàng vừa tiến vào đền thờ thánh Phêrô, toàn dân nhiệt liệt chào rằng “Viva Papa”. Nét mặt Đức Thánh Cha sụ lại, mắt Ngài ngấn lệ: “Đừng hoan hô người đầy tớ trong nhà ông chủ”. Ngài nghĩ rằng không bao giờ sự hoan hô đó lại có thể dành cho Ngài. Chỉ có kẻ tiểu nhân mới tự tôn tự đại. Nhưng làm sao chúng ta có thể giữ được sự khiêm tốn:

1. Chúng ta có th gi được mình khiêm nhường bng s nhn biết thc tế. Dầu chúng ta biết nhiều đến đâu cũng vẫn còn là ít nếu so sánh với toàn bộ tri thức. Dầu chúng ta thành công đến đâu cũng vẫn còn rất ít. Dầu chúng ta tưởng mình quan trọng đến đâu thì cũng cần nhớ rằng khi chúng ta chết, hoặc khi chúng ta hưu hạ, cuộc đời và công việc cứ tiến hành như trước kia.

2. Chúng ta có th gi đức khiêm nhường bng cách so sánh chính mình vi nhng người toàn vn. Khi chúng ta đã đi đây đó, đã được mắt thấy tai nghe những nhà chuyên môn, những nhà thông thái, ta sẽ nhận mình kém cỏi biết bao. “Ở nhà nhất mẹ nhì con. Ra đường nhiều kẻ còn dòn hơn mẹ con ta”. Nhiều người không có ý được bước lên sân khấu nữa sau khi được nghe một nhạc sĩ đại tài trình diễn. Nhiều diễn giả phải tự hạ mình đến chỗ hầu như tuyệt vọng sau khi nghe lời giảng của một đầy tớ thánh của Chúa.

Và nếu chúng ta đem đặt mình bên cạnh đời sống của Chúa Giêsu vô cùng thánh thiện, và nếu chúng ta ý thức được sự bất xứng của mình trước ánh sáng rực rỡ chói lọi bởi đời sống tinh tuyền trọn vẹn của Ngài, thì tính kiêu ngạo trong chúng ta sẽ phải chết tức thì và lòng tự mãn cũng héo tàn ngay.

Ngài dạy chúng ta về lòng bác ái. Đối chiếu với lời Chúa, chúng ta phải xét lại các lý do ẩn đằng sau tất cả những gì có liên quan đến lòng bác ái của chúng ta.

1. Người ta có thể ban cho vì bổn phận. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa và cho loài người có thể như cách chúng ta trả thuế lợi tức, như phải thanh toán một bổn phận không thể trốn tránh được, lòng không vui chút nào.

2. Ngừơi ta có thể cho hoàn toàn vì động cơ tư lợi. Dầu có ý thức hay không, người đó có thể coi của mình cho như một thứ vốn đầu tư. Họ kể mỗi món tiền cho đi ghi thêm một con số vào trương mục của mình trong ngân hàng của Chúa. Cho cách này không phải do lòng rộng rãi, mà chỉ là sự ích kỷ có tính toán.

3. Có người cho để cảm thấy mình là người trên. Cho như thế có thể là một sự độc ác. Việc đó làm tổn thương người nhận hơn là từ chối thẳng thừng. Làm như vậy, người ban cho đứng trên bậc cao của mình để nhìn xuống người thọ nhận. Người đó có thể vừa cho vừa thuyết giáo trên đầu kẻ nhận một bài giảng vắn tắt và đầy tự mãn. Thà không cho gì hết còn tốt hơn là chỉ cho để thỏa mãn tính khoe khoang và tính thích cậy quyền. Các rabi Do thái có câu nói rằng cách cho tốt nhất là khi kẻ ban không biết mình cho ai và kẻ nhận cũng không biết mình nhận từ đâu.

4. Có người cho vì không thể không làm thế. Đó là cách cho duy nhất thành luật. Luật của Nước Trời là kẻ nào ban cho để được thưởng công, kẻ đó sẽ được phần thưởng, nhưng kẻ nào ban cho mà không nghĩ đến phần thưởng thì phần thưởng của kẻ ấy sẽ chắc chắn. Chỉ có một sự ban cho đích thực là cho vì sức mạnh của tình yêu tràn ra không thể kìm chế. Thiên Chúa ban cho chỉ vì Ngài yêu thương thế gian và chúng ta cũng phải làm như vậy.

 

72. Hãy khiêm nhường – Jos.Vinc. Ngọc Biển

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối giáo huấn của Đức Giêsu tuần trước. Nếu tuần trước, Đức Giêsu dạy hãy qua “cửa hẹp” mà vào, tức là phải vứt bỏ lại những thứ không cần thiết, phải chiến đấu, sám hối, và uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng, thì tuần này, Đức Giêsu dạy cho những người cùng dự tiệc với Ngài một bài học về đức khiêm nhường: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc 14,11).

