Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 58
Tổng truy cập: 1377325
NÉT ĐẸP LỜI CẦU XIN
Nét đẹp lời cầu xin
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Một thực tế trong đời Kitô hữu đó là hễ cầu nguyện thì không thể không cầu xin. Hễ nói đến cầu nguyện là người ta nghĩ ngay đến những ơn cần cầu xin. Có lẽ vì cuộc sống con người lắm gian truân và đầy dẫy những bất an, gian khổ, bên cạnh đó thì khát vọng cũng như nhu cầu của con người thì dường như vô tận. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ một chút thì việc cầu xin cũng là một cách thế cầu nguyện mang tính hiện sinh. Dù rằng theo cái nhìn tu đức truyền thống thì khi cầu nguyện, việc cầu xin xem ra không bằng việc tạ ơn, ngợi khen hay chúc tụng Thiên Chúa.
Lần kia một môn đệ nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông”. Và Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha, xin làm cho thánh danh Cha vinh hiển…; xin tha tội cho chúng con…” (x. Lc 11,1-4). Tin mừng Matthêu cũng tường thuật việc Chúa Giêsu dạy cầu nguyện với “Kinh Lạy Cha” bằng những lời cầu xin (x. Mt 6,9-13). Qua những lời cầu xin chúng ta nhận ra một vài tâm tình vừa chính đáng vừa phải đạo và cũng vừa rất “dễ thương” như sau:
1. Tâm tình tin tưởng, cậy trông vào tình yêu và quyền năng của Đấng chúng ta cầu xin: Đã cất lời cầu xin với ai, thì dĩ nhiên ít nhiều đã có sự tin tưởng và cậy trông vào người ấy. Xin với ai điều gì, thì giả thiết đã tin tưởng người ấy có khả năng thực hiện điều chúng ta xin. Xin điều gì với ai là giả thiết đã cậy trông vào tình yêu của người ấy dành cho mình. Dưới một góc độ nào đó, thì lời cầu xin cũng là một lời tuyên xưng đức tin.
2. Tâm tình thống hối, ăn năn: Nếu điều cầu xin là ơn tha thứ thì người cầu xin không chỉ bày tỏ lòng tin vào sự khoan dung của người mình xin mà còn bày tỏ sự ăn năn thống hối về lỗi lầm mình đã phạm. Theo cái nhìn này thì lời cầu xin cũng là lời xưng thú tội lỗi.
3. Tâm tình khiêm hạ nhìn nhận sự hạn chế, bất toàn và cả bất lực của mình: “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ…” (x. Lc 11,3-4; Mt 6,11.13). Nội hàm những lời cầu xin trên đây quả là một lời thú nhận sự bất toàn, bất lực của người xin. Không có ơn Chúa thì chúng ta không thể làm được sự gì tốt đẹp. Nếu Chúa không nâng đỡ, thì chúng ta không thể đứng vững trước mãnh lực của thần dữ, như “sư tử luôn rảo quanh chúng ta để rình chờ cắn xé, phân thây” (x.1P5,8).
4. Tâm tình thảo hiếu: “Nguyện cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”(x.Mt 6,9-10; Lc 11,1). Một người con biết nghĩ đến Danh, Vương quyền, Ý, Lời của Cha là một người con sống đạo thảo hiếu đúng phận.
5. Sự liên đới, tương thân tương ái trong nghĩa tình huynh đệ: Chúng ta nhận ra sự thật này qua hai từ “chúng con” của lời kinh “Lạy Cha”. Hơn nữa, khi đã tuyên xưng, nhìn nhận Thiên Chúa là Cha, thì một cách nào đó đã nhìn nhận tha nhân là anh chị em của mình. Sự tương thân tương ái được biểu hiện cách rõ nét và thiết thực bằng sự liên đới.
Câu chuyện Abraham cò kè bớt một thêm hai để xin Thiên Chúa tha thứ cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra là một minh hoạ. Lòng hiếu thảo luôn sánh đôi với nghĩa tình huynh đệ. Một người sống có tình với mẹ cha, thì hẳn luôn có lòng với anh chị em. Cũng thế, khi đã biết sống có tình với huynh đệ thì luôn làm đẹp lòng mẹ cha. Và các đấng bậc sinh thành vốn nhận tình nghĩa huynh đệ của đàn con như là một trong những cách thế đẹp nhất mà đàn con bày tỏ lòng thảo hiếu với mình. Chúng ta nhận ra sự thật này khi cha ông chúng ta đã gắn kết hai mối tình ấy bằng hạn từ ghép “tình hiếu đễ”.
Mối tình của Abraham dành cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra một cách nào đó còn bị giới hạn. Dù rằng đã dùng hết cách để có kè bớt dần con số người công chính để xin Thiên Chúa thứ tha cho dân hai thành ấy, thì Abraham đã không vượt qua con số “mười”. Điều này cho chúng ta thấy rằng mặc dù tình thân của Abraham đối với Thiên Chúa thật đậm đà, nhưng vẫn còn bị hạn chế cách nào đó vì sự mạc khải thời Cựu ước chưa hoàn hảo. Chắc hẳn Abraham luôn mong ước được thấy ngày của Con Người, ngày mà chân lý được tỏ bày cách hoàn hảo nơi Giêsu Kitô (x.Ga 8,56). Giả như ông chứng kiến ngày ấy thì ông đã bớt dần con số xuống chỉ còn một người công chính. Quả vậy, “cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng đã được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,18).
Tuy nhiên, có thể nói rằng cầu xin không phải là để Thiên Chúa biết các nhu cầu của chúng ta, vì chính Người đã biết rõ những gì chúng ta cần trước khi chúng ta cất lời khẩn xin (x.Mt 6,8). Và dĩ nhiên, đã là người Cha trên các người cha, thì Thiên Chúa sẵn sàng ban mọi sự tốt lành cho chúng ta. Và cần phải khẳng định rằng nội hàm những lời cầu xin là để giúp chúng ta nhận biết những gì chúng ta cần, và để chúng ta sẵn sàng đón nhận cũng như sẵn sàng thực thi Thánh Ý.
“Xin cho danh Cha cả sáng”. Chúng ta không xin thì trời xanh vẫn phản ánh vinh quang của Người. Chúng ta xin là để biết cách cộng tác với ơn Chúa làm cho Thánh danh Người tỏ rạng nơi cuộc đời con người chúng ta. “Xin Cha tha nợ cho chúng con”. Chúng ta chưa xin thì Đức Kitô đã chết để ban ơn tha thứ cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Cầu xin là để biết cách thế đón nhận hồng ân tha thứ Chúa đã tặng ban. Một trong những cách thế để đón nhận hồng ân thứ tha của Thiên Chúa đó là quảng đại tha thứ cho tha nhân (x.Mt 6,14-15).
Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để tiếp xúc, gặp gỡ Thiên Chúa. Tiếp xúc, gặp gỡ Chúa để biết Chúa, yêu mến Chúa và để thực hiện thánh ý của Người. Như thế, cầu nguyện, cầu xin không phải là để bắt Thiên Chúa thực hiện điều chúng ta muốn, nhưng là để bắt chính mình thực thi điều Thiên Chúa muốn. Vấn đề đặt ra đó là cần phải biết cầu xin những gì đẹp ý Chúa. Một trong những điều đẹp ý Chúa nhất đó là tôi và mọi người cùng được hưởng ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc ngay hôm nay và ngày sau.
44. Lời Kinh Tuyệt Vời - An Phong, OP
Hôm nay Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện bằng lời kinh Lạy Cha. Người muốn chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, sống tâm tình con thảo và tin tưởng phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Người muốn chúng ta cầu nguyện cho vinh danh Thiên Chúa và cho những nhu cầu cơ bản của chính chúng ta. Tuy nhiên, không phải là chúng ta xin điều gì thì được điều ấy. Thiên Chúa nhân lành không bao giờ ban điều xấu cho con cái Người là chúng ta. Quà tặng cao quý nhất là Chúa Thánh Thần, Đấng bảo trợ và nâng đỡ chúng ta.
Nguyện cho danh Cha cả sáng, lời nguyện đầu tiên xin cho Thiên Chúa được mọi người nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau.
Nguyện cho Nước Cha trị đến, lời nguyện thứ hai xin cho Nước Cha, "nước công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14,17). Nơi nào có công chính, có bình an, có hoan lạc trong Thánh Thần, nơi đó là Nước Thiên Chúa. Công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần càng lan rộng thì con người lại càng được hạnh phúc.
Nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, lời nguyện thứ ba xin cho ý Thiên Chúa được thực hiện. Thiên Chúa muốn mọi người được bình an, hạnh phúc và nhất là được cứu độ. Ý muốn của chúng ta thường hẹp hòi, ích kỷ, vì chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều. Nhưng Thiên Chúa thì khác. Hơn nữa, Thiên Chúa biết chúng ta cần thiết những gì.
Xin cho chúng con hôm nay có cơm ăn áo mặc đầy đủ mỗi ngày là lời nguyện thứ tư. Giàu có quá hoặc nghèo khó quá là hai thái cực. Cha ông chúng ta đã chẳng từng nói "no nê sinh dâm dật, túng bấn sinh đạo tặc" đó sao? Đức Giêsu muốn tránh cho chúng ta những nguy hiểm tiềm ẩn. Người muốn chúng ta thanh thoát, đừng quá lo toan vật chất mà hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa, vì như hoa huệ ngoài đồng Thiên Chúa cũng nuôi.
Xin tha nợ chúng con là lời nguyện thứ năm. Con người ở đời không ai là hoàn hảo cả, không lỗi này thì lỗi khác, không tội lớn thì tội nhỏ. Như thế, con người mang gánh nặng, mang nợ. Con người cần Thiên Chúa tha nợ. Nhưng điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ là con người cũng phải biết bỏ qua cho anh em mình "như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ là lời nguyện thứ sáu. Cám dỗ là một thực tế trong đời người. Bao lâu con người còn sống, bấy lâu còn cám dỗ. Cám dỗ đến từ bên ngoài, do người khác, do hoàn cảnh; cám dỗ đến từ bên trong, do chính nội tâm, thâm sâu mỗi người.
Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ là lời nguyện thứ bảy. Sự dữ là những gì không tốt xảy đến cho con người, là bị tai nạn, bị thiệt hại, bị hãm hại... nói chung là điều xấu. Xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta luôn bình an, hạnh phúc.
Kinh Lạy Cha là lời kinh duy nhất Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện. Khi đọc lời kinh này trong tâm tình con thảo, đọc chậm rãi, vừa đọc vừa suy niệm, chúng ta làm phong phú đời sống tâm linh của mình mỗi ngày.
Lạy Cha trên trời là Cha chúng con.
Chúng con dâng Cha tâm tình ngợi khen,
chúc tụng, thống hối và nguyện xin.
Chúng con nguyện cho mọi người nhìn nhận Cha
là Chủ tể trời đất muôn vật,
là Đấng thống lãnh, điều khiển lịch sử nhân loại.
Chúng con nguyện cho sự công chính, bình an
và hoan lạc trong Thánh Thần ngự trị khắp mọi nơi.
Chúng con xin dâng ý riêng con
để cầu cho thánh ý Cha được thành tựu khắp nơi.
Xin cho chúng con trở nên những người nghèo khó,
biết chấp nhận cuộc đời,
biết chấp nhận con người.
Xin gìn giữ chúng con luôn được bình an, hạnh phúc.
Amen.
45. Lạy Cha chúng con – Như Hạ, OP
Cầu nguyện là một nhu cầu đặc biệt. Tôn giáo được lập ra để đáp ứng nhu cầu căn bản và lớn lao đó. Cầu nguyện là một hành vi cao cả nhất của con người và đặc tính xác định bản chất và giá trị con người. Tất cả tinh túy Kitô giáo đều tìm thấy trong lời kinh "Lạy Cha." (Lc 11:2)
CẦU NGUYỆN LÀ LẼ SỐNG.
Ðức Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện. Nói khác, chính Chúa đã dẫn các môn đệ đi vào tương giao sâu xa với Chúa Cha. Khi đã bắt được tương quan sâu xa đó, họ sẽ không còn thấy một cản trở nào và cũng chẳng cần một trung gian nào nữa. Sự thánh thiện không làm Chúa xa lạ với những nhu cầu con người. Quyền năng tuyệt đối không khiến Người độc đoán và cao ngạo trước số kiếp lầm than của nhân loại. Vấn đề là con người có dám thưa "lạy Cha" với Ðấng Tạo Hóa hay không. Càng gần Thiên Chúa, con người càng thánh thiện vì "danh Người thật chí thánh chí tôn." (Lc 1:49) Sự thánh thiện của tín hữu làm vinh danh Thiên Chúa, vì phản ánh vinh quang Thiên Chúa. Chính vinh quang đó đã chiếu tỏa mãnh liệt trên dung nhan Ðức Giêsu, Ðấng khai mạc triều đại Thiên Chúa. Bởi vậy, xin cho "Triều Ðại Cha mau đến," (Lc 11:2b) nghĩa là xin cho ơn cứu độ mau thành tựu nơi nhiệm thể Ðức Giêsu.
Ðó là chiều kích cánh chung của kinh "Lạy Cha". Chiều kích cánh chung phải gắn liền với chiều kích "hôm nay" (Lc 19:9 tt) với những nhu cầu rất thực tiễn của cuộc sống cộng đoàn và cá nhân. Quả thế, thực tế chừng nào khi Chúa dạy chúng ta "xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy." (Lc 11:3) Lời cầu nguyện phát xuất từ niềm tin. Niềm tin không xa rời thực tế để chỉ cắm chặt vào những thực tại trên trời. Trái lại, niềm tin cho thấy ngay cả những nhu cầu hiện tại con người cũng tùy thuộc vào lòng từ bi và quyền năng Cha trên trời. Bởi thế, cầu xin Cha ban cho lương thực hằng ngày là điều hợp lý.
Phải chăng lương thực hằng ngày chỉ đáp ứng cho những nhu cầu cấp bách? Nếu thế, làm sao con người bắt kịp tốc độ triều đại Chúa đang đến? Quả thực, cần phải có một thứ lương thực tương lai, tức là Thánh Thể, để con người có thể nếm trước và nhập tiệc cánh chung với Chúa. Cả hai thứ lương thực trần gian và thiên quốc đều cần thiết cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Tình yêu Thiên Chúa tràn ngập trong những lương thực này. Thiên Chúa lo lắng cho cuộc sống con người. Người muốn con người thực sự hạnh phúc ngay trong phút giây hiện tại. Hạnh phúc đó không dừng lại trong hiện tại và phải vượt qua ranh giới cánh chung, để tìm đến hạnh phúc đích thực trong Thiên Chúa. Chỉ có lương thực tương lai mới bảo đảm những bước tiến đó mà thôi. Không có lương thực tương lai, lương thực hiện tại hoàn toàn bất lực trong việc chuẩn bị con người nhập tiệc vui với Chúa.
Căn cứ vào đâu biết Thiên Chúa lo lắng đến tương lai chúng ta? Nếu Người không lo lắng đến hạnh phúc con người, chắc chắn không bao giờ Người được gọi là "Cha". Ðúng hơn, Người vượt trên mọi người cha trần gian trong việc thi thố tình yêu đối với con cái. Ðức Giêsu quả quyết: "Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?" (Lc 11:13) Chỉ những người có đức tin mới có thể thấy được sức nặng của lời quả quyết đó. Quả thực, đức tin mạc khải rõ Cha quan tâm sâu xa đến nhu cầu đời sống hằng ngày của mỗi người chúng ta.
Nhưng tình yêu Thiên Chúa không chỉ thể hiện qua lương thực hằng ngày, dù là vật chất hay thiêng liêng. Tình yêu Chúa chính là sức mạnh cứu độ. Cứu độ có nghĩa là tha thứ. Chính vì thế, Ðức Giêsu không quên dạy chúng ta xin Cha "tha tội cho chúng con." (Lc 11:4) Ðây là một lời cầu xin quan trọng. Vì nếu không được tha thứ, chúng ta vẫn còn là thù địch của Thiên Chúa. Như thế, làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc? Không có Chúa, chúng ta sẽ hoàn toàn mất bình an. Chính vì thế "Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta." (Cl 2:13) Một bằng chứng rõ ràng là "Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Ðức Kitô." (Cl 2:13) Nói khác, Thiên Chúa đã giao hòa với chúng ta trong Con Một Chí Ái Người.
Nhưng cuộc giao hòa này không chỉ có một chiều. Nói khác, không thể xin Cha tha thứ nếu chính chúng ta không tha thứ cho anh em. Bởi vậy, sau khi "xin tha tội cho chúng con", chúng ta phải thưa ngay: "vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con." (Lc 11:4) Cuộc sống hằng ngày với những tương quan chằng chịt lại có sức tạo một nền tảng vững chắc cho lời cầu xin tha thứ tự trời cao. Hai chiều ngang dọc liên đới với nhau trong một huyền nhiệm tình yêu tuyệt vời. Tinh thần Kitô hữu không thể rời xa mối liên đới sâu xa đó.
Sau cùng, trước những hiểm nguy tiến về nhà Cha, con người không thể không cần đến sức mạnh cứu độ của Chúa. Ðức Giêsu chính là sức mạnh đó. Thực tế, chúng ta "đã cùng được mai táng với Ðức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi đậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Ðấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết," (Cl 2:12) Chỗi dậy với Người tức là thoát ách tử thần mà bước vào cõi hằng sống. Ðó là cơn thử thách lớn nhất con người không thể vượt qua được nếu không nhờ sức mạnh Chúa Thánh thần. Chính vì thế, Ðức Giêsu mới quả quyết Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người (Lc 11:13). Thánh Thần là bảo đảm lớn nhất và vững chắc nhất cho những ai đang đặt tất cả niềm hi vọng nơi Thiên Chúa.
Nhưng muốn lãnh nhận được Thánh Thần, cần phải kiên trì cầu nguyện hằng ngày. Lời cầu xin hằng ngày cũng là một thách đố lớn. Không phải lúc nào cũng đón nhận kết quả mau lẹ như ý muốn. Nhiều khi kéo dài hằng mấy chục năm. Ðiển hình là trường hợp thánh nữ Monica. Nhờ ơn Chúa, thánh nữ đã vượt qua thử thách đó và đã chứng kiến sức mạnh lời cầu nguyện nơi Augustinô. Chắc chắn thánh nữ đã hiểu rõ dụ ngôn về người bạn quấy rầy và lì lợm trong Tin Mừng Lc 11:5-8. Chúa quá yêu thương chúng ta, không thể cầm lòng nổi trước tiếng nài van khẩn thiết của đoàn con bé mọn. Khác hẳn với các người cha trần gian, Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Tình yêu đó đã hoạt động mãnh liệt ngay từ Giáo hội tiên khởi. Thánh Thần là một bảo chứng lớn lao của tình yêu đó và là một tặng phẩm tuyệt vời Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội.
Giáo hội tiên khởi may mắn được Mẹ Maria hợp lực nài xin Chúa sai Thánh Thần. Các tông đồ đã xác tín tuyệt đối vào lời Chúa: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho." (Lc 11:9) Chúa đã nhận lời Ðức Mẹ và các tông đồ vì các ngài là những người công chính. Sự công chính là một sức mạnh kéo Thiên Chúa chú ý đến lời cầu nguyện. Từ xưa, Abraham cũng đã được Chúa lắng nghe vì là người công chính. Lời cầu nguyện của ông giống như một sự mặc cả. Từ con số năm mươi người lành, ông đã rút dần xuống mười người để cứu vãn thành Xơđôm. Thật là đơn sơ và chân thành! Không ngờ Chúa cũng chấp nhận tất cả những đề nghị của ông Abraham. Ngày nay, nếu có phải "mặc cả", chúng ta không mất công "cò kè bớt một thêm hai" như kiểu Abraham. Chúng ta đã có một thế lực rất lớn là giá máu Thánh Tử Chí Ái là Ðức Giêsu. Ðức Giêsu là người công chính. Người công chính nói gì Chúa cũng lắng nghe. Bao lâu sống bất chính và bất công, chúng ta không xứng đáng dâng lên Chúa một lời nguyện nào, chứ đừng nói đến chuyện được Chúa chấp nhận. Thánh Phaolô đã vạch trần sự thật: "trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã." (Cl 2:13) Nhưng giờ đây "Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá." (Cl 2:14) Thế là chúng ta an tâm khi dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa.
CỘNG ÐỒNG CẦU NGUYỆN.
Lời cầu nguyện được thốt lên từ lòng người và trong cộng đồng. Con người được kêu gọi để làm thành những cộng đồng cầu nguyện, tức là tôn giáo. Càng cầu nguyện, càng thấy mình phải hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Cá nhân hay tập thể đều thấy mức độ lệ thuộc lớn lao đó. Ðứng trước nhan Chúa, cá nhân có những ưu thế hơn tập thể, vì có thể chìm sâu trong tương quan vô tận với Thiên Chúa. Nhưng cá nhân vẫn cảm thấy thiếu thốn và cần đến chiều kích cộng đồng trong lời cầu nguyện. Bởi đấy, trong lời kinh Lạy Cha, Ðức Giêsu đã dạy chúng ta phải cầu nguyện trong thế liên kết với anh em. Nói khác, người ta không thể đọc kinh Lạy Cha trong tư thế cá nhân. Cầu nguyện Kitô giáo luôn mang tính cộng đồng. Dù cầu nguyện một mình, người tín hữu cũng đọc: "Lạy Cha chúng con." Ðúng hơn, Giáo hội là một cộng đồng cầu nguyện với Thiên Chúa. Cộng đồng có nhiều cách sống niềm tin. Nhưng cầu nguyện là cách thể hiện niềm tin mãnh liệt nhất của cộng đồng.
Ngày nay cộng đồng niềm tin đang bị cản trở cầu nguyện dưới mọi hình thức. Khi không tôn trọng tự do tôn giáo, các chính quyền độc tài đã khinh thường và chà đạp nhân phẩm con người. Tôn giáo là cao điểm của mọi hoạt động nhân loại. Tôn giáo nâng cao con người trên vạn vật. Chỉ con người mới có tôn giáo. Nói khác, nếu không có tôn giáo, con người hoàn toàn giống con vật với những nhu cầu trước mắt mà thôi. Bởi thế, "tự do tôn giáo là một trong những cách diễn tả cao độ nhất lòng kính trọng nhân phẩm con người." (CWNews 23/7/2001) Không tôn trọng tự do tôn giáo, các giá trị khác sẽ bị đe dọa trầm trọng.
Tôn giáo không tách rời khỏi cuộc sống và không phải là một cản trở bước tiến nhân loại. Trái lại, càng sống niềm tin tôn giáo, người ta càng cảm thấy liên đới và thấy rõ hướng tiến của nền văn minh. Thực vậy, có lẽ vì thấm nhuần tinh thần Kinh Lạy Cha, "Hoa Kỳ đã nêu gương trong việc xóa nợ cho 18 nước Phi châu." (Tổng thống Abdoulaye Wade, Senegal, CWNews 24/7/2001) Theo Tổng thống Wade, "các nước giàu đang bắt đầu lắng nghe những đòi hỏi thúc bách của những nước nghèo. Ðến lượt mình, các nước trong thế giới thứ ba phải có những cam kết cụ thể nhập cuộc vào tiến trình toàn cầu hóa." (CWNews 24/7/2001) Tiến trình toàn cầu hóa phải làm cho mọi người liên đới với nhau trong trách nhiệm và quyền lợi như Kinh Lạy Cha đã vạch ra. Nếu không liên đới như thế, nhân loại sẽ không tránh được tai họa tự hủy diệt. Ðó là sự dữ lớn nhất chúng ta phải cầu xin hằng ngày.
Con đường dẫn tới sự dữ đó chính là cám dỗ đang vây bọc quanh ta. Bởi đấy chúng ta không ngừng thưa với Chúa: "Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ." (Lc 11:4) Cám dỗ là sản phẩm của "văn minh sự chết", đối nghịch với "văn minh sự sống". Trước những cám dỗ thời đại như việc tạo sinh vô tính con người hay cuộc nghiên cưú lấy tế bào gốc từ phôi thai người, chúng ta phải cầu nguyện cùng Cha trên trời ban cho nhân loại khả năng liên đới với nhau để xây dựng "nền văn minh sự sống". Hiện tại, "nền văn minh sự sống" đang gặp nhiều vấn đề. Trong niềm tin, Kitô hữu xác tín rằng "Ðức Giêsu Kitô là giải pháp duy nhất giải quyết những vấn đề thế giới hôm nay. Tin Mừng là liều thuốc chữa trị những khủng hoảng của một xã hội đầy?tự mãn và thất vọng?, và đó cũng là nguồn gốc phát sinh một?cuộc cách mạng văn hóa? cần thiết cho việc phát triển các dân tộc Miền Nam thế giới." (CWNews 24/7/2001) Nhưng giải pháp duy nhất đó chỉ đến với nhân loại khi tất cả đều nhất trí cầu nguyện: "Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Ðại Cha mau đến" (Lc 11:2) nơi Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu độ duy nhất của toàn thể nhân loại. Maranatha! Lạy Chúa, xin mau đến!
46. Tình thân của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cách đây gần 30 năm, thời còn mài đũng quần ở Chủng Viện, khi học môn Kinh Thánh thì một trong những đoạn trích Cựu Ước khiến tôi vừa thích thú vừa cảm nhận tình thân của Thiên Chúa cách xâu xa đó là đoạn văn kể chyện Abraham cò kè, mặc cả với Giavê Thiên Chúa ( St 18, 16-33 ) để xin tha cho hai thành Sôđôma và Gômôra.. Xin được bộc bạch chút tâm tình cá nhân.
Tình thân của Thiên Chúa: “ Đức Chúa phán: Ta có nên giấu Abraham điều ta sắp làm chăng?” ( St 18,17 ). Một câu tự hỏi cũng là câu trả lời cách rành rõi. Đã yêu nhau thì không điều gì phải giấu nhau. Không thể nói yêu thương nếu không tín nhiệm lẫn nhau. Làm sao ta có thể nói mình tín nhiệm một ai đó mà còn nhiều điều ta không muốn bộc bạch. Một Đấng vượt trên mọi sự mọi loài, là căn nguyên và cùng đích của mọi loài mọi sự lại thể hiện tình thân ái với một con người, quả là điều chỉ có thể hiểu được trong tình yêu. Tình yêu xóa tan mọi ngăn cách chức phận. Tình yêu đã khiến Đấng chí Tôn nên như đồng phận đồng thân với kẻ Người yêu. Trong tình yêu thì không còn gì là “bí mật” cần giữ kỷ. Nét đáng kinh ngạc ở đây là sáng kiến của người ở vai chí cao, ở phận chí tôn. Không đợi Abraham hỏi, không chờ Abraham tò mò hay hiếu kỳ. Giavê đi bước trước tỏ bày ý định, chương trình của mình.
Sự to gan và cũng là cách đáp trả rất thân tình của Abraham: Có kè, bớt một thêm hai cùng với những luận điệu rất dễ thương, Abraham đã đáp trả lại tình thân của Giavê cách dí dỏm vừa đúng phận vừa hợp tình. “ Mặc dầu con con chỉ là tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa…; Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp…; Xin Chúa đừng giận,cho con nói một lần này nữa thôi…”, những câu nói mào đầu không chỉ mang tính “phải phép” mà còn ẩn chứa một tình thân sâu đậm. Cái tình ấy lên đến đỉnh cao khi Abraham dường như chân thành góp ý với cả Giavê: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó vì năm mươi người lành đó sao? Ngài làm như vậy chắc không được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao?”( St 18,23-25 ). Abraham làm như muốn chỉ dạy cả Giavê!
Sự tuyệt vời của tình yêu không chỉ thể hiện nơi sự to gan của Abraham mà còn nổi rõ cách đáng kinh ngạc nơi thái độ của Giavê. Giavê sẵn sàng nghe theo sự “khuyên can” của Abraham. “ Nếu Ta tìm ra được trong thành Sôđôma năm mươi người lành thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho cả thành đó”. Và cái điệp khúc tình yêu ấy lặp đi lặp lại với con số người lành mà Abraham bớt dần bớt dần.
Tình yêu thật diệu kỳ. Đã yêu nhau thì dường như mọi sự đều là có thể. Khi đã yêu thì sự thẳng thắn, chân thành với nhau là điều tất yếu. Khi đã yêu thì không ngần ngại bộc bạch tâm can nổi lòng. Khi đã yêu thì sẵn sàng vượt mọi rào cản để chia sẻ với nhau ý tình, chia sẻ với nhau cả những lời góp ý và sự bảo khuyên. Và khi đã yêu thì sự lắng nghe nhau là điều tất yếu cho dù mình đang ở vai trên, đang đảm nhận chức lớn.
Abraham thật tuyệt vời nhưng vẫn chưa cảm nhận hết tình thân của Giavê: Cuộc mặc cả, có kè đã dừng lại với con số mười. Đang trong phận người, Abraham vẫn còn đó nhiều giới hạn. Dù được gọi là cha của kẻ tin, nhưng đức tin chỉ dẫn chúng ta đến mức đón nhận chân lý cách “lờ mờ như nhìn thấy trong gương” ( x. 1Cr 13,12 ). Đâu phải là những tấm gương bằng kính được tráng bạc như ngày nay mà chỉ là những tấm đồng được đánh bóng mà thôi. Đức tin là cánh cửa dẫn đến đức ái. Có nhiều thực tại trần thế này ta chỉ có thể hiểu nhờ tình yêu hơn là lý trí. Để đến cùng Thiên Chúa là Tình Yêu đích thực thì trí khôn của ta có giới hạn. Ngay cả với con tim nhân trần chúng ta trong kiếp người lữ thứ cũng không thể nào thấu đạt Đấng là nguồn tình yêu. Abraham dừng lại với con số mười là lẽ đương nhiên. Dù Abraham chưa thấu hiểu mối thân tình của Giavê Thiên Chúa, nhưng hôm ấy Thiên Chúa đã phần nào làm theo lời “khuyên bảo” của ông. Bằng chứng là dù bà vợ ông Lót có bị hóa ra tượng muối vì không tuân lệnh nhưng gia đình ông Lót đã được cứu sống (x. St 19,1-29 )
Đến thời viên mãn, khi Đức Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, nhân loại chúng ta mới được tỏ bày chân dung của Thiên Chúa cách tròn đầy, hoàn hảo. “ Ai thấy Thầy là Thấy Chúa Cha” ( Ga 14,9 ). “Thuở xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” ( Dt 1,1-2 ). Thiên Chúa đã tỏ bày chính Người cách trọn vẹn và hoàn hảo qua Đức Giêsu Kitô. Chính vì thế mà những người ở thời Tân Ước được cao trọng hơn cả Gioan Tiền Hô, không phải do bởi công trạng của họ nhưng là nhờ được Thiên Chúa tự tỏ bày cách đủ đầy.
Abraham đã trông mong được thấy ngày của Đức Kitô ( x.Ga 8,56 ). Giả như Abraham thấy được ngày của Đức Kitô hôm ấy thì ông đã không dừng lại ở con số mười. Ông có ngờ đâu, nếu ống cứ tiếp tục có kè bớt dần cho đến con số một thì Giavê Thiên Chúa cũng sẽ nói: vì một người công chính, Ta cũng sẽ tha cho cả thành. Thánh Tông đồ dân ngoại đã triển khai chân lý này trong thư gửi tín hữu Rôma. Vì một người công chính duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã ban ân sủng dồi dào cho nhân loại và cho muôn người được nên công chính để được sống đời đời ( x. Rm 5,12-21 ).
Một con đường để đến với Đấng là Tình Yêu: Trở nên dễ yêu và sống thân tình trước nhan Thiên Chúa. Hiểu được cái tình của Thiên Chúa, biết được cung cách của Thiên Chúa, thì thiết tưởng, không gì hơn hãy trở nên dễ yêu như chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Sống với Chúa, sống trước nhan Thiên Chúa cách thân tình như trẻ thơ trong vòng tay của bố, của mẹ. Không thể nào tránh được lầm lỗi khi đang trong kiếp người “bất thập toàn”. Nhưng khi ta sống đơn sơ, trung thực trước nhan thánh Chúa thì những sai lầm ấy đã được yêu. Chuyện kể: “ Một bé gái sáu tuổi đang nhổ tóc bạc cho mẹ, bé đơn sơ: “Sao tóc mẹ từ đen hóa ra màu trắng vậy?” Bà mẹ giỡn yêu con gái: “ Cứ mỗi lần con hư là một sợi tóc của mẹ từ đen hóa ra trắng bạc đó”. “À, con hiểu rồi – Bé gái nhanh nhẩu ra vẻ khám phá điều mới lạ - Con hiểu vì sao tóc bà ngoại bạc trắng cả đầu”. Bà mẹ trẻ cười khanh khách và ôm con vào lòng.
47. Kinh Lạy Cha – Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Kinh Lạy Cha là kinh nguyện đầu tiên, vĩ đại nhất trong mọi kinh nguyện Kitô giáo, kinh duy nhất do Đức Kitô sáng lập. Nó bao gồm mọi tương quan giữa Thiên Chúa với chúng ta và giữa chúng ta với nhau. Nó không chỉ dạy cần cầu nguyện về điều gì, còn dạy ta cầu nguyện thế nào. Nó là khuôn mẫu cho mọi kinh nguyện. Nếu sống theo những điều dạy trong đó, chúng ta hoàn toàn hợp với tâm hồn của Đức Kitô. Bởi chắc chắn đó là điều chính Người cầu nguyện và sống theo. Kinh lạy Cha được chia làm hai phần:
Phần thứ nhất: Tương quan với Thiên Chúa
Mở đầu kinh nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. Nhiều dân tộc phương Đông coi thần linh như Cha. Dân Do thái cũng gọi Thiên Chúa là Cha, như nhiều tôn giáo khác (Hs 13, 3; Gr 3, 19; Is 63,16; Kn 5,5). Nhưng để tránh nguy cơ hạ giá Thiên Chúa xuống mức độ con người, Cựu ước thường rất họa hiếm kêu Thiên Chúa như Cha. Phần Đức Giêsu, chẳng những gọi Thiên Chúa là Cha, Người còn dùng từ thân mật hơn nữa, từ chỉ đứa trẻ thơ, trẻ vừa thôi bú, bập bẹ biết nói gọi cha mình: "Abba!"Cha ơi! Qua đó, Đức Giêsu muốn nói, chúng ta có một người Cha toàn năng, Chúa Trời đất, nhưng lại rất dịu hiền thương yêu ta hơn mọi người cha trần gian. Ta hãy nguyện cho danh Cha cả sáng, được nhiều người biết đến. Khi chúc tụng Danh của Người, chúng ta chúc tụng chính Người.
Kế đó, Đức Giêsu dạy ta phải xin cho Nước Cha mau đến, Nước của Sự thật và Sự sống, của Thánh thiện và Ân sủng, của Công chính yêu thương và Bình an. Người Dothái cầu nguyện như thế trong kinh Qaddish: "Xin làm cho Danh cao cả của Người được thánh hóa trong thế gian, mà Người tạo dựng theo ý chí của Người. Xin Người làm cho triều đại Người được hiển trị và sự giải thoát được nảy mầm, Đấng Messia của Người đến gần". Có điều khi đọc kinh Qaddish, người Dothái không biết bao giờ Đấng Messia đến và khi nào triều đại Thiên Chúa sẽ hiển trị. Phần Đức Giêsu biết, Đấng Messia chính là Ngài và triều đại của Thiên Chúa đến rất gần. Nó đã hình thành, nhưng không phải cách huy hoàng, song như một ít men, như một hạt giống vùi sâu trong lòng người (Mt 3,2-4; 17,10). Chúng ta đều có phần tham gia kiến tạo cho triều đại Chúa mau đến, bằng cách sống và rao giảng cho Triều đại đó tiến lên.
Đức Giêsu cũng dạy chúng ta, phải xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất, dưới trần gian này. Thánh ý Chúa luôn là điều tốt đẹp, nhưng không phải là điều dễ thực hiện, nhất là trong cuộc sống, bởi ta là con người có ý chí tự do.
Phần thứ hai: Tương giao giữa chúng ta với nhau, những khát vọng của chúng ta.
Đức Giêsu gợi ý chúng ta xin Cha bốn điều: lương thực, biết tha thứ, chiến thắng cám dỗ, thoát sự dữ.
"Xin Cha cho chúng con lương thực hàng ngày". Lương thực đây, có nghĩa là mọi khát vọng vật chất. Đó là thứ chúng ta thực sự cần. Tuy nhiên, chỉ hàng ngày dùng đủ. Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh, không nên quá lo lắng về ngày mai, ngày mai có cái lo của ngày mai (Lc 12, 22-23; Mt 6, 34). Trong cuộc xuất hành qua sa mạc, Dân Chúa không thể tích trữ lương thực manna trước cho nhiều ngày (Xh 16,4). Sách Châm Ngôn cũng dạy: "Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng để con giầu có, xin cho con cơm bánh cần dùng" (Cn 30,8). Đối với những người giàu có, khi đọc lời nguyện này, cần lưu ý từ "chúng con", chia sẻ lương thực với những người đang đói.
"Xin tha kẻ có nợ chúng con, như chúng con tha kẻ có lỗi với chúng con". Một cô bé đã nói với thầy dạy giáo lý: "Một Kitô hữu chính là một người biết tha thứ". Tuy nhiên, để được Thiên Chúa tha thứ, ta cũng phải tha thứ cho người anh em. Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót (Mt 18, 23-35), để dạy về điều này.
"Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ". Cám dỗ lớn nhất, kinh khủng nhất là đánh mất đức tin. Ở vườn Giệtsimani, Đức Giêsu đã khuyến cáo các bạn hữu của Người: "Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22, 40; 22, 46). Vâng, cám dỗ lớn nhất của các môn đệ là bỏ rơi Đức Giêsu. Bởi thế, khi rao giảng Đức Giêsu đã nói: "Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?" (Lc18,8). Trong dụ ngôn gieo giống, Đức Giêsu nhắc ta phải cảnh giác: Có những người tín trung trong một thời gian nào đó, đến giờ thử thách, bị cám dỗ, họ đã chối bỏ đức tin (Lc 8,13).
"Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ". Cuối cùng, chúng ta cầu xin thoát khỏi sự dữ cả về thể lý và luân lý. Chúng ta không mong muốn gặp sự dữ. Điều chúng ta xin Chúa là ơn chiến thắng mọi sự dữ, nhất là sự dữ luân lý.
"Dụ ngôn người bạn quấy rầy". Sau khi dạy các môn đệ phải cầu nguyện thế nào, Đức Giêsu lại đưa ra dụ ngôn dạy họ biết phải làm sao, để lời xin của họ được chấp nhận. Ở Paléttin thời Đức Giêsu, căn nhà chỉ có một phòng. Cánh cửa đóng lại có xà lớn dùng làm then cửa. Giường chiếu là một tấm nệm thật lớn, trải trên nền nhà. Con cái ngủ gần cha mẹ. Để mở cửa, phải nhọc mệt lắm và rất rộn ràng, khiến mọi người phải thức dậy. Trong những điều kiện như vậy, người ta mới hiểu sự tức tối của kẻ bị đánh thức lúc nửa đêm, để giúp đỡ bạn bè. Tuy nhiên, để được bình an, khỏi bị quấy rầy, người ta phải chào thua và chiều theo lời khẩn khoản của bạn.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài sẽ nghe lời kẻ liên lỉ cầu xin. Lời kinh nguyện dai dẳng và đầy tin tưởng không biết chán, dù không được Chúa chấp nhận tức khắc, rồi cũng sẽ được Chúa nhận lời sau này. Thầy thông luật Israel nói: "Người ngu xuẩn thắng được sự dữ, thì đối với Thiên Chúa tốt lành, anh ta lại dễ dàng chiến thắng hơn". Đức Giêsu cũng đưa ra dụ ngôn quan tòa bất chính và bà quấy rầy (Lc 18,1-8) để dạy về điều này.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam