Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 59
Tổng truy cập: 1380172
MÙ LÒA
Mù lòa
Cách đây không lâu khi lớp chúng tôi đến học hỏi thực tập mục vụ tại một họ đao thuộc thành phố Cần Thơ; sau khi nghe cha sở chia sẻ về công việc mục vụ: cha lo lắng cho giáo dân từ tinh thần cho đến vật chất, cha không chỉ chú tâm xây dựng nhà thờ vật chất , mà cha còn lo xây dựng nhà thờ tinh thần trong lòng giáo dân. Nhưng điều làm tôi đánh động nhất chính là cách cha đối xử với người nghèo, người bệnh tật cô đơn… cha luôn quan tâm đến họ cách đặc biệt. Cha thật là người mục tử cho chúng tôi học hỏi và noi theo. Thì hôm nay bài Tin Mừng lại giới thiệu cho tôi một mẩu gương phục vụ tuyệt hảo hơn rất nhiều. Đó là Đức Giêsu người đã động lòng trước sự kêu xin tha thiết của người mù bất hạnh ngồi ăn xin bên vệ đường.
Anh mù hôm nay không hề thấy Đức Giêsu, nhưng anh đã nghe biết nhiều về người, Khi Đức Giêsu đi ngang thì đúng là cơ hội “ngàn năm một thuở”. Lập tức anh ta đã kêu to lên để được Đức Giêsu chú ý. Chắc những người đi theo Đức Giêsu lúc đó rất khó chịu, vì họ đang nghe những lời giáo huấn của Đức Giêsu, mà anh mù này lại hét to hết sức có thể, thì đúng là một sự xúc phạm không thể chịu được. Cho nên những người đi trước “mắng bảo anh ta nín đi”. Nhưng lúc này không có gì có thể ngăn cản anh ta, anh quyết phải gặp cho được Đức Giêsu con người mà bấy lâu anh hằng mong đợi. Tuy anh không thể thấy nhưng trong tâm trí anh nhìn thấy Đức Giêsu lúc này không phải là một sự mơ hồ, lờ mờ, hoặc do cảm xúc. Nhưng đây là một ước muốn thiết tha. Và cũng chính ước muốn này đã khiến cho mọi sự được thành.
Chính lòng tha thiết mà anh đã được Chúa Giêsu “dừng lại”. Vì Ngài không phải là mục tử của kẻ kiêu căng ngạo mạn, mà Ngài là vị mục tử của những người bất hạnh nghèo nàn, là vị cứu tinh nhân hậu, Đặc biệt ứu ái với đám dân kém may mắn. Ngài nhìn đến con người mù lòa. Ngài đã để ý bên vệ đường và thấy tình trạng thống khổ, không ai lưu tâm, không ai lắng nghe lời của một người ăn xin, tệ hơn nữa còn muốn cho anh ta im đi. Nếu Ngài không là người quan tâm đến họ, không tinh ý thì khó có thể nghe thấy được. Việc anh mù ao ước xin chữa lành, còn đáng giá hơn ngàn lần sự cuồng nhiệt của dân chúng. Hay giấc mơ vinh quang và hy vọng tiến thân, tranh giành quyền lực địa vị không chính đáng của các môn đệ….Hình ảnh anh mù lúc này la một tấm lòng tuyệt diệu trong ánh mắt của Đức Giêsu. Ngài đả phá việc cổ vũ cuồng nhiệt bên ngoài mà trong lòng không chút gì khao khát Thên Chúa, Ngài thông cảm giữa bậc cao sang và kẻ hèn hạ, giữa người thông sáng với kẻ mù lòa, giữa người thi ân và kẻ lãnh nhận.
Nếu xét về mù lòa tâm hồn thì không những chỉ có trong đám đông theo Chúa Giêsu hôm nay, nhưng có rất nhiều người kể cả các tông đồ. Khi chữa lành người mù Đức Giêsu nói: “lòng tin của anh đã chữa anh”. Ngài muốn gửi đến một thông điệp cho tất cả chúng ta, cũng như cho các tông đồ là phải có niềm tin thì mới được lành mạnh. Nhờ tin mà người hành khất được thấy ánh sáng, cơ hội này cũng là dịp cho các Tông Đồ được mở trí soi lòng và xứng đáng được tháp tùng với Ngài lên Giêrusalem. Người mù đã được sáng, lòng tin là ánh sáng mới, ánh sáng đó đã giúp phát hiện ra những thực tại bị che khuất, giúp khám phá những điều chưa ai biết. Ánh sáng này giúp khám phá những điều vượt khỏi giác quan và lý trí con người. Ai không nhìn thấy Ánh Sáng này mới chính người mù thật sự.