Theo truyền thống của người Dothái, khi đến dự tiệc, mỗi vị khách thường được mời kể một câu chuyện để phục vụ những người cùng bàn với mục đích giúp cho khách ăn ngon miệng. Vì thế, họ thường kể cho nhau nghe những chuyện vui, bông đùa…, đến lượt Đức Giêsu, Ngài không kể chuyện tiếu lâm hay một vài mẩu chuyện vui như những người đồng bàn đã làm, nhưng Ngài quan sát và thấy người ta đi dự tiệc lại cứ thích ngồi chỗ nhất, chỗ danh dự, nên Đức Giêsu đã tập trú vào đề tài khiêm tốn khi được mời đi dự tiệc (x. Lc 12,7-11). Đây là một đề tài khiến cho những người dự tiệc hôm ấy nhức óc vì họ thường “đánh lận con đen” giả bộ khiêm nhường hoặc đòi được trọng vọng nơi đám đông.

Khởi đi từ sự quan sát, Đức Giêsu cất tiếng nói: "Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này'. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết”. Câu nói này của Đức Giêsu đã soáy sâu vào tận trái tim của những người dự tiệc hôm ấy, và Ngài đã lật tẩy mặt nạ giả bộ giả hình của họ, khiến họ cảm thấy khó chịu khi nghe Đức Giêsu nói.

Tiếp theo, Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu chuẩn cho tất cả mọi người khi được mời đi dự tiệc: “Khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên'. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc”. Đây là quy luật tất yếu trong cuộc sống: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.

“Nâng lên” và “hạ xuống” là hai động từ trái ngược nhau. “Nâng lên” chính là muốn khẳng định mình; tự coi mình là nhất. Đây là hành vi của những kẻ kiêu ngạo, mà kiêu ngạo là đầu mối sinh ra những tội khác như: “Hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh” (x. GLHTCG. số 1866).

Những người kiêu ngạo thường không biết mình, không biết những giới hạn của mình, họ thường coi mình là “cái rốn vũ trụ”, coi mình là “number one”, là “đệ nhất đế vương…”.

Còn “hạ xuống” là thái độ của người khiêm nhường. Khiêm nhường là khiêm tốn nhìn nhận mình còn thiếu, còn bất toàn để vươn lên, còn yếu đuối để sám hối. Khiêm nhường còn là đón nhận sự thật và lấy sự thật làm căn gốc. Chấp nhận “tôi” là “tôi” với đầy đủ những mặt mạnh và mặt yếu của mình.

Người khiêm nhường thật là người luôn sống trong tinh thần tự hủy, coi mình không là gì cả. Khi bị xúc phạm, họ vẫn cảm thấy thanh thản, khi được khen, họ luôn tạ ơn Chúa và không có thái độ vênh vang tự đắc. Họ coi mọi sự mình có là do Chúa ban cho nên không hề có thái độ khinh khi những người thấp kém hơn mình.

Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy cho mỗi chúng ta một bài học căn bản trong cuộc sống chính là sự khiêm nhường. Nếu không khiêm nhường, ta không thể gặp được Chúa. Môsê muốn gặp Chúa, ông phải cởi dép ra, phải trở về với sự trần trụi của mình khi đến trước nhan Chúa; Giakêu muốn được Chúa vào nhà thì ông phải tụt xuống khỏi cây sung; Phêrô và Phaolô muốn trở thành bạn hữu của Chúa và trở thành những kẻ “chung phần” với Thầy thì các ông phải khiêm tốn và vứt bỏ những thanh gươm kiêu ngạo, tự phụ và hiếu thắng của mình.

Thật vậy, trong đời sống gia đình, nếu vợ chồng, con cái không có thái độ khiêm nhường, chúng ta không thể đón nhận được sự khác biệt của nhau, không biết lắng nghe nhau, không thông cảm và tôn trọng nhau. Như thế, mỗi người sẽ là một hòn đảo, và một con chim én không thể làm nên một mùa xuân.

Trong cuộc họp, ai cũng thi nhau nói và ai cũng bảo vệ lập trường của mình, cho dù biết đó là điều sai, thì cuộc họp ấy thất bại và gây thêm chia rẽ.

Trên giảng đường, và trong trường đời, nếu ta bảo thủ và cho rằng chúng ta biết hết mọi sự và không cần lắng nghe, học hỏi…ấy là lúc ta đang tụt hậu mà không biết, ta đang trong tình trạng “ếch ngồi đáy giếng” mà chẳng hay!

Thật vậy, nhìn ra xã hội hôm nay, chúng ta thấy nhiều người luôn có khuynh hướng “chơi trội”. Nếu người khác có nhà một tầng, ta phải hai tầng; người khác có xe, ta phải có xe tốt hơn; chức tước và học vị cũng là những điều con người thời nay thường khẳng định…thái độ đó cho thấy ta không chịu thua kém người khác. Nhưng có ít ai thấy rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ trở về “sắc sắc, không không” trước mặt Chúa?

Tóm lại, khiêm nhường chính là cái gốc, là nền móng của chúng ta. Có được điều đó, ta sẽ xây dựng được sự chân thành; tình huynh đệ; sự hiệp nhất; lòng bao dung và sự tôn trọng. Hơn nữa, có được đức khiêm nhường là ta đang trở nên giống Chúa, đang được ở trong mối tương quan nghĩa thiết với Ngài.

Mong thay hình ảnh kiêu ngạo của Adong, Eva; những người xây tháp Baben và những khách được mời dự tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay là bài học cho chúng ta nếu chúng ta đang là những người tự phụ, kiêu căng và đang đi tìm những danh vọng ảo tưởng ở đời này…

Ly Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết hc cùng Chúa vì Chúa hin lành và khiêm nhường trong lòng. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