Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 51
Tổng truy cập: 1378277
NÊN THÁNH
Nên thánh
G.K. Chesterton, tác giả nổi tiếng người Anh, đã viết một câu chuyện thú vị về ba nhà thông thái hiện đại. Họ đã nghe biết rằng có một thành phố hòa bình, một thành phố mà chưa bao giờ có chiến tranh, loạn lạc, giặc giã và khổ đau. Họ cũng nghe biết rằng, phải mang theo những lễ vật đến để chứng tỏ họ là những con người của hòa bình, và đóng góp vào việc duy trì hòa bình trong thành phố này. Do đấy họ lên đường đi tới thành Bêlem mới này với những lễ vật họ tin chắc rằng sẽ bảo đảm giữ được hòa bình và cho phép họ ở lại trong thành phố đó.
Khi đến cổng thành họ gặp thánh Giuse đứng kiểm soát những lễ vật của họ. Nhà thông thái hiện đại thứ nhất mang vàng đến. Ông giải thích rằng vàng có thể mua được mọi thứ khoái lạc trên trần gian. Hưởng khoái lạc rồi người ta không còn muốn chiến tranh nữa. Nhà thông thái hiện đại thứ hai đã không mang nhũ hương, mà mang hóa chất đến. Ông mang khoa học hiện đại vào thành phố. Với khoa học kỹ thuật ông có thể làm cho tâm trí con người ngủ mê trong hạnh phúc trần gian. Ông có thể chế ra những hạt giống nhân tạo phát sinh hoa trái và kiểm soát dân số trên mặt đất. Lúc đó dân chúng có thể thỏa mãn được tất cả nhu cầu cần thiết, và như vậy họ không phải đánh nhau nữa. Nhà thông thái hiện đại thứ ba mang một phân tử hạch nhân đến để chế bom nguyên tử, một thứ mộc dược mới, một biểu tượng mới của sự chết. Ông lập luận cứng rắn rằng bất cứ ai chống đối lại con đường hòa bình sẽ phải chết.
Sau khi khám xét lễ vật, thánh Giuse đã khước từ không cho bất cứ người nào vào cả. Họ lao nhao lên phản đối rằng: “Chúng tôi đã mang theo tất cả những phương tiện để cung cấp sự giàu có, kiểm soát thiên nhiên, và tiêu diệt kẻ thù. Chúng tôi còn phải mang thêm cái gì đến nữa để chứng tỏ rằng chúng tôi là những con người của hòa bình?” Thánh Giuse bèn kề vào tai mỗi người rồi thì thầm một lúc. Sau đó họ lặng lẽ bỏ ra đi trong buồn bã. Bạn có biết thánh Giuse nói gì với họ không? Ngài nói rằng họ đã quên mất chính Hài Nhi Giêsu!
Đó cũng là lời khuyên của Công đồng Vatican II cho thế giới văn minh khoa học ngày nay: “Chính Chúa Con Nhập Thể là thái tử của hòa bình, đã dùng thập giá của Người để hòa giải mọi người với Thiên Chúa. Người đã tái lập sự hiệp nhất mọi người thành một dân tộc và một thân thể”.
Ngày nay với chủ trương duy khoa học kỹ thuật, với sự giàu có và quyền lực, con người nghĩ rằng họ là những nhà thông thái hiện đại. Họ có thể xây dựng hòa bình mà không cần hài Nhi Giêsu. Thế nhưng họ đã lầm! Hòa bình và hạnh phúc không thể có nếu thiếu Hài Nhi Giêsu. Ngài là “Thái Tử của Hòa Bình”. Tách rời ra khỏi Thiên Chúa, con người không thể tự tạo ra hòa bình được.
Trong tông huấn Tertio Millennio Adveniente, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng cho rằng càng phát triển về văn minh vật chất, con người càng trở nên nghèo nàn về tinh thần và tạo nên cơn khủng hoảng văn minh hiện nay. Ngài nói: “Đứng trước cơn khủng hoảng văn minh đó, cần phải đáp lại bằng văn minh của tình yêu – đặt nền tảng trên các giá trị phổ quát là hòa bình, liên đới, công lý và tự do, là những giá trị gặp thấy nơi Đức Kitô sự kiện toàn đầy đủ của chúng ta”. “Chúng tôi đến để thờ lạy Người”. Tìm kiếm và thờ lạy Thiên Chúa là ước vọng thâm sâu nhất của con người như thánh Augustinô đã nói: “Chính Ngài đã thúc đẩy con người làm như thế bằng cách làm cho con người thấy khoái trá khi ca tụng Ngài, vì Ngài đã tạo thành chúng con cho Ngài, và tâm hồn chúng con sẽ không an vui bao lâu chưa được an nghỉ nơi Ngài”.