Điều làm cho Đức Giêsu đau lòng nhất chính là những người đang mù mà lại không biết mình mù, cứ ảo tưởng cho mình là sáng, là tốt đẹp…không cần đến ai chỉ đường cả. Thậm chí là Thiên Chúa họ cũng chẳng màng. Chính vì thế đòi buộc người tín hữu phải mau mắn thi hành chức vụ tiên tri mà mình đã lãnh nhận, có bổn phận dìu dắt chỉ đường cho họ biết tìm đến ánh sáng. Nhưng chúng ta phải làm thế nào giữa một xã hội luốn đòi hỏi những chứng cứ cụ thể. Vì thể, nếu chỉ rao giảng bằng lời nói thì đó chỉ là thứ lý thuyết suôn vô bổ. Lời rao giảng đó phải được cụ thể hóa bằng hành động, bằng cuộc sống vị tha, bác ái, mới may ra giúp họ nhận ra mình đang bị mù mà nói với Chúa: “Lạy Ngài, xin cho tôi được xem thấy”
Cuối cùng tôi xin mươn lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô làm lời nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con biết đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cây vào nơi thất vọng, để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến chốn u sầu…”. Amen.
14. Thiên Chúa, Đấng chuyên gia chữa lành
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)
Một thanh niên lập gia đình và có hai con. Vì là con một, nên ngay từ nhỏ, được cha mẹ nuông chiều muốn gì có đó. Trong một tai nạn, kính xe hơi của anh vỡ bể tan nát văng vào cả hai mắt anh, và dù gia đình tìm mọi cách chữa chạy, cuối cùng cũng phải chấp nhận cho bác sĩ khoét hai con mắt của anh. Lúc đó tất cả bầu trời như muốn sụp đổ xuống cuộc đời anh, anh tỏ ra tuyệt vọng và không còn muốn sống nữa. Thế nhưng, ngày kia có một nữ tu trước đây khi còn ở ngoài, học cùng lớp với anh đến thăm, động viên và tỏ lòng cảm thương với nỗi khốn khổ của anh; đồng thời trước khi ra về, chị nữ tu này đã tặng anh một đĩa audio cuốn sách Ý Nghĩa Sự Đau Khổ của Cha Tuyên dòng Chúa Cứu Thế, và cáo biệt ra về. Trong lúc buồn sầu chán sống, tự nhiên nhớ đến đĩa CD người bạn mới cho, liền nói bà xã cho vào máy mở nghe cho đỡ buồn thôi, nhưng không ngờ càng nghe càng thấy thấm thía thích nghe và tìm được niềm vui trở lại dần dần, nhất là anh đã tìm được ý nghĩa của cuộc sống nhân sinh của con cái Chúa. Có lần anh tâm sự với tôi một cách rất tích cực rằng: Thưa Cha, nhờ bị mù hai mắt thể lý mà mắt tâm hồn con được mở ra, sáng lên và nhận ra đời thật vui tươi như Cha đang thấy nơi con đây. Lạ không, thưa bạn!
Vâng đúng thế, tôi với bạn mỗi người chúng ta đều mang những tật nguyền và bệnh hoạn cả về tâm linh lẫn thể xác, và rất cần được chữa lành để sống khỏe, sống bình an hạnh phúc. Nhưng rất may mắn, loài người chúng ta có một Thiên Chúa là Cha, và Ngài không bao giờ mệt mỏi chữa lành những tật nguyền bệnh hoạn của con cái loài người hầu đem lại hạnh phúc đời này và đời sau trên nơi vĩnh phúc cho chúng ta.
Bài Tin mừng hôm nay soi dẫn cho biết mọi người chúng ta đều mắc những bệnh mù nguy hiểm, tuy mức độ khác nhau, nhưng không ai có thể tự hào là tôi không bị mù chút nào. Và tôi có thể tóm lại các bệnh mù thành ba loại như sau:
– Mù trong việc nhận biết Thiên Chúa là Cha Toàn Năng Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình…
– Mù trong việc nhận biết anh chị em của mình trên toàn thế giới.
– Mù trong việc nhận biết chính thân phận mình chỉ là hư vô bọt bèo, tất cả những gì mình có, mình là, mình làm được đều là do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho.
Vậy thì, Phải chăng mỗi lần chúng ta làm tôi phụng thờ Chúa,mỗi lần chúng ta tham dự cử hành phụng vụ,mỗi lần chúng ta cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích, là mỗi lần chúng ta bớt bị mù hơn về Thiên Chúa là Cha hay yêu thương chúng ta?
Phải chăng mỗi lần chúng ta yêu thương,tha thứ, cảm thông và đối xử tử tế với một trong những người bé mọn của Thiên Chúa, là mỗi lần mắt tâm hồn chúng ta trở nên sáng hơn trong việc nhận ra anh chị em con cùng Cha, cùng Mẹ trên trời với mình?
Và phải chăng, mỗi lần chúng ta hạ mình khiêm tốn, không dám cho mình hơn ai,không dám nhận sức riêng mình có gì, vì tất cả đều là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho…,là mỗi lần chúng ta bớt bị mù,bớt bị hoa mắt hơn bởi những ảo tưởng muốn cho mình là cái rốn của vũ trụ này?
Thưa Bạn,
Như vậy, có lẽ bạn và tôi cũng cần phải quỳ xuống mà cầu xin: Lậy Chúa xin cho chúng con được thấy, thấy Chúa, thấy anh chị em con,thấy chính mình con…để con dám can đảm sống như chúng con đã thấy.
Đôi khi lời cầu nguyện của chúng ta có thể bị thử thách, bị cám dỗ,làm cho lời cầu nguyện có nguy cơ bỏ ngỏ dở dang, đứt đoạn vì thấy mãi mà chưa được thẩm nhận, làm chúng ta chán ngán muốn bỏ không tin, không cầu nguyện nữa, thì lúc đó, chính Chúa lại ra tay đích thân an ủi động viên khích lệ ta tiếp tục đi đến cùng của lời cầu nguyện với lòng tin tưởng hơn, như Chúa đã động viên người mù cứ vững tin khi thấy người ta ngăn cản không cho anh ta kêu gào to hơn lên tới Chúa.
Nào bạn và tôi cứ tiếp tục gào lên, cứ tiếp tục gõ chiếc thùng hành khất của chúng ta cho đến khi nào Chúa đổ đầy ân sủng của Ngài vào, cho đến khi chúng ta nghe thấy Ngài nói với chúng ta lời đầy an ủi: “Lòng Tin của con đã cứu chữa con”, bạn nhé! Chúc bạn thành công!
15. Đôi mắt Đức Tin
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương.
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời,
Để nhìn đời và để làm duyên.
Mẹ cho em đôi mắt màu đen,
Để thương để nhớ, để ghen để hờn.
Đôi mắt em là cửa ngõ tâm hồn,
Là bài thơ hay nhất,
Là lời ca không dứt,
Là tuyệt tác của thiên nhiên.
Đôi mắt là cửa ngõ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.
Thi sĩ Lưu Trọng Lư đã viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:
Mắt em là một dòng sông,
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.
Cô gái nhớ nhung chàng trai phố núi dù chỉ mới gặp gỡ qua “đôi mắt”.
Tôi đã gặp đôi mắt người phố núi,
Chiều cao nguyên trong khói toả sương mù,
Chẳng hề quen sao đôi mắt hẹn hò?
Trong giây phút làm hồn tôi rung cảm.
Tôi đã yêu đám mây chiều lơ đãng,
Những đường mòn,những đồi dốc không tên,
Đôi mắt anh làm tôi thấy yêu thêm,
Thành phố núi những buổi chiều hiu hắt.
Sao tôi chỉ yêu người qua đôi mắt?
Đôi mắt buồn như phố núi hoàng hôn,
Anh có là thi sĩ lúc chiều buông?
Đang mơ mộng tìm vần thơ viết dở.
Đôi mắt.Trời ơi, kiêu kỳ hoang dã!
Anh nhìn tôi rất lạ rất thân tình,
Anh đã làm chảy máu trái tim xinh,
Đêm phố núi về tương tư đôi mắt.
Tôi đến đây, miền cao nhiều gió lạnh,
Chỗ thân quen ở lại một đôi ngày,
Mai mốt về tôi biết nhớ gì đây?
Hay chỉ nhớ một chàng trai phố núi?
Tôi sẽ về, chắc lòng còn tiếc nuối,
Tình cảm này tôi biết gởi về đâu?
Khi tôi và anh chưa biết tên nhau,
Hy vọng gì sau một lần gặp gỡ!
Tôi sẽ về, chắc không còn gì nữa!
Anh cũng xa vời như gió như mây,
Tình yêu của tôi lãng mạn phút giây,
Nhưng tôi sẽ thương nhớ hoài đôi mắt. (Thanh Dương)
Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp.
Thế nhưng, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu của sách Sách Sáng thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng” (St 3, 4–7).
Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:
– Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.
– E-và nhìn trái táo và thấy sướng mắt.
– Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.
Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: “mắt cả hai người đã mở ra”. Không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. “Mắt hai người đã mở ra”. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. A-đam – E-và đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế. (x.Nước mắt và hạnh phúc trg 69–71, Lm Nguyễn Tầm Thường).
Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ.
Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian.
“Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thưở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian. Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin.
Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin.
Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Si-lô-ác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pha-ri-siêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Si-lô-ác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.
Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?” thì anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin.” Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.
Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin.
Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài.
Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Ngài mở mắt cho Gia-kêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9, 1-10). Ngài mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7, 36-50). Ngài mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23, 32-43)…
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô. Ðôi mắt đức tin giúp chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa và yêu mọi người, mọi sự trong Chúa và yêu như Chúa đã yêu.Nhiều Thánh vịnh giúp chúng ta tập nhìn cuộc đời và con người bằng đôi mắt tin yêu, như Thánh vịnh 104, các Thánh vịnh Job 38-39.
Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngõ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt thì đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Bar-ti-mê tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Chúa Giêsu là Ðấng Mes-si-a “Con Vua Ðavít”. Anh kêu xin: “Rabbuni, xin cho tôi được thấy”, và Chúa Giêsu trả lời: “Hãy đi! Niềm tin của con đã cứu chữa con”. Bar-ti-mê được thấy và anh theo Chúa Giêsu trên con đường của Người ; khi thấy được, anh cùng hành hương lên Giê-ru-sa-lem (x. Đức Giêsu thành Nazareth phần II, trg 13). Bar-ti-mê thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy Chúa là con vua Đa-vít, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.
Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên.
Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.
Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân con
với những yếu đuối và khuyết điểm,
nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa;
từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng,
để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.
16. Xin cho con được thấy – Hiếu Nguyễn
CHUYỆN MINH HỌA LỜI CHÚA
- Sáng mắt đức tin
Một nhóm sinh viên tham quan mỏ than Scottish ở Anh quốc. Mỗi người được phát cho chiếc nón bảo hộ của thợ mỏ, phía trước nón có gắn bóng đèn nối liền với bình điện đeo ngang lưng. Người hướng dẫn đưa họ vào hầm than tối mịt, nên bảo họ bật đèn lên. Khi đến khu khai thác, người hướng dẫn lại bảo họ tắt đèn hết. Lúc đó họ không thấy gì cả. Và ông ta nói cho họ biết, “Đây là tình trạng bi thảm của những người mù.” Thế là các sinh viên đã hiểu ra bị mù thì khốn khổ vì không thấy được gì cả, như họ đang ở trong cảnh tối tăm này.
- Thế giới mù lòa
Ông Hosesaramago là văn sĩ người Bồ đào nha đã được giải thưởng văn chương năm 1998. Một trong các tác phẩm nổi tiếng của ông là cuốn “Mù lòa,” diễn tả một thành phố bất thần bị dịch mù lòa như sau:
Người đầu tiên bị mù là một người đàn ông lái xe và chờ đèn giao thông. Một người hào hiệp dẫn ông về nhà rồi chôm luôn chiếc xe của ông. Và anh này cũng mù luôn. Bác sĩ nhãn khoa khám mắt cho anh xong cũng bị mù. Và nạn dịch mù lan tràn khắp thành phố! Người ta phải tập trung những người mù vào bệnh viện. Và cuộc sống của những người mù này chẳng khác nào địa ngục trần gian. Họ căm thù mù lòa, họ căm thù lẫn nhau.
Trong đám người mù lòa có một người nữ giả mù để sống với chồng là bác sĩ nhãn khoa. Bà ta dẫn đám người mù ra khỏi bệnh viện, nhưng cuộc sống của họ ngày càng đau khổ. Họ lạc lõng khắp nơi, không ai biết đường về nhà, chẳng ai giúp đỡ được ai, đường sá đầy rác rến, người chết ngổn ngang! Trong trang cuối của tác phẩm “Mù lòa” khi nạn dịch dứt đi, các nhân vật lý giải như sau, “Tại sao chúng ta mù? Tôi không nghĩ là chúng ta hóa mù. Chúng ta mù mà có thể nhìn thấy, nhưng chúng ta không thèm nhìn thấy!”
- Người ta quát nạt anh ta
Cách đây mấy năm, có hai người cha mẹ kể lại cái chết của đứa con trai họ, “Thứ năm vừa qua, chúng tôi chôn cất đứa con trai chúng tôi. Câu chuyện xảy ra là hôm thứ ba, nó vào phòng ngủ của nó và tự sát. Nó bắn vào thái dương của nó, viên đạn xuyên qua óc nó và nó đã chết. Nó tên là Mike.”
Tại sao Mike tự sát? Mike có rất nhiều bạn. Nó sống hết tình với bạn hữu nó. Ngược lại các bạn nó cư xử tệ với nó. Chẳng những không đáp lại thịnh tình của nó mà còn hất hủi nó, làm hại nó nên nó buồn phiền tuyệt vọng, mượn cái chết để khỏi còn thấy cảnh con người đối xử tệ bạc với con người như thế.
- Biết mình mù
Có mấy người mù được yêu cầu mô tả con voi. Dĩ nhiên họ không thể dùng mắt, họ phải dùng tay sờ để mô tả con voi. Người sờ vào lỗ tai voi thì bảo nó mềm, dẹp và không ở yên một chỗ. Kẻ sờ mũi voi thì mô tả nó dài, thon thon và cũng đứng ngồi không yên…
Đúng là mô tả rất thiếu sót, vì không dùng thị giác được. Thị giác giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn. Chính vì thế mà người mù phải sống trong bất hạnh khổ sở. Do đó Chúa Giêsu thương họ, sẵn sàng cứu chữa họ. Nhưng trước khi chữa cho họ, Người muốn họ phải ý thức thân phận mù lòa của họ. Vì thế trong Tin mừng hôm nay, khi người mù Batimaeus đến gần, Chúa Giêsu hỏi, “Anh muốn tôi làm gì cho anh” (Mc 10:51).
- Người mù nhìn thấy
Một người đàn bà mù tâm sự: Trước khi bị mù lòa, tôi là một phụ nữ rất tự mãn và độc lập. Tôi làm việc nuôi năm đứa con của tôi. Tôi cũng làm việc thiện nguyện. Nhưng gia đình tôi không được hạnh phúc, nên tôi định ly dị. Nhưng rồi tai nạn xảy đến cho tôi. Bác sĩ bảo phải giải phẫu mới chữa được. Trước khi giải phẫu tôi còn sáng mắt, sau khi giải phẫu tôi phải mù lòa. Giờ đây tôi không còn tính chuyện ly dị được nữa, phải chung sống với người mình không thương. Tôi cố làm việc nội trợ, nhưng chỉ làm rối trật tự trong nhà. Đứa con gái út của tôi xấu hổ vì có người mẹ mù lòa….
Thật là một cuộc sống lầm than cô độc.
Ngày nọ, tôi nói với chồng tôi là tôi muốn đi ra ngoài đổi không khí. Tôi đinh ninh chồng tôi cùng đi với tôi. Nhưng không, tôi một mình đứng ở góc đường. Bỗng có tiếng nói trong tôi, “Ngươi không còn ai. Đã đến lúc ngươi phải tự cứu lấy chính ngươi…”
Thế là tôi lần mò đến trung tâm hồi phục kể cho mọi người nghe câu chuyện của tôi. Ở đây, tôi gặp một người thanh niên mù từ lúc mới sinh. Anh chưa bao giờ biết một bữa tiệc mừng sinh nhật. Tôi về nhà cố làm cho anh một ổ bánh và tổ chức mừng sinh nhật anh ta. Anh thổi những cây nến mà anh không thấy, nhưng chắc chắn anh đã hưởng được niềm vui và tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Thế là tôi mù lòa, nhưng thấy được nhu cầu của người khác. Và tôi cố gắng giúp họ thỏa mãn.
- Tâm sự của một người mù.
Từ thế kỷ 19, những người mù đã được học hành như người sáng mắt. Có những người mù đậu tiến sĩ, giáo sư như bà Keller, ông Braille (1809-1852).
Ông Braille đã bị mù từ lúc ba tuổi. Lúc đầu ông được học nhạc ở học viện và đánh đàn tại nhiều nhà thờ. Ông đã trở thành giáo sư và chính ông đã sáng chế ra hệ thống chữ nổi cho người mù học. Nhờ đó, ông đã cứu giúp được bao nhiêu thế hệ mù khỏi mù chữ. Ông đáng được tôn vinh là đại ân nhân của thế giới người mù. Tuy nhiên, ông đã không thể cứu họ khỏi mù mắt. Họ vẫn phải sống trong tối tăm.
Và đây cũng là tâm sự của bà Helen Keller. Keller bị mù và điếc từ lúc 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau :
Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì ? Cô bạn đáp : “Chẳng có gì đặc biệt cả”.
Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ “Không thể nào như thế được”. Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.
Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.
- Thánh Phanxicô Salêsiô.
Thánh Phanxicô Salêsiô có một đức tin mạnh mẽ, nhất là đối với Phép Thánh Thể. Ngài thường rao giảng cho dân vùng Chablais (Thụy sĩ) đang bị ảnh hưởng nặng của ly giáo Calvinô. Mỗi buổi tối, ngài hay đến trước nhà chầu sốt sắng cầu nguyện. Một hôm, đang mê say cầu nguyện thì có tiếng ai đi lại trong nhà thờ. Tưởng là kẻ trộm, ngài lên tiếng hỏi. Ai ? Một bóng người lạ đi tới và nói :”Thưa Đức Giám mục, con là người không có đạo. Con nghe Đức Cha giảng nhiều lần về Chúa Giêsu trong Thánh Thể, con không tin. Chiều hôm nay, con lẻn vào nhà thờ rình xem thái độ Đức Cha như thế nào. Con thú thực, đã nhìn thấy đức tin của Đức Giám mục. Giờ đây con xin Tin. “Lạy Chúa xin cho con được nhìn thấy”(Mc 46,51).
Ngày nay trên thế giới số người mù về thể xác có lẽ suy giảm đi đôi chút, nhưng ai dám nói số người mù về tinh thần đã giảm đi ? Số người “thấy mà xem chẳng thấy”(kinh cám ơn rước lễ xưa) thì rất nhiều. Người ta biết mọi cái trên thế giới, kể cả cung trăng, một số hành tinh và một vài vì sao, nhưng có cái gần nhất người ta lại không thấy, đó là cái “tôi” của mình, là con người của mình, là bản thân mình.
Nói chi đến thực tại siêu nhiên, người ta mù tịt trước những vấn đề thiêng liêng. Anh mù Bartimê đã nhìn ra Đức Giêsu là ai, là Đấng Cứu Thế trong khi đám đông chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Họ có con mắt sáng, nhưng lòng họ vẫn còn u tối. Họ cần được Chúa soi sáng cho họ để họ nhìn ra chân lý.
Riêng chúng ta, những môn đệ của Chúa, ai dám nói mình không bao giờ bị mù trước những thực tại thiêng liêng ? Nhiều người cho là mình sáng mắt sáng lòng nhưng thực tế họ luôn mù tối không nhìn ra chân lý; và tệ hơn nữa họ vừa mù vừa hướng dẫn người khác thì hậu quả sẽ khôn lường.
- Chiếc đèn lồng.
Có một người mù, một đêm kia đến thăm người bạn thân. Hai người trò truyện thân mật với nhau cả mấy tiếng đồng hồ. Trời đã khuya, khi chia tay nhau, người bạn sáng mắt tặng anh một chiếc đèn lồng để đi đường cho an toàn. Nhưng người mù nói :
– Tôi không cần đèn. Đối với tôi, tối và sáng như nhau.
Người bạn trả lời :
– Tôi biết anh không cần đèn để soi đường, nhưng nếu anh không cầm một cái đèn thì trời tối người ta có thể đụng phải anh, nguy hiểm lắm, anh nên cầm đi.
Nghe hợp lý, anh mù ra về với chiếc đèn lồng trong tay. Đi được một quãng đường, đột nhiên anh bị một người đụng phải anh. Với vẻ tức giận, anh mù nói :
– Người nào kỳ vậy, đui hay sao mà không thấy đèn của tôi ?
Người kia đáp :
– Xin lỗi anh, đèn của anh tắt rồi nên tôi không trông thấy. Mong anh thông cảm
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy anh mù tưởng mình “thấy”, còn người kia không thấy đèn. Nhưng ngược lại, chính anh mù mới không thấy đèn mình tắt. Tác giả câu truyện kết luận : Con người tưởng mình thấy nhiều chuyện, nhưng lại quên hay cố ý quên nhiều cái mình không thấy.
Nhiều khi cuộc đời chúng ta chỉ là chiếc lồng đèn bị tắt lửa không còn ánh sáng để soi chiếu cho người khác, chúng ta bắt chước anh mù Bartimê mà kêu lên :”Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tiếng Hy lạp là Kyrie eleison. Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy lạp, Ai cập, Liban… phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu” bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mệt mỏi những từ này : Iesou, Eùleison, Iesou, Eùleison…
- Tìm thấy mẹ nhờ con mắt tình yêu:
Vào một buổi chiều năm 1945, tại nhà ga Verona nước Italia, có khá đông dân chúng đang tập trung tại sân ga và náo nức chờ đón một số binh lính là người thân của họ trở về từ các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Lúc đó, một người lính trẻ bị mù hai mắt cũng đang lần mò từng bước trên sân ga. Khi tiến gần đến chỗ một phụ nữ lớn tuổi đang đứng chung với mấy người thân trong gia đình, đột nhiên anh lính mù dừng lại rồi kêu to lên: “Mẹ!”, và rồi hai mẹ con đã ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Một lúc sau, khi phát hiện ra cặp mắt của con trai đã bị mù hòan tòan, bà mẹ liền hỏi: “Con ơi, mắt con đã bị mù như thế mà sao lúc nãy con lại nhìn thấy mẹ giữa bao nhiêu người khác và kêu lên vậy?”. Anh lính trẻ liền đáp: “Thưa mẹ, tuy mắt con không thể nhìn thấy mặt mẹ như trước đây, nhưng chính trái tim đã mách bảo con là mẹ cũng đang có mặt tại đây và đang chờ đón con. Khi từ trên xe lửa bước xuống sân ga, con cứ đi theo sự mách bảo của trái tim và đến lúc con linh cảm chắc chắn mẹ đang ở rất gần bên con, thì tự nhiên con buột miệng la to lên “Mẹ!” và quả thật con đã gặp lại được mẹ như mẹ đã thấy đó”.
17. “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Ở đây, theo tâm lý mà nói, quả thật Ðức Giêsu đã làm một nghĩa cử vô cùng cao đẹp, khi Người hỏi người hành khất mù: “Bác-ti-mê-ô, anh muốn tôi làm gì cho anh?” – Ðúng vậy, chúng ta ai cũng muốn một lần nào đó trong đời được người khác hỏi như vậy. Một lần nào đó được tự do bày tỏ điều mình mong ước! Ðôi mắt đứa trẻ sẽ mở rộng tròn xoe một cách vui sướng rạng rỡ, khi bà dì hay ông cậu đầy thương yêu nói với nó: “Cháu có quyền xin bất cứ cái gì cháu thích, bà dì (ông cậu) sẽ cho cháu ngay!” Ðứng trước niềm vui được tự do bày tỏ nguyện vọng và chắc chắn sẽ được thoả mãn, tâm lý những người lớn chúng ta cũng không khác tâm lý của những đứa trẻ là bao!
“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Ðức Giêsu cũng hỏi mỗi người trong chúng ta như thế! Người mù đã không thể trả lời cách nào khác hơn, là: “Thưa Thầy, xin cho tôi có thể nhìn thấy được!” Anh ta biết mình bị mù. Và anh cũng biết là không còn gì đẹp đẽ và quan trọng hơn là anh ta lại có thể nhìn thấy được. Còn chúng ta, chúng ta trả lời thế nào câu hỏi của Chúa?
Có lẽ đối với chúng ta, trước hết chúng ta sẽ phải bắt đầu câu trả lời: “Thưa Thầy, xin cho con biết được là con đang bị mù!” Hay: “Thưa Thầy xin cho biết là con đang thiếu thốn những gì!” Phải chăng chúng ta không cần phải cầu xin như thế? Chúng ta không biết mình đang bị mù, đang thiếu thốn gì sao? Nhất thiết chúng ta phải cầu xin cho mình được thực sự sáng mắt? Vâng, theo thiển ý, tôi nghĩ rằng đó là điều chúng ta cần phải cầu xin cùng Chúa!
Thỉnh thoảng chúng ta cảm thấy bực mình về con cái chúng ta, vì chúng quá kén chọn, đến nỗi nhiều bậc cha mẹ đã phải than phiền: “Ngày nay người ta chẳng còn biết phải cho con cái điều gì nữa!” Cũng vậy, nhiều khi các ông bà nội / ngoại cũng đã than thở trước ngày sinh nhật của các cháu mình: “Ngày nay chúng nó đã có tất cả rồi, nên chẳng biết phải lấy gì làm quà cho chúng nó nữa!” Nhưng có phải thực sự các cháu của họ đã có tất cả rồi chăng?
“Thưa Thầy, xin cho con biết được điều con – chúng con – đang thiếu thốn!” Dĩ nhiên, chúng ta còn thiếu rất nhiều thứ: Tương lai, công ăn việc làm, sự bảo đảm an ninh khỏi trộm cắp, kiếm cho con cái một chỗ học hành gần nhà, không mắc phải những chứng bệnh nan y nguy tử, không bị tàn tật, không bị rơi vào hoàn cảnh luôn luôn phải nhờ vả kẻ khác, v.v… Vâng, đó là những nguyện vọng cần phải tỏ bày cùng Chúa. Nhưng phải chăng chúng ta chỉ thiếu thốn những điều đó thôi sao?
Chúa đã dạy chúng ta phải cầu xin cho mình có đầy đủ lương thực hằng ngày! Thiên Chúa sẽ không bao giờ xua đuổi bất cứ ai đang trong cơn túng cực và khó khăn mà biết chạy đến kêu xin Người. Trái lại Người còn muốn ban cho chúng ta nhiều hơn nữa, chứ không chỉ có lương thực hằng ngày mà thôi. Với lương thực hằng ngày, Người muốn ban cho chúng ta sự sống, sự sống của Người, sự sống thiên đàng tràn đầy hạnh phúc. Chúng ta có náo nức khao khát được tiếp cận Thiên Chúa và những gì Người hứa ban cho chúng ta không? Chúng ta có ý thức được rằng tội lỗi chúng ta đã chia lìa chúng ta khỏi Thiên Chúa và vì thế chúng ta phải xa tránh bằng sự ăn năn hối cải không? Cả trong cuộc sống của những người đạo đức cũng không thiếu những mù lòa mà chính đương sự không hề biết. Vì thế, “Thưa Thầy, xin cho con nhận biết điều con đang thực sự thiếu thốn” phải luôn luôn sống động trên môi miệng mỗi người chúng ta!
Nhiều khi chúng ta cũng hãy can đảm và thẳng thắn nhìn nhận rằng vì do sự thiếu khôn khéo và nhất là do các lầm lỗi của mình mà một số các vị có trách nhiệm trong Giáo Hội đã vô tình làm mai một đi nhiều vẻ đẹp và sức hấp dẫn của Giáo Hội cũng như của niềm tin Kitô giáo của chính mình trước con mắt người đời. Chúng ta không khỏi đau lòng khi nhận thấy những người lương dân khi nghe nói đến tiếng “Giáo Hội Công Giáo” là thường nghĩ ngay đến luật lệ cấm phá thai, cấm dùng các phương pháp ngừa thai nhân tạo, cấm đồng tình luyến ái, không cho phép những người ly dị được rước lễ, phụ nữ không được làm Linh mục,v.v…! Dĩ nhiên, đó là qui luật hiện hành của Giáo Hội, nhưng Giáo Hội không chỉ quanh quẩn có bấy nhiêu! Tất cả chúng ta đều mong muốn trở nên một Giáo Hội mà trong đó lòng thương xót của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta được rực sáng, trong đó không một ai bị cô lập, nếu như người đó nêu lên những ý kiến có tính cách phê bình và không bị loại trừ, nếu người đó không giữ vuông tròn được các luật lệ. Chúng ta hãy kính nể và biết ơn tất cả những ai đang dấn thân làm chứng nhân cho tình thương xót đó trong Giáo Hội, tức tình thương mà Thiên Chúa đã dành cho con người, như bài Tin Mừng hôm nay đã loan báo, đặc biệt là những ai đang ngày đêm săn sóc và chăm nom:
những người già nua, những người bệnh tật,
những người tàn tật và những người bất hạnh, đói khổ,
những người ngoại kiều và những người sống ngoài lề xã hội,
những người bị bỏ rơi, bị tẩy chay, bị khai trừ, v.v…
Chúng ta thực sự là Giáo Hội của Ðức Kitô, nếu chúng ta biết sống trọn tình thương đó trong lòng Giáo Hội và giữa chợ đời. Vì không có dấu chỉ nào khác để cho thế gian nhận biết chúng ta thuộc Ðức Kitô hơn là sự thông cảm, tình thương và đức ái!
Dĩ nhiên, bất cứ ở đâu và trong bất thời đại nào, vẫn có những Kitô hữu sống một cách vô ý thức, thiếu hy vọng, và đầy sợ hãi khi phải đưa mắt nhìn về tương lai, hay chỉ nghĩ đến mình và chỉ sống cho mình mà thôi, v.v… Tất cả đều nói lên “mặt trái của một chiếc mề đay”, những “con chiên ghẻ” trong đoàn chiên của Chúa. Ðiều quan trọng trong một trường hợp đầy thách đố như thế, là người tông đồ của Ðức Kitô càng phải nỗ lực giữ vững đức tin và không để cho những thử thách, những khó khăn của môi trường sống chung quanh làm tê liệt lòng nhiệt thành với Ðức Kitô và tinh thần phục anh em đồng loại. Thật ra, tương lai còn bao la vĩ đại, chứ không phải chỉ đi tìm sự an ninh, sự bình an và dễ dãi cho mình. Tương lai chứa đựng nhiều thách đố nhiêu khê và người ta cần phải nêu danh chúng ra, dẫu rằng điều đó có thể gây ra những chua cay và bất bình. Nhưng chính điều đó lại có thể động viên được những nguồn sức mạnh để giải quyết tận gốc những khủng hoảng và đưa ra được liều thuốc sửa trị hiệu nghiệm.
Người Kitô hữu nên biết rằng, dù cho tương lai đen tối bao nhiêu đi nữa, Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trong mỗi tương lai! Người là Thiên Chúa của lịch sử và là Thiên Chúa của thế kỷ hiện tại cũng như của những thế kỷ sắp tới! Niềm hy vọng Kitô giáo giúp tôi có thêm nghị lực để bước đi những bước mới theo khả năng tôi cho phép, với sự ý thức chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ chiếu giọi ánh sáng của Người trên việc làm bé nhỏ của tôi, trên cuộc sống cụ thể hằng ngày của tôi.
Chúng ta không chỉ nài xin Chúa giúp chúng ta đạt được những mục đích quan trọng mà chúng ta cần phải hiện thực, nhưng cả đến khả năng để bước đi những bước cụ thể, nhỏ mọn và đơn sơ, mà tôi – chúng ta – có thể thực hiện được trong gia đình, trong Giáo xứ và làng mạc của chúng ta hay ở bất cứ nơi đâu. Và qua đó, thế giới sẽ trở nên tươi sáng hơn. Ðó chínnh là sứ mệnh của tất cả chúng ta!
“Lạy Chúa, xin ban cho con sự can đảm trong những bước mà con sắp sửa đi! Và xin cho con cảm nhận được rằng Chúa hằng đồng hành với con trên mọi nẻo đường con đi!”
Ðó là điều cần phải nài xin Chúa ban cho chúng ta. Bởi vì, có những giờ phút trong cuộc sống, Chúa để xảy đến cho chúng ta trở nên vô cảm và nguội lạnh, không còn cảm nghiệm được bất cứ điều gì nữa. Ðó là những giờ phút chúng ta hoàn toàn trở nên trống rỗng và khô cạn, như thể bị căng ra trên thập giá như Chúa xưa kia ở đồi Golgotha vậy! Tuy nhiên, chúng ta có thể và cần phải tha thiết câu xin:
“Lạy Chúa, xin che chở con, xin che chở cộng đoàn Dân Chúa. Xin cho chúng con cảm nhận được sự gần gũi của Chúa bên chúng con!”
Nói tóm lại, Chúa đã hỏi người mù Bác-ti-mê-ô – Người cũng hỏi bạn và tôi nữa -: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Chúng ta hãy trả lời Người với tất cả sự cảm xúc đầy mong mỏi đợi chờ mà mỗi người chúng ta hằng ấp ủ:
Lạy Chúa, xin cho con biết con đang bị mù!
Xin cho con nhìn thấy được điều con đang thiếu thốn, điều con thực sự đang thiếu thốn!
Xin ban cho sự can đảm trong những bước đường sắp tới, chứ đừng để con chỉ ngồi chờ đợi kẻ khác!
Và xin cho con cảm nhận được rằng Chúa luôn ở bên con!
Hy vọng rằng chúng ta cũng sẽ được lãnh nhận tình thương của Chúa, như người mù Bác-ti-mê-ô: Ðức Giêsu đã sờ đến anh. Anh lại có thể nhìn thấy và anh đã theo Ðức Giêsu trên đường Người đang đi.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam