Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1379822

NGÀY CHÚA NGỰ ĐẾN

Ngày Chúa ngự đến – R. Veritas.

(Trích trong ‘Suy Niệm Và Giảng Lễ Mỗi Ngày’)

Vào năm 1987, người ta cho chiếu cuốn phim tựa đề: “After day” kể lại tình cảnh của ít người dân một thành phố lớn thuộc miền Bắc, Hoa Kỳ, còn sống sót sau một vụ nổ bom nguyên tử. Vụ nổ bom hạt nhân đã xảy ra vì cái điên loạn của con người quyết định dùng vũ khí hạt nhân để hủy diệt sự sống của mọi sinh vật thuộc nhiều đại lục trên thế giới. Ngày tận thế ấy kéo theo cảnh chết chóc hoang tàn và đổ nát, đau khổ và thất bại của những người đang chờ mình phải chết vì bị nhiễm chất phóng xạ, bị thương tích và bị thiếu thức ăn chất uống. Trong cảnh đổ nát hoang tàn và chết chóc ấy, những người sống sót của nhiều khu phố khác nhau đã tranh giành từng miếng bánh, từng chút bột, từng ngụm nước. Trong nháy mắt, thế giới văn minh của loài người biến khỏi mặt đất và con người đứng trước cảnh đổ nát với hai bàn tay trắng bất lực và tuyệt vọng.

Các bài đọc Chúa nhật hôm nay cũng nói với chúng ta về ngày tận thế, nhưng không phải là thứ ngày tận thế của chết chóc, buồn thương, mà là ngày tận thế khởi đầu cho một cuộc sống mới, cuộc sống của tự do và của ơn cứu độ. Chương 33,14-16, sách Tiên tri Giêrêmia là một lời sấm và là văn bản tìm hiểu cho nền thần học cứu thế của Kinh Thánh Cựu Ước. Điểm nòng cốt của thần học cứu độ là sự chờ đợi ngày Đấng Thiên Sai, ngày Đấng Cứu Thế đến để thiết lập trời mới đất mới trong thế giới loài người. Trong “những ngày đó” hay “vào thời đó” là kiểu nói Kinh Thánh dùng để diễn tả tiến trình hiện thực của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa có đối với nhân loại theo ý muốn và sự sắp xếp quan phòng của Ngài, đặc biệt dưới thời điểm và các biến cố của lịch sử mà Thiên Chúa có đối với nhân loại theo ý muốn và sự sắp xếp mà Thiên Chúa chọn. Trong bối cảnh của chương 34, ngày đó và thời đó có ý ám chỉ tình trạng sống lưu vong, ngày buồn thương của dân Do Thái, thảm cảnh phân rẽ của hai vương quốc Bắc Nam. Nhưng Thiên Chúa sẽ tụ tập dân chúng thuộc hai vương quốc lại với nhau và cho họ được thoát kiếp sống nô lệ, đày ải, để trở về quê cha đất tổ.

Tuy nhiên, lời sấm trên đây của Thiên Chúa vượt xa khỏi khung cảnh lịch sử của dân Do Thái. Bởi vì nó có thể được áp dụng vào cuộc sống của con người thuộc mọi thời đại, ở khắp nơi trên thế giới này. Một con người bị tội lỗi phân rẽ trong chính tâm lòng nó và sống kiếp đày ải xa rời Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Ngài cống hiến ơn cứu độ cho tất cả mọi người, trong các thời điểm khác nhau, liên tục trong dòng lịch sử. Do đó, vấn đề là chúng ta có nhận ra thời điểm cứu độ đó hay không?

“Mầm giống sự công chính” là tên thường Kinh Thánh dùng để gọi Đấng Cứu Thế. Trong sa mạc nóng bỏng khô cạn của loài người, trên thân cây khô héo khẳng khiu của dòng tộc Đavít, Thiên Chúa khiến cho chồi lộc của niềm hy vọng và của ơn cứu độ nảy mầm tươi tốt. Tên gọi “Mầm giống sự công chính” diễn tả khí thế hành động của Thiên Chúa. Nếu tâm tính loài người thích phô trương, khoe khoang và chọn lựa cái vĩ đại, to tát, thì Thiên Chúa ưa thích kiểu cách hành sự khiêm tốn, kín đáo nghèo hèn, bé nhỏ. Đó là hình ảnh Đấng Cứu Thế trẻ thơ được sinh ra từ lòng Trinh Nữ Maria. Chính Ngài là mầm giống của sự sống mới mà Thiên Chúa muốn cấy trồng vào giữa lòng lịch sử nhân loại.

Mặc dầu nhân loại tội lỗi, khô cằn và hấp hối, nhưng qua mầm giống sự công chính là Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa không ngừng cống hiến nhựa sống thiêng linh của Ngài cho con người. Đấng Cứu Thế sẽ tái lập công bằng và vương quốc tinh thần của Ngài, trong đó, Ngài sẽ được gọi là Thiên Chúa sự công chính của chúng ta.

Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, sự công chính đồng nghĩa với ơn cứu độ toàn vẹn mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Nó bao gồm mọi chiều kích cuộc sống con người từ chính trị, kinh tế, cho đến xã hội và tôn giáo. Con đường sự sống, con đường dẫn đến ơn cứu độ là con đường dẫn đến trời mới đất mới. Do đó, thời điểm của Thiên Chúa, ngày Thiên Chúa đến trong tâm lòng và cuộc sống cho con người, không phải là ngày tận diệt, mà là ngày giải phóng. Bởi vì nó khai mào cho một cuộc sống mới, cuộc sống theo tinh thần của con cái Thiên Chúa.

Qua văn bản các hình ảnh biểu tượng của nền văn chương Khải Huyền, chương 21 Phúc Âm thánh Luca ghi lại lời Chúa Giêsu kêu mời chúng ta biết tỉnh thức nhận ra các dấu chỉ của thời điểm cứu độ ấy trong đời mình. Để đường lối cuộc hẹn hò với Thiên Chúa, niềm tin vào ơn cứu độ và giải phóng giúp chúng ta hiên ngang ngẩng đầu lên sống tươi vui, tin tưởng ngay giữa những gian lao thử thách và khổ đau của cuộc đời. Vì thế cho nên, những biến động và tai ương cho dầu có kinh thiên động địa đến đâu đi nữa, cũng đều là các dấu chỉ kêu mời chúng ta hồi tâm suy nghĩ và hoán cải tâm lòng, chớ không được khiến cho chúng ta khiếp sợ, tê liệt, khép kín và chán nản thất vọng.

“Con Người” là tước hiệu Kinh Thánh dùng để diễn tả hoạt động của Chúa Giêsu cứu thế. Trong tư cách là vị quan án tối cao phán xử mọi loài, mọi vật trong thời cánh chung, Chúa Giêsu đã đến trong dòng lịch sử nhân loại và trong lịch sử Tin Mừng cứu độ, qua cuộc khổ nạn cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chúa Giêsu tiếp tục đến qua lời Ngài, qua tin vui cứu độ được Giáo Hội tiếp tục rao giảng và Chúa Giêsu sẽ trở lại trong ngày lịch sử cứu độ thanh toán bản án. Muốn nhận ra sự hiện diện và bước chân của Ngài, chúng ta phải biết tỉnh thức và cầu nguyện, nghĩa là sống và hành sự theo tinh thần Đức Kitô, luôn để cho ánh sáng Tin Mừng cứu độ chiếu soi đời mình. Đặc biệt trong những bước đi, trên những đoạn đường hầm đen tối của cuộc đời này. Chính thái độ tỉnh thức và cầu nguyện ấy sẽ giúp chúng ta không nặng nề ngủ quên trong cuộc sống của thế giới vật chất, tiêu thụ và hưởng thụ, và không để cho tâm lòng của chúng ta bị thế giới vật chất nặng nề cầm chân và nhận chìm cuộc sống thiêng linh mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Chúa Giêsu là một mầm giống cần được vun trồng, chăm bón, ấp ủ với hơi ấm của con tim và ánh sáng của niềm hy vọng.

Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thêsalônica, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta thấy một bí quyết để vun trồng sự sống thiêng linh ấy cách hữu hiệu, đó là phải có thái độ căn bản muốn sống đẹp lòng người ta, dầu người ta ấy có là ai đi nữa. Nhưng phải làm gì để đẹp lòng Thiên Chúa đây? Phải lớn lên, phải trưởng thành, phải sung mãn trong tình yêu thương tha nhân. Thiên Chúa vui sướng hạnh phúc khi thấy chúng ta yêu thương với một tình yêu thương không so đo, tính toán hơn thiệt và không loại trừ chọn lựa, yêu thương hết mọi người và yêu thương tràn đầy chan chứa. Thiên Chúa vui sướng và hạnh phúc khi thấy chúng ta trưởng thành và lớn lên trong tình yêu thương ấy, tình yêu thương mà Ngài đã trao ban cho chúng ta qua chính con người của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.

Ngoài ra, cần phải luôn luôn sẵn sàng đón chờ Chúa Giêsu đến trong tâm lòng và cuộc đời chúng ta bằng cách sống thánh thiện và kiên vững. Bởi vì nói cho cùng, sống thánh thiện tức là sống yêu thương trọn vẹn. Các thánh là những người biết noi gương Chúa Giêsu sống yêu thương trọn vẹn, yêu thương đến tận hiến chính mạng sống mình cho tha nhân. Càng biết yêu thương tha nhân, tình yêu vô vị lợi cụ thể và cao đẹp bao nhiêu, thì chúng ta lại càng giống Chúa Giêsu bấy nhiêu. Càng giống Chúa Giêsu bao nhiêu thì càng giống Thiên Chúa bấy nhiêu, và đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và khiến cho Ngài sung sướng nhất, hạnh phúc nhất.

Thế giới và xã hội loài người khổ đau vì loài người không yêu thương nhau đủ, hay không thương yêu nhau theo tinh thần của Chúa và Tin Mừng của Ngài. Như vậy, cách thức đón chờ Chúa Giêsu hữu hiệu nhất là hãy bắt đầu yêu thương nhau. Bởi vì đó là bí quyết vun trồng mầm giống sự sống thiêng linh và xây dựng trời mới đất mới cụ thể và hữu hiệu.

 

53. Sống tâm tình Mùa Vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Giáo Hội bắt đầu Năm Phụng vụ mới bằng Mùa Vọng. Mà Mùa Vọng thường rơi vào Mùa Đông. Vì thế có người thắc mắc rằng: Tại sao mở đầu cho một năm dân sự là Mùa Xuân, nhưng mở đầu cho một Năm Phụng vụ lại vào Mùa Đông? Tại sao lại không khởi đầu Năm Phụng vụ vào chính ngày Lễ Giáng Sinh như khởi đầu cho một cuộc đời là ngày người ấy cất tiếng khóc chào đời? Người Kitô hữu vẫn được dạy rằng Đức Kitô sinh vào ngày 25-12 và trước đó Giáo Hội dành 4 tuần cho Mùa Vọng, hàm ý “mùa trông đợi Chúa đến” từ ngàn xưa. Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này. Như vậy, ý nghĩa vô cùng khi khởi đầu cho một Năm Phụng vụ là Mùa Vọng.

Trong cuộc sống có nhiều thứ mùa vọng: có mùa vọng ngắn, có mùa vọng dài. Đối với một người mẹ thì mùa vọng là thời gian 9 tháng 10 ngày chờ đợi đứa con cất tiếng khóc chào đời. Đối với các sinh viên, mùa vọng là khoảng thời gian 4 năm hay 5 năm ngồi ở giảng đường đợi chờ ngày tốt nghiệp ra trường. Đối với người Dothái, mùa vọng là cả một hành trình dài trong lịch sử cứu độ, hành trình của hơn 1.000 năm chờ đợi Đấng Cứu Thế. Đối với người Kitô hữu, Mùa Vọng là khoảng thời gian 4 tuần lễ trước Giáng Sinh. Đây là thời gian trong Năm Phụng vụ mà Giáo Hội dành để con cái mình chuẩn bị tâm hồn mừng Con Thiên Chúa làm người. Xa hơn nữa, mùa vọng đối với đời người Kitô hữu còn là thời gian sống trên trần gian này. Nói cách khác, khi sống tâm tình Mùa Vọng của Năm Phụng vụ, người Kitô hữu được mời gọi sống tâm tình mùa vọng của cuộc đời, một mùa vọng kéo dài, mùa trông chờ Chúa đến trong vinh quang.

Tuy nhiên, điều mà người Kitô hữu chúng ta đang mong chờ, không phải là một biến cố, một món quà, một cuộc vui, hay là một ngày lễ nghỉ, mà trên hết là mong chờ một con người. Con người đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Tinh nhân loại. Nói khác đi, Mùa Vọng là một mùa không phải chỉ để chuẩn bị cho biến cố Giáng Sinh tưng bừng, nhưng là thời gian trông chờ và chuẩn bị đón mừng Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và đón chờ Đức Giêsu Kitô là Hoàng Tử Vinh Quang sẽ đến trong ngày cánh chung, tức là ngày tận thế. Vậy phải chuẩn bị thế nào cho xứng đáng?

– Trước hết, hãy chuẩn bị bằng việc sửa soạn bên trong tâm hồn.

“Hãy tự hỏi Giáng sinh có ý nghĩa gì đối với cá nhân và gia đình mỗi chúng ta? Trang trí nhà cửa, bắt điện, treo đèn, hội tiệc… là cần thiết và phù hợp với mùa lễ hội, nhưng không thể thay thế được cho ý nghĩa thực sự mà đức tin đã dạy chúng ta về việc Con Thiên Chúa giáng trần để cứu chuộc sinh linh. Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Bêlem. Chúng ta không thể bắt chước người đời nay chỉ trân quý Ông Già Noel. Chúng ta cũng không thể bị dẫn dụ bởi những kỹ thuật quảng cáo tinh xảo để bán sản phẩm của các công ty thương mại trong mùa này. Chúng ta cũng không thể bắt chước thói tục đời nay chỉ chúc mừng nhau trên môi miệng câu “chúc mừng ngày lễ”, bởi vì ngày sinh của Chúa không phải là ngày lễ thường mà ngày lễ rất trọng, ngày lễ mà mọi người Kitô hữu được kêu mời nghỉ trọn ngày để tôn vinh Thiên Chúa, ngày làm chúng ta được trở nên thánh thiện (A Holy Day), để chúng ta có thể chúc nhau câu “Mừng Sinh Nhật Chúa” (Merry Christmas). Nếu không có việc Chúa Giáng Sinh thì làm sao có ngày lễ để mà “happy holidays”? Do đó, khi gửi thiệp, tặng quà cho nhau, chúng ta hãy nhớ đến tặng ân từ Thiên Đàng mà Chúa Cha đã tặng ban cho nhân loại là Con Một Ngài là Chúa Giêsu Cứu Thế, và hãy tặng nhau một tấm lòng chân thật, biết ơn người khác” (Phó tế Phêrô Đặng Phi Hùng, “Trông đợi”).

– Sau nữa, hãy chuẩn bị bằng việc sống thái độ tỉnh thức.

Điệp khúc “hãy tỉnh thức” vẫn vang lên nhiều lần trong suốt Mùa Vọng. Tỉnh thức nghĩa là không mải mê, xao lãng với bổn phận, với nghĩa vụ làm người và làm Kitô hữu. Tỉnh thức là không ngủ say, ngủ vùi trong những đam mê và trong những thực tại trần thế mà quên đi những gì sẽ xảy đến bất ngờ cho con người. Tỉnh thức là thanh luyện tâm hồn mình khỏi mọi thói hư tật xấu, là tẩy trừ tâm hồn khỏi lòng tham sân si và mọi thứ dính bén trần tục, là nỗ lực thu nhỏ cái tôi của mình để cho Chúa được lớn lên, như tâm tình của Gioan.

Khi tỉnh thức, có người nhâm nhi cà phê, có người uống rượu… cho giờ mau qua, có người đánh bài để giết thời gian, có người hát hò, có người xem truyền hình, xem phim, lại có người nói chuyện tán dóc cho hết giờ. Bởi đó, nhiều lần ta nghe nói: người này chết (Chúa đến) khi họ đang ngủ, người kia chết (Chúa đến) khi họ đang làm việc; có người chết (Chúa đến) khi họ đang ăn uống, có người chết (Chúa đến) khi họ tỏ ra anh hùng trên xa lộ, hay đang chơi bời,…

Thời ông Noe, dân chúng mải mê ăn chơi thoải mái, trong khi gia đình ông Noe lại tất bật với việc đóng tàu. Dân chúng đi qua đó, thấy đó, nhưng họ lại chẳng lưu tâm gì với những điều Kinh Thánh đã loan báo. Có lẽ ông Noe cũng đã thông tin cho nhiều người chung quanh, khi họ hỏi ông đóng tàu làm gì, nhưng họ đâu có tin ông, vì họ đang mê mải ăn chơi, hưởng thụ. Chính thái độ thiếu tỉnh thức ấy đã khiến cho họ chết vùi, chết thảm trong trận hồng thuỷ thời bấy giờ.

Tỉnh thức là biết nỗ lực xây dựng một thế giới hiệp nhất, yêu thương, công bình và bác ái. Nếu chờ đợi trong tỉnh thức yêu thương, thì việc chờ Chúa đến sẽ không còn là sự bất ngờ đáng lo, đáng sợ nữa, nhưng lại là sự bất ngờ của niềm vui và hạnh phúc. Vì thế, Mùa Vọng là mùa của đợi chờ: đợi chờ chính Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, đợi chờ trong hy vọng, đợi chờ trong tin yêu. Chờ đợi như thế, chính là tỉnh thức, là sẵn sàng, là mở đường về Nước Trời. Amen.

 

54. Hướng về ngày Chúa đến

(Suy niệm của Lm. Tôma Nguyễn Văn Hiệp)

Hôm nay Giáo Hội bước vào chu kỳ Năm Phụng vụ mới bắt đầu với Mùa vọng. “Mùa vọng” là danh từ “Nôm”, “vọng” () là chữ mượn Hán, có nghĩa là: hướng đến, trông chờ, mong đợi. “Mùa vọng” tiếng La tinh là “Adventus”, có nghĩa là: đến, hiện diện hay hiển trị. Trong cử hành phụng vụ, Mùa vọng gồm 4 Chúa nhật và chia làm hai giai đoạn: giai đoạn một từ Chúa nhật I Mùa vọng đến hết ngày 16/12 là thời gian hướng tâm hồn người tín hữu đến ngày Quang lâm, ngày Chúa Kitô trở lại lần thứ hai trong vinh quang; giai đoạn hai từ ngày 17 – 24/12, là tuần lễ chuẩn bị trực tiếp mừng lễ Giáng sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người.

Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn hướng về “Ngày Chúa đến”.

Bài đọc 1, tiên tri Giêrêmia tuyên sấm về một Đấng Công chính mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại để giải thoát muôn dân: “Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực.” (Gr 33,15). Đấng Công chính ấy là Đức Giêsu Kitô giáng trần để ban cho nhân loại Tin Mừng Tình yêu cứu độ.

Bài đọc 2, Thánh Phaolô mời gọi dân thành Thêxalônica hãy sống Tin Mừng tình yêu để xứng đáng đón Chúa đến lần thứ hai. “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết… Có như thế thì… anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng chê trách… trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.” (1Tx 3,12-13).

Bài Tin Mừng, thánh Luca mượn ngôn ngữ khải huyền của Cựu Ước để nói về lần thứ hai Chúa đến, đó là ngày quang lâm. “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 34-36).

Thời gian gần đây (cuối tháng 11/2012) trên mạng lại bắt đầu râm ran tin tức đã gây ồn ào một thuở trước đây là ngày 21/12/2012 sẽ là ngày tận thế theo lịch người Maya cổ đại. Người ta lại nhân danh cả cơ quan Hàng không và Vũ trụ NASA của Mỹ làm vỏ bọc cho sự chính xác, củng cố niềm tin của độc giả. Tin tức này đã được các tờ báo hay các trang mạng lật tẩy sự “nửa vời”, không chính xác và thiếu thành thật. Thế nhưng nó cũng tạo ra một hiệu ứng hoang mang lo lắng cho một số người thiếu sự suy nghĩ chín chắn.

Chính Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 đã kêu gọi mọi người công giáo không nên dừng lại ở “sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo” hôm 18/11/2012 tại Vatican. Từ bài Tin Mừng trong ngày Chúa nhật 33 Thường niên (Mc 13, 24-32), Chúa Giêsu tiên báo về “bầu trời trở nên âm u” và “các vì sao rơi rụng xuống từ trời”, ngài giải thích: Chúa Giêsu không hành động như một “nhà tiên tri” mô tả “ngày tận thế”, mà ngược lại muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ khỏi các lời tiên đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt; Chúa Giêsu “muốn mang lại cho các tín đồ chiếc chìa khóa cho sự suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn, và nhất là chỉ ra con đường phải đi hôm nay và ngày mai để bước vào cuộc sống vĩnh hằng”. Cuối cùng Ngài khẳng định: “Tất cả rồi sẽ trôi qua, nhưng lời của Chúa không hề thay đổi”.

Giả như ngày tận thế có xảy ra thật vào ngày 21.12.2012 thì cũng chẳng có gì phải lo lắng nếu sống đúng lời dạy trong trang Tin Mừng hôm nay là “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, “tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. “Đứng thẳng và ngẩng đầu lên” là sống bác ái, công bằng, thành thật theo Tin Mừng. “Tỉnh thức và cầu nguyện luôn” là luôn trong tư thế sẵn sàng, lòng qui hướng về Chúa, về đời sống mai sau mà vượt thắng mọi cám dỗ đam mê tội lỗi. Chúng ta chỉ hoang mang lo sợ ngày tận thế khi chúng ta đang ở trong tình trạng nặng nề, chìm đắm, buông thả, chạy theo những sự chóng qua của thế gian.

Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn để mỗi người chúng ta biết thức tỉnh, luôn ý thức mình là con cái Thiên Chúa có quê hương đích thực trên trời mà luôn quảng đại dấn thân sống yêu thương phục vụ theo khuôn mẫu của Chúa Giêsu và luôn kết hiệp với Người trong mọi phút giây của cuộc sống. Có như thế chúng ta là những tín hữu “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, “tỉnh thức và cầu nguyện luôn”; là những chiến sĩ trong tư thế sẵn sàng chờ đợi Chúa trong ngày quang lâm chung thẩm. Amen.

 

55. Chúa chờ tôi hay tôi đợi Chúa

(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)

Từ trần gian con ngước trông lên Chúa ơi,

Cầu xin hãy mưa Đấng Thiên Sai, Chúa ơi, nghe lời van thiết tha!

Ngày và đêm con vẫn van xin Chúa thương

Người ban ơn cứu rỗi yêu đương bốn phương, cho đoàn con ngóng chờ.

Lời nguyện cầu thiết tha nhắc tôi một năm phụng vụ mới đã tới. Một mùa Vọng nữa lại về. Giữa cái se lạnh của ngày lập đông lại có những giây phút hân hoan đợi chờ. Ngày Lễ Giáng Sinh sắp đến. Không gian như hơi giao động giữa từng cơn gió, nhưng vẫn ấm biết bao khi nghe văng vẳng bài thánh ca mừng Chúa ra đời. Không hiểu sao trong tất cả các mùa phụng vụ, tôi thích nhất mùa Vọng.

Nhưng hình như vẫn còn một thứ trái nghịch nào đó với nỗi chờ đợi mà nay đã thành quen thuộc trong nếp sống đạo của mình: thay vì hướng đến một sự gì sẽ xảy ra trong tương lai, tôi lại chỉ ngóng về một biến cố đã qua. Thành ra vọng mà không phải chờ; sống mùa Vọng mà chỉ như một cuộc tưởng niệm quá khứ.

Thế nên Lời Chúa trong ngày đầu tiên của năm phụng vụ mới đã hướng tôi về với ý nghĩa căn bản của mùa Vọng: kỷ niệm ngày Chúa đã đến để hướng lòng về ngày Chúa lại đến.

Nhưng phải chăng Chúa sẽ đến trong hình hài đơn sơ của một trẻ thơ, được bọc trong khăn mỏng, nằm trong máng cỏ, có các thiên thần chầu chực và các mục tử bao quanh như cách đây hai ngàn năm? Chắc chắn không phải vậy. Trái lại, “Ngài sẽ đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả” với “Những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Dưới đất thì các dân buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Các tầng trời rung chuyển. Người ta kinh hồn khiếp đảm, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ” (Lc 21:25-27).

Cách mô tả theo truyền thống Khải Huyền trên đây không hoàn toàn phải xảy ra như vậy. Nhưng đó chỉ là cách mượn lại những hình ảnh văn chương đã có trong các sách Daniel và Isaiah để diễn tả một điều: thời điểm cánh chung của thế giới, ngày Đấng Cứu Thế ngự đến để viên toàn chương trình cứu chuộc và thánh hoá con người. Và như thế người tín hữu được mời gọi vọng về ngày đó, chứ không phải vọng ngày Giáng Sinh.

Người ta thường rơi vào một trong hai thái độ chờ đợi: tích cực hay tiêu cực. Người chờ đợi tiêu cực luôn ở trong trạng thái thụ động. Như một người chờ đợi xe bus, chỉ biết đứng trông, chờ mong chiếc xe ghé trạm. Trong khi đó, người có thái độ chờ đợi tích cực sẽ như gia chủ, bận rộn sắp xếp, sửa sang phòng ốc, chuẩn bị đón tiếp quan khách ghé thăm.

Bước vào mùa Vọng với thái độ trông chờ tích cực chính là lối đường mà Hội Thánh mời gọi. Dù rằng đất trời rung chuyển, dù cho thiên hạ âu lo, người Kitô hữu vẫn hãy “đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi đã gần đến” (Lc 21:28). Người tin Chúa Giêsu Cứu Thế không thể nào lại sợ hãi Ngài trở lại trong vinh quang. Họ cũng không thể xếp xó công việc, ngồi đó ngóng trông mà lơ là bác ái.

Tín hữu thành Thessalônica đã một lần rơi vào cảnh ngộ đó. Họ cứ tưởng Chúa gần đến lắm rồi. Và hậu quả là ăn không ngồi rồi, chểnh mảng công việc, tội lỗi nảy sinh. Thánh Phaolô đã phải lên tiếng răn bảo: càng trông chờ Chúa anh em càng phải “tràn đầy lòng thương yêu nhau… để lòng anh em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu Kitô ngự đến cùng với tất cả các Thánh” (1 Tx 3:12-13).

Thế ra sống tinh thần trông đợi Đấng Cứu Thế không gì tích cực và ý nghĩa hơn việc tỏ bày đức ái.

Không có đợi chờ chân thành nào lại không hàm ẩn một cân lượng của yêu thương nhung nhớ. Vì có yêu mới nhớ, có thương mới chờ. Thế nên khi cất lên lời ca “Ngày và đêm con vẫn van xin Chúa thương. Người ban ơn cứu rỗi yêu đương bốn phương, cho đoàn con ngóng chờ” đã như một lời khẳng định chỉ có Thiên Chúa Tình Yêu mới lấp đầy mọi khát vọng yêu thương của con người. Lời khẩn cầu chờ mong Chúa đến và nỗ lực thương yêu đã như đan quyện vào nhau mà làm nên bản sắc độc đáo của mùa Vọng.

Tôi cứ lầm tưởng mình đang đợi Chúa đến, nhưng đúng hơn, Ngài đang chờ tôi về. Chúa đã đến cách đây 2000 năm. Bước chân Ngài vẫn trải khắp trong từng phút giây và nơi mọi ngóc ngách của đời tôi. Ngài chờ đợi tôi như người cha trông mong đứa con hoang trở về trong vòng tay thân ái.

Không ai sống mùa Vọng đúng nghĩa bằng Thiên Chúa. Tình yêu nơi Ngài đã làm nên nỗi nhớ. Nhớ day dứt người con xa vắng mù khơi. Càng nhớ lại càng mong. Và nỗi mong đã khiến Ngài không ngừng tìm đến với nhân loại.

Chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh phải là thời điểm nhắc tôi về một Tình Yêu đã đến, đang đến và sẽ đến. Tình yêu đó không ngớt mời gọi, chờ đợi ngày tôi trở về để “se nên chữ đồng” và để “kết nghĩa đất trời yêu thương.”

 

56. Cuộc sống tỉnh thức – André Sève.

Mở đầu mùa Vọng, chúng ta nghe những mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Hãy đứng dậy!” “Hãy ngẩng đầu lên!” “Hãy cảnh giác!” “Hãy tỉnh thức!” “Hãy cầu nguyện!”.

Chúng ta có thể nói đây là một sự giật mình tỉnh thức. Loại bỏ hình ảnh các Kitô hữu tiến bước uể oải hoặc sợ sệt trong cuộc sống. Họ bước đi đầu ngẩng cao, hướng về một thế giới kỳ diệu: “Các ngươi sẽ thấy Con Người đến trong quyền năng và vinh quang”.

Chắc chắn, đối với những Kitô hữu, cuộc sống cũng khó khăn như đối với những người khác, cũng vẫn có những trộn lẫn hy vọng và thất vọng, những lúc vui vẻ và những lúc chán chường. Sự khác biệt to lớn đó là chúng ta biết rằng tất cả những điều đó có một ý nghĩa toàn bộ mặc dầu trong chi tiết, những điều đó có vẻ đen tối. Chúng ta biết chúng ta đến từ đâu và chúng ta đi đâu: được sinh ra từ tình yêu, chúng ta sống dưới cái nhìn của tình yêu và chúng ta đi về tình yêu. Đôi khi người ta nói với chúng ta: “Đức tin của bạn có thay đổi được gì không?”. Tất cả! Như mặt trời vậy. Chúng ta sống cũng những điều như thế, nhưng trong ánh sáng. “Ai đi theo Ta, kẻ ấy không bước đi trong bóng tối”, Chúa Giêsu nói như thế.

Chúng ta bước đi trong ánh mặt trời của lần Chúa Kitô đến đầu tiên: Giáng Sinh. Và chúng ta tiến bước về ánh sáng của lần Ngài đến cuối cùng: Ngày Quang Lâm. Giữa hai lần này, chúng ta mở rộng cuộc sống và thế giới hết cỡ cho điều bí ẩn hơn, tiệm tiến hơn: đến được những ý tưởng của Chúa Kitô, sức mạnh yêu thương và niềm tin không lay chuyển vào Chúa Cha.

Cũng sống trong ánh sáng, đứng vững trong tình yêu và niềm tin, đó là sự tỉnh thức Kitô: “Hãy tỉnh thức!”. Gần đây, những kỹ thuật tỉnh thức của Đông phương lan truyền tại Tây phương: hít thở nhiều hơn, chú ý nhiều đến điều chúng ta đang làm, “hiện diện ở đó”, tự do, thư giãn, cởi mở, sẵn sàng để sống tối đa vào mọi giây phút. Tại sao không lấy đó làm một lời mời gọi người Kitô hữu tỉnh thức? Đây là ước muốn sống đức tin của chúng ta một cách triệt để.

Chúng ta có thể mô tả cuộc sống tỉnh thức này hay không? Mỗi buổi sáng là một sự gặp lại Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài. Qua việc đọc một đoạn ngắn, một kinh ngắn hoặc một kinh nguyện dài hơn, chúng ta lại quyết định chú ý đến Chúa, đến nhiệm vụ, đến những người mà chúng ta sắp sửa gặp. Nhưng sẽ phải không ngừng coi chừng sự “nặng nề chậm chạp của con tim chúng ta”. Chúa Giêsu nói thẳng: Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”.

Ngài cũng chỉ cho chúng ta biết phải lấy ý chí tỉnh thức ở đâu: “Hãy cầu nguyện!”. Những người xao lãng mệnh lệnh này ngày hôm nay phải để cho lời cảnh cáo nặng nề cuối cùng này lọt tai: “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”.

 

home Mục lục Lưu trữ