Sách Giáo lý Công giáo cũng dạy rằng: “Sự ước ao Thiên Chúa đã được ghi sâu trong tâm hồn con người, bởi vì con người đã được sáng tạo bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa”.
Tìm kiếm Thiên Chúa để trở nên giống như Ngài, vì con người đã được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, với phẩm giá của mình, với ơn gọi là con cái Thiên Chúa được chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Bởi thế, con người phải trở nên hoàn thiện như Ngài. Đó là ơn gọi làm thánh (sainthood). Mỗi người được mời gọi để trở nên thánh thiện như Thiên Chúa Cha là Đấng thánh.
53. Nên thánh
Thánh Phaolô đã nhắc nhở các Kitô hữu thời Giáo Hội sơ khai như sau: “Kính gửi tất cả anh chị em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được gọi là thánh, xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an”. “Kính gửi Hội thánh của Thiên Chúa ở Côrintô, những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô Giêsu, được gọi là thánh…”
Các Kitô hữu đã được thánh Phaolô gọi là thánh, vì đã có lòng ước ao tìm kiếm Thiên Chúa mãnh liệt, đã ăn năn sám hối và canh tân đời sống mỗi ngày để trở nên thánh.
Một vị thánh sẽ không bao giờ dám tự coi là mình đã chiếm hữu được chân lý, đã có Thiên Chúa, hay đã biết tất cả mọi điều về Thiên Chúa! Đối với các ngài, luôn luôn có những khám phá mới mẻ về Thiên Chúa, bởi lòng ước ao tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa sẽ không bao giờ vui thỏa. Nói như thánh Augustinô, các ngài chỉ vui thỏa khi nào nghỉ yên trong Chúa.
Câu chuyện Thánh Kinh về ba nhà đạo sĩ Đông phương nói với chúng ta rằng đời sống tinh thần sẽ chỉ bắt đầu khi một người có một lòng ước muốn mãnh liệt đi tìm kiếm Thiên Chúa. Khi một người cảm nghiệm được sự thúc bách nội tâm, một lòng khát khao muốn có một sự liên hệ cá nhân sâu xa với Chúa Giêsu, cuộc hành trình tinh thần của người đó mới bắt đầu khởi sự.
Trước đệ nhị thế chiến, có một cô gái người Pháp, trẻ đẹp, hát hay và khiêu vũ rất giỏi. Nhờ thế cô rất nổi tiếng dưới ánh đèn sân khấu trong các vũ trường ở thủ đô Paris. Đúng lúc đó thế chiến thứ hai bùng nổ, nước Pháp lâm nguy nên mọi người ra sức bảo vệ tổ quốc. Cô gái tài sắc đó đã trở thành y tá cứu thương trên chiến trường. Chẳng may cô bị thương và rủi hơn nữa chính vết thương này đã khiến cô không còn khả năng sinh sản. Với lòng ước ao mạnh mẽ để được làm mẹ và trước những đau khổ mất mát của tha nhân, cô đã không buông xuôi thất vọng, trái lại cô còn có một quyết tâm khác thường.
Thay vì làm mẹ ruột, cô làm mẹ nuôi của các trẻ mồ côi bị bỏ rơi. Để có điều kiện thực hiện ý định đó, cô trở lại làm nghề vũ nữ và ra sức lao động cật lực. Cùng lúc cô đi tìm kiếm các trẻ mồ côi đủ mọi quốc tịch, màu da để nuôi nấng yêu thương. Đứa bé cuối cùng cô nhặt được trong một thùng rác ở thủ đô Paris vào đêm Noel 1983 là một em bé người Pháp. Bây giờ cô trở thành người mẹ nuôi của 12 em, 12 quốc tịch và màu da khác nhau. Với 12 miệng ăn cô không đủ tiền chi phí nên phải bán đồ đạc trong nhà để sống thêm được một thời gian. Sau đó, mẹ con dắt nhau đi lang thang ăn xin. Biết được tình cảnh đáng thương đó, công chúa Monaco đã cho mẹ con cô tá túc trong lâu đài của mình. Hai năm sau cô qua đời và báo chí đã đặt tên cho gia đình cô là một “gia đình Liên Hiệp Quốc”.
Lễ Hiển Linh nhắc nhở chúng ta rằng Ngôi Hai Thiên Chúa đến viếng thăm tất cả mọi người có lòng ao ước tìm kiếm và đến thờ lạy Ngài. Không một ai bị loại trừ ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Thật “Vui mừng cho những tâm hồn tìm kiếm Thiên Chúa” (Tv 105, 3).
54. Những đạo sĩ hôm nay
Suy nghĩ về lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, tôi có một nhận xét nho nhỏ, xin được chia sẻ. Nhận xét ấy như thế này:
Các nhà đạo sĩ phương đông là những người ít được chuẩn bị, ít được hiểu biết về Kinh Thánh, nhưng lại có một tấm lòng quảng đại, sẵn sàng đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa. Các ông đã lên đường, dấn thân vào một cuộc phiêu lưu hoàn toàn bấp bênh, để rồi cuối cùng các ông đã có được diễm phúc gặp gỡ Chúa nơi máng cỏ Bêlem dưới vóc dáng của một hài nhi nhỏ bé, nghèo túng và tầm thường.
Các ông là những người tuy xa mà lại gần.
Trong khi đó, các luật sĩ, tư tế và biệt phái sống tại Giêrusalem. Họ là những người đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Họ thông thuộc Kinh thánh. Bằng cớ là họ đã trả lời vanh vách nơi Đức Kitô sinh ra, thế nhưng họ đã không dám lên đường tìm gặp Ngài. Và hơn thế nữa, họ còn tiếp tay với Hêrôđê để sát hại Ngài.
Sở dĩ như vậy vì họ muốn Đấng Cứu Thế của họ phải được sinh ra trong lầu đài cung điện, để rồi một mai khi lớn lên, Đấng ấy sẽ là một ông vua hùng mạnh như Đavít, khôn ngoan như Salomon, sẽ giải thoát họ khỏi ách thống trị của đế quốc La Mã và dẫn đưa dân tộc họ tới một thời đại hoàng kim, khiến cho mọi dân nước phải quy phục và triều cống. Họ không muốn chấp nhận Ngài dưới vócdáng của một hài nhi nhỏ bé, nghèo túng và tầm thường. Và họ đã không lên đường tìm gặp Ngài.
Họ là những người tuy gần mà lại xa.
Cũng trong chiều hướng ấy, tôi nghĩ rằng những người dám hy sinh, dám dấn thân, dám lên đường tìm gặp Chúa nơi những kẻ nghèo túng và bất hạnh, để yêu thương và giúp đỡ, họ chính là những nhà đạo sĩ của thời buổi hôm nay.
Đúng thế, ngày hôm nay vẫn có những nhà đạo sĩ tìm gặp Chúa nơi những người anh em khổ đau và cùng khốn.
Có những người như Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vừa mới được phong lên hàng chân phước, hằng ngày không ngần ngại đi lượm từng hình hài sắp chết, từng con trẻ bị bỏ rơi… rồi mang về chăm sóc.
Có những người như Cha Prado bên Pháp, đã sang tận Ấn độ để đem lại sức sống mới cho một cộng đoàn nghèo, hết lẽ sống và cũng hết muốn sống.
Có những người như những tu sĩ đã biến nhà mình thành nơi cư trú cho những trẻ em bị bại liệt, hay những thanh thiếu niên bụi đời, lang thang nơi đầu đường xó chợ.
Có những người như Đức Cha Casaldaliga, đã lập tòa giám mục của mình trên một chiếc thuyền độc mộc để ngày ngày, tay chèo tay chống, đi đấu tranh với các công ti tư bản cũng như với quân độ Brasil, vì quyền lợi của đám dân da đỏ mà Chúa đã trao ban như là những con chiên của Ngài.
Gần chúng ta và bên cạnh chúng ta, cũng không thiếu gì những mẫu gương sống động như thế.
Họ là những nữ tu trong bệnh viện. Họ là những thày cô công giáo trong các trường học. Họ là những công nhân có đạo trong các xưởng thợ. Họ là những y tá, những bác sĩ kitô hữu đã dành thời giờ mình được quyền nghỉ ngơi cho những người phong cùi, cũng như cho những bệnh nhân ở những vùng xa xôi hẻo lánh, thiếu thốn những tiện nghi vật chất.
Họ không phải chỉ làm những công việc này vì lòng đạo đức và tình bác ái, mà hơn thế nữa, vì họ đã nhận ra nơi những kẻ nghèo túng va bất hạnh mà họ đang phục vụ khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Đúng như lời Đức Giám mục Bossuet đã nói:
- Người nghèo ở đâu thì Nước Trời ở đó. Người nghèo chính là một bí tích, một dấu chỉ của Đức Kitô.
Thế nhưng, liệu chúng ta có dám lên đường tìm gặp Chúa nơi những người anh em bất hạnh và khổ đau hay không?
55. Giờ được sinh ra
Trong khi chúng ta tiến vào năm mới, thật là an ủi khi biết rằng các tinh tú sao trời đang chiếu cố chúng ta. Đây là thời của Chòm Sao Bảo Bình (Aquarius).
Khi ánh trăng mọc trên nóc nhà thứ bảy
Và khi Mộc Tinh thẳng hàng với Hỏa Tinh
Thì an bình sẽ dẫn dắt các hành tinh
Và tình yêu sẽ xâm nhập các tinh tú
Đấy chính là những gì các nhà thiên văn đang nói cho chúng ta, và nó không có khó khăn nhấn mạnh về sự kiện rằng khoảng chừng 50 triệu người Bắc Mỹ tham khảo "Tử Vi" trên những tờ nhật báo, và rằng những sách về thiên văn được tiêu thụ hàng trăm ngàn cuốn mỗi năm. Giữa các người trẻ, thiên văn chính là môn thích thú của họ -- bất hạnh thay, trong nhiều trường hợp, nó là loại thay thế cho tôn giáo mà họ đang chối bỏ. Với nhiều hình thức dự đoán, thiên văn có thể thật là phiền hà bởi vì nó thường hay mập mờ và rất khó chú giải. Một người nói với một người bạn của anh rằng một nhà thiên văn đã nói với anh, "Người chồng thứ hai của vợ anh thật là giàu có, thông thái và đẹp trai." Và người bạn hỏi, "Anh chẳng tức tối khi nghe thấy lời dự đoán đấy sao?" "Đúng, nó làm tôi thật tức giận," người đàn ông trả lời. "Tôi không biết vợ tôi đã xuất giá trước kia hay không." Dĩ nhiên, đối với một số người những dấu chỉ tinh tú có thể mang ý nghĩa những gì mà họ muốn chúng mang ý nghĩa. Thế nhưng cũng thật là hứng thú khi để ý rằng người ta chú giải những dấu chỉ tinh tú để mang ý nghĩa mà chúng ta đang tiến đến một kỷ nguyên mới của tình huynh đệ, an bình và yêu thương. Đây phải là điểm quan trọng nhất với chúng ta những người Kitô hữu bởi vì nguồn đáng tin cậy nhất của chúng ta về tin tức liên quan đến vận số của thế giới -- Tân Ước -- cũng nói cùng một sự thể. Và, thật là không ngờ, nó khởi đầu kể cho chúng ta câu chuyện hạ sinh của một hài nhi.
Việc hạ sinh một hài nhi luôn luôn là một biến cố vô cùng đặc biệt. Tất cả chúng ta ai cũng có những hồi ước đặc biệt trong tâm khảm của chúng ta về sự diệu kỳ của việc hạ sinh hài nhi. Tuy nhiên, cái mà làm cho chúng ta thật sự bỡ ngỡ chính là sự kiện cuộc hạ sinh lần đầu vẫn chưa đủ. Sứ điệp của Tân Ước chính là sự trọn vẹn hòa hảo của chúng ta lệ thuộc và cuộc hạ sinh khác, cuộc hạ sinh thứ hai. Chúng ta phải trở nên giống như con trẻ bé nhỏ một lần nữa. Khác với lần hạ sinh lần thứ nhất, cuộc hạ sinh lần thứ hai là tự nguyện. Sự chọn lựa thuộc về chúng ta: noi theo giáo huấn của Chúa Giêsu để trở nên những con trẻ bé nhỏ hay là chối bỏ nó.
Phúc Âm Thánh Gioan, ông Nicôđêmô người Pharisiêu đến với Chúa Giêsu và hỏi, "Làm sao một người lại sinh ra lần nữa khi họ đã già rồi? Người ấy phải nhập vào lòng mẹ và tái sinh ư?" (Jn 3:4). Giống như Nicôđêmô, chúng ta muốn biết thực sự điều ấy có nghĩa gì. Chúng ta không thông suốt. Chúng ta cố tìm một phương thế có thể để thoát ly khỏi nó. Một số chúng ta bắt chước Nicôđêmô cố khởi đầu bằng những lý lẽ thần học với Chúa Giêsu về vấn đề này. Trong trường hợp nào, việc "tái sinh" theo nghĩa Thánh Kinh mang ý nghĩa gì?
Chữ Hy Lạp mà chúng ta chuyển dịch thành "tái sinh" hay "sinh ra" thật sự mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Thế nhưng khi chúng ta ghép chúng lại hầu cố đưa ra một ý nghĩa đơn giản và rõ ràng nhất, điều mà nó truyền đạt cho chúng ta chính là sự biến đổi tận gốc thì cần thiết trong đời sống các bạn cũng như của chính tôi: một sự thay đổi hoàn toàn, một khởi đầu mới.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta quá sức khi Ngài kêu mời chúng ta vào trong sự sống, vào trong lòng tốt lành vĩ đại của Ngài. Ngài ban cho chúng ta hai lần sinh ra: Lần sinh ra thứ nhất là mang chúng ta vào trong thế gian này và rồi lần sinh ra thứ hai là mang chúng ta vào trong sự sống.
"Chúng tôi đã thấy ngôi sao Ngài mọc tại Phương Đông và đã đến để triều bái Ngài." Trong ngày Chúa Nhật đầu tiên của Năm Mới, nếu chúng ta khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa thẳm sâu trong chính trung tâm nội tại của ta thì chúng ta sẽ không bỏ lỡ ngôi sao của Chúa Giêsu mọc tại Phương Đông, và chúng ta sẽ biết phải triều bái Ngài như thế nào. Giống như các nhà chiêm tinh thời xưa, chúng ta sẽ là những Người Mang Lễ Vật tới Thiên Chúa tại trung tâm điểm của đời sống chúng ta; chúng ta sẽ triều bái Con Trẻ mới sinh qua những lễ vật của lòng trắc ẩn, kiên nhẫn và quan tâm đến tha nhân. Lễ vật vĩ đại nhất của chúng ta cho thế giới trong Năm Mới này chính là món quà của bản thân. Đây chính là lễ triều bái chúng ta dâng lên Ngài: yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.
56. Những chặng đường lữ hành
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Những người hành hương
Từ hình ảnh ba nhà đạo sĩ lên đường tìm kiếm Đức Giêsu, người ta có thể rút ra một vài nhận định làm khuôn mẫu cho mọi người đang trên đường lữ hành.
Ba đạo sĩ là những người từ những phương trời khác nhau, từ những nơi xa xôi, nhưng đã cùng gặp nhau trong ước muốn gặp gỡ với Vị Vua mới giáng sinh. Đó là hình ảnh của tất cả những ai đã lên đường, do những ước vọng lớn lao thúc đẩy.
Ba vị đã tiến bước và trở thành những người tìm kiếm, những người khám phá.
Ba vị đã gặp được Đức Kitô, vì các vị đã từ bỏ tất cả những gì mình đang có, đã ra khỏi mình, ra khỏi nơi ở của mình. Các vị hòan tòan tự do.
Ba vị tràn đầy hân hoan vui mừng, hòan tòan trong sáng và sẵn sàng đón nhận hồng ân.
Như vậy, các nhà đạo sĩ là những người chẳng có mối liên hệ về họ hàng thân thuộc với Thiên Chúa của Itraen, nhưng đã cảm thấy mình có liên hệ. Các vị khao khát gặp gỡ Vị Vua mới giáng sinh, và các vị đã thành công. Cuộc mạo hiểm đầy gian truân vất vả của các vị đã thành công. Đây là một lời nhắc nhở cho mọi người về mối liên hệ của mỗi người với Thiên Chúa, và Thiên Chúa luôn sẵn sàng hướng dẫn mọi người đến gặp gỡ với Người, nếu họ chấp thuận lên đường, chấp nhận ra khỏi mình, ra khỏi những thói quen thường ngày để tìm gặp Người. Kho tàng phong phú của Thiên Chúa luôn mở ra cho bất cứ ai đón nhận lời mời gọi, bất kể người đó là ai.
Ngoài ra, trong cuộc hành trình, các đạo sĩ đã vào Giêrusalem, thành phố tượng trưng cho sự hiểu biết và quyền bính. Tại đây có vua, có các tư tế, các kí lục. Ngôi sao hướng dẫn các đạo sĩ đã biến mất khi các vị đến gần thành phố. Các vị đã vào thành, đã gặp gỡ, đã hỏi han, nhưng đức Giesu không có ở đó.
Ngôi sao ấy lại xuất hiện ở Bêlem: điều này cho thấy sự chuyể dịch về nơi chốn đích thực của quyền bính. Quyền vương đế, ngôn sứ và tư tế không còn ở trong thành phố có Đền Thờ, nhưng được bày tỏ trong hang đá, nơi Con Trẻ được sinh ra. Chính Đức Giêsu mới có quyền đích thực trên mọi loài. Và quyền bính ấy đã xuất hiện ở nơi con người không ngờ đến. Nơi chốn không làm nên quyền bính, nhưng là Con Trẻ, tức là Đức Giêsu.
Mở đầu một cuộc chiến
Biến cố đức Giêsu giáng sinh và việc các đạo sĩ tìm đến triều bái người đã mở ra một cuộc chiến.
Khi nghe các đạo sĩ đã theo hướng khác để trở về sứ sở của mình, vua Hêrôđê đã ra lệnh tàn sát các trẻ em trong vùng, từ 2 tuổi trở xuống. Đây mới chỉ là một màn đầu trong một cuộc lùng bắt còn kéo dài mãi tới sau này. Ngay từ khi mới chào đời, Đức Giêsu đã làm cho những người đang nắm giữ quyền bính phải sợ hãi. Họ không thể nào chấp nhận có một con người được gọi là vua đang gây nguy hiểm cho xã hội do họ tạo lập và điều hành. Cảm thấy vị trí của mình bị lung lay, nên họ quyết tâm tìm cách giết cho bằng được con người tự xưng mình là vua. Người ta có thể nhìn thấy vẻ đắc thắng của họ khi Đức Giêsu chịu chết trên thập giá với hàng chữ gắn phía trên đầu.
Đây thực là một cuộc chiến không cân sức: một bên là quyền bính trần gian với đủ mọi thứ phương tiện, một bên là Con Trẻ yếu ớt, ngay áo để che thân cũng không đủ, nói gì đến người bảo vệ. Thế nhưng, chính Con Trẻ, sau này là đấng chịu đóng đinh, lại là người chiến thắng, bởi vì Người la con Thiên Chúa. Thêm một lần nữa, Noel lại báo trước việc phục sinh.
Vì ích kỷ, những người nắm quyền bính trần gian đã không biết phục vụ người khác, nhưng chỉ lo tìm lợi ích cho riêng mình. Con Trẻ nằm trong máng cỏ lại là đối thủ của những kẻ đầy quyền lực, có quyền ra lệnh cho người khác. Con Trẻ và gia đình đã trốn đi, và những người này tưởng rằng mình đã chiến thắng. Và kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện cách tốt đẹp.
Nhìn lại chặng đường lữ hành
Trong cuộc mạo hiểm của ba nhà đạo sĩ, ta nhận ra bộ mặt của cuộc hành trình đức tin với nhiều chặng khác nhau:
Các đạo sĩ đã thấy một ngôi sao và biến cố này đã thúc đẩy các vị rời bỏ quê hương, rời bỏ chính mình để lên đường. Ngôi sao của chúng ta hôm nay có thể là một biến cố, một cuộc tiếp xúc, một niềm vui hay nỗi buồn, có khi cả cuộc xuất hiện của môt em nhỏ. Những sự kiện này được thắp lên trong cuộc đời chúng ta như một ánh sao, và chúng ta buộc phải ngẩng đầu lên, phải tìm kiếm xa hơn, phải rời bỏ những xác quyết của quá khứ. Chúng ta phải chuyển động. Có một sự việc hay một con người buộc chúng ta phải thay đổi: Anh sao tuy le lói, như một lời mời gọi mơ hồ, không rõ ràng, nhưng chúng ta phải lên đường. Đó là chặng thứ nhất.
Thế nhưng ánh sáng đã thúc đẩy chúng ta lên đường có lúc lại biến mất: chúng ta giống như người Do Thái lạc trong sa mạc và muốn quay trở lại đất Ai Cập. Các vị đạo sĩ cho chúng ta một giải pháp: các vị đã vào Giêrusalem và hỏi han các chuyên viên về lời Chuá. Các kí lục và thủ lãnh đã cho các vị câu trả lời: các vị phải đến Belem. Lời Thiên Chúa chỉ có ý nghĩa cho những ai đã từ bỏ mọi sự (như Apraham). Cuộc đời chúng ta cũng chỉ có ý nghĩa khi lời Chúa được chuyển lại cho ta qua Hội Thánh, và được đón nhận với tâm hồn rộng mở. Đó là chặng thứ hai.
Bóng tối và quyền lực sự dữ vây bọc chung quanh chúng ta. Nguy hiểm và cám rỗ vẫn rình chờ. Vua Hêrôđê, vị Pharaô mới, vẫ ở đó và đang mong ước buộc chúng ta làm nô lệ. Các vị đạo sĩ, khi được thúc đẩy, đã vượt qua mọi cạm bẫy, đã tìm ra được lối thoát mà không làm hại ai cả. Các vị đã đón nhận lời Chúa do người khác nói lại, đã đến nơi mình muốn đến, gặp đấng mình muốn gặp và sau đó ra đi bình an. Các vị đã vượt qua bóng tối. Đó là chặng thứ ba.
Ánh sáng lại xuất hiện. Niềm vui tràn ngập tâm hồn: các vị đạo sĩ đã đến Belem. Mỗi chúng ta cũng phải đến đó. Tại đây, Thiên Chúa hẹn gặp gỡ mọi người. Điều mà tâm hồn chúng ta ước mong hơn hết chính là đây. Đó là lúc để thờ lạy: tức là ở trong hơi thở của Thiên Chúa. Đó là chặng thứ tư.
Rồi chúng ta trình bày những món quà để dâng cho Thiên Chúa. Tất cả cuộc đời chúng ta được đem ra để dâng tiến Hài Nhi. Đó là vàng, nhũ hương, mộc dược … và hài nhi đón nhận tất cả những gì chúng ta dâng tiến! ước gì cuộc trao đổi này được kéo dài mãi mãi … Đó là chặng thứ năm.
Thế nhưng, lại phải lên đường. Thiên quốc còn xa lắm. Lịch sử của Chúa Giêsu ở với lòai người mới chỉ là bắt đầu. Sẽ còn rất nhiều ánh sao xuất hiện trong cuộc đời chúng ta. Lại phải lên đường. Thế nhưng đã có thay đổi. Không thể tiếp tục sống như trước đây, không thể đi lại những con đường cũ. Như các đạo sĩ, chúng ta phải “theo một con đường khác”. Đó là chặng thứ sáu, chặng cuối cùng trên hành trình đức tin, hành trình của mỗi ngày sống, hành trình của cả cuộc đời.
Những dấu chỉ
Lạy Chúa nếu không có ánh sáng,
Đêm cứ dài mãi và tối tăm sẽ bao phủ địa cầu.
Nếu không có những dấu chỉ minh chứng
Tuyệt vọng sẽ trào dâng, niềm cậy trông sẽ rời bỏ con người.
Xin cho con đọc được qua dòng lịch sử
những dấu chỉ: tình yêu không thể hao mòn,
những dấu chỉ: con người được kêu gọi vươn tới,
những dấu xác định Chúa luôn ở với loài người.
Để nhờ đó, lạy Chúa, ngày hôm nay,
con nhận ra những dấu chỉ của Ngài
rằng những người con của Ánh Sáng
phải vững niềm hy vọng và tỏa sáng tin yêu. (ĐTH)
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam