Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 46
Tổng truy cập: 1378987
NGƯỜI ĐÃ TRỖI DẬY RỒI
Mỗi năm, chúng ta mừng Lễ Phục Sinh bằng cách lắng nghe sứ điệp của mỗi thánh sử. Năm nay, sau Bài thương khó theo thánh Maccô, chúng ta đọc tiếp trình thuật về biến cố “Phục sinh theo Thánh Maccô” trong Đêm canh thức này, trình thuật của Maccô hết sức ngắn gọn, chỉ gồm có tám câu.
Vừa hết ngày Sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria, mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để ướp xác Đức Giêsu.
Chúng ta đã ghi nhận vai trò quan trọng của các “người nữ”. Theo Maccô, chỉ có các bà mới dám đi với Đức Giêsu tiến đến cái chết của Người trên đồi Golgotha… còn tất cả các nam môn đệ đều đã bỏ trốn (Mc 14,50-15,50).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu trung thành hơn. Xin Chúa đừng để chúng con bỏ rơi những người chúng con yêu thương.
Tôi ngắm nhìn những “phụ nữ tẩm xác”, tay bê nặng những bình dầu thơm, trời còn mờ sáng đang tiến thẳng tới một nghĩa địa. Các bà này chỉ lo lắng một điều: làm sao tẩm dầu thơm cho một xác chết, kết thúc bước đường phiêu lưu của “Đức Giêsu Nagiaret”… thể hiện những bổn phận yêu thương cuối cùng đối với một người thân yêu quá cố, bổ sung cho việc an táng một tử tội khả quan hơn, bởi vì buổi chiều ngày hành quyết người ta không có đủ giờ chôn cất đàng hoàng.
Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
Đó là một buổi sáng. Một buổi sáng vùng Địa Trung Hải. Trời mát, không khí tươi dịu trên con đường dẫn đến các bà bước tới, lòng đau đớn với biết bao kỷ niệm. Chung quanh các bà, chim chóc đã bắt đầu ca hót. Xuyên qua các cành cây đang trổ những đọt mầm xanh non, mặt trời nhô lên ở chân trời.
Một buổi sáng mới khởi sự Halleluia, Halleluia…
Vâng, bắt đầu một tuần lễ mới, một thế giới mới, một cuộc tạo thành rưới, một kỷ niệm mới.
Các bà vừa đi vừa bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây:” Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.
Chi tiết cụ thể này rất quan trọng. Cả bốn thánh sử đều đã ghi nhận. “Tảng đá đã được lăn ra”. Nhưng chỉ mình Maccô ghi nhận thêm, tảng đá đó lớn lắm? Chi tiết lịch sử này có thực, hoàn toàn phù hợp với kiểu cách mộ phần thời bấy giờ. Nhưng đối với Maccô cũng như đối với chúng ta ngày nay, thì đó là chi tiết tượng trưng đầy ý nghĩa: một bức tường thực sự ngăn cách con người với sự Phục sinh… được coi như một sự kiện không thể có được… ”Ai có thể cất gỡ được chướng ngại này?”. Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể hủy bỏ được sức nặng ghê gớm của cái chết đang đè nặng trên nhân loại.
Vào trong mộ các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng.
Trình thuật của Maccô, có vẻ giản đơn hơn trình thuật của Matthêu, vì không nói đến “thiên thần”, đến “đất rung chuyển” đến tia chớp sáng”… nhưng chỉ đề cập đến một “người thanh niên”. Maccô có ý giữ nét giản dị như thế: ông chỉ mượn một hình ảnh tối thiểu trong ngôn ngữ khải huyền thông dụng, để tránh những kiểu “tả vẽ” về biến cố Phục sinh. Ông cố khẳng định nguyên sự kiện đó. Nhưng ta biết rằng màu “trắng” luôn là dấu chỉ: đó là màu của ánh sáng, nghịch với bóng tối… đó là màu của vinh quang, màu của các vật thể trên trời. Vào ngày Biến Hình, cũng chính Maccô đã nói đến “một thứ trắng tinh không có một thợ nào trần gian giăt trắng được như vậy” (Mc 9,3). Trong sách Khải Huyền của Gioan, màu “trắng” luôn tượng trưng cho thế giới trên trời (Kh 2,17; 4,14-19; Ed 9,2; Đnl 7,9; Is 1,18; Kh 7,14-19,1-14).
Các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ!”.
Tất cả những trình thuật về Truyền tin (loan báo một sứ điệp của Chúa) trong Kinh Thánh đều ghi lại chi tiết này. Những gì thuộc về Thiên Chúa thường gây bối rối cho lý trí của con người và tạo nên một thú vị ngạc nhiên, sợ hãi thiêng thánh. Ở đây Maccô sử dụng một từ quen thuộc với ông (exéthambêthêsan = có nghĩa là các bà bối rối, hồn siêu phách lạc). Cũng như không người “Caphacnaum đã kinh ngạc” trước sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu (Mc 1,27 xem thêm Mc 10,24-32 và 14,33).
Nhưng nếu sự đột xuất của Đấng hoàn toàn khác lạ thường gây bối rối, thì sự hiện diện của Người lại trấn an và làm ta bình tâm ngay. Thiên Chúa không đích thực là Đấng chỉ nhằm hù dọa chúng ta. Người vẫn thường nói: “Các ngươi đừng sợ”.
Thế nên, ta cần lưu ý, Maccô không thuật lại sự hiện ra đúng nghĩa của Đức Giêsu… Nhưng chỉ ghi một “Lời” mạc khải, qua một thiên sứ, nói lên “đức tin”, một trong những điểm của “kinh Tín Kính” ta vẫn đọc.
Các bà tìm Đức Giêsu Nagiaret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã sống lại rồi, không còn ở đây nữa.
Người bị đóng đinh vì chúng tôi dưới thời Phongxiô Philatô, Ngày thứ ba, Người đã sống lại”
Đó là lời tuyên xưng Đức tin của các Kitô hữu tiên khởi (Cv 2,23; 3,15; 4,10; 10,39; 13,28-30) Đó cũng là đức tin của chúng ta.
Trình thuật của Maccô nhấn mạnh những khía cạnh cụ thể, như thế muốn nói với chúng ta rằng, đó cũng chính là Đức Giêsu, “người Nagiaret”, kẻ “bị đóng đinh”, Đức Giêsu của lịch sử.
Kẻ bị đóng đinh đã thức dậy.
Kẻ bị đóng đinh đã phục sinh
Người không còn ở đây nữa! Vậy Người ở đâu?
Chỗ đã đặt Người đây này, xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô như thế này: “Người sẽ đến Galilê trước các ông”.
Rõ ràng, Maccô không muốn chúng ta quan tâm đến “ngôi mộ” nữa, Thiên Chúa cũng không muốn con người để ý đến “mồ táng” đó. Cả Đức Giêsu cũng thế, trước khi chết, Người đã nói chính lời đó: “Sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em” (Mc 14,28). Chàng “thanh niên mặc áo trắng ngồi bên hữu phải chăng là chính mình Đức Giêsu, một Giêsu mới, Đức Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha? Đức Giêsu mà người ta mới tiếp xúc đầu tiên, với con mắt trần gian, không còn nhận ra nữa; ta hãy nhớ lại trường hợp của Mácđala, tại khu vườn; bà cứ tưởng Người là người làm vườn” cũng như hai môn đệ làng Emmau, ‘con mắt họ đã bị đóng lại’
Hãy đi! Hãy ra đi! Đừng dừng lại tại ngôi mộ đó. Đừng ở lại Giêrusalem.
Hãy đi về phía trước, nói Đức Giêsu đang sống động nơi Người đã đến trước anh em, nơi Người đã hẹn gặp anh em tại Galilê! Trên miền đất của anh em, những người xứ Galilê, trong đời sống hiện thực thường ngày. Đối với Maccô, Galilê là tên của vùng đất đó, có một ý nghĩa tượng trưng rất lớn. Ong đã nhắc đến tên đó 12 lần trong Tin Mừng của ông. Chính tại đó mà cuộc đời Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh cao. Cũng tại đó lần đầu tiên Tin Mừng của Thiên Chúa đã vang lên. Chính Đức Giêsu đã biểu lộ những dấu lạ đầu tiên quyền năng của Người tại đó. Và cũng là nơi qui tụ nhiều đám đông.
Giờ đây, thời của Galilê lại bắt đầu, thời quy tụ một dân tộc mới chung quanh Phêrô, thời của những “dấu chỉ” mới, thời của Tin Mừng: Giáo Hội khởi sự… và giáo hội chính là nơi hiện diện của Đấng “không còn ở đây nữa, nghĩa là không còn ở trong mồ mà người ta đã chôn táng Người”. Đó là một lệnh lên đường.
Nào, hãy lên đường. Đừng ở lại đây làm gì! Hãy đi nói với Phêrô. Hãy trở lại Galilê.
Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với các ông.
Ở đây không giải thích theo phạm vi triết học và lý luận. Các tông đồ cũng như chúng ta, được mời gọi tin theo một lời nói, và dấn thân trong một hành động hiện thực: Góp phần cho việc tập hợp những người tin Đức Giêsu chung quanh Phêrô, và thi hành những gì Đức Giêsu đã báo trước khi Người còn sống.
Đối với Maccô, tin vào việc sống lại, trước hết không phải là vấn đề gây nhức óc cho trí hiểu, nhưng là thái độ cùng với anh em mình dấn thân vào một cuộc sống mới, theo một Lời báo trước!
Vừa ra khỏi mộ, các bà liền cắm đầu chạy.
Các bà đã đến mộ cốt là làm được một việc, thế nhưng các bà lại phải đi mà không thể thi hành được điều đó. Các bà mang dầu thơm về. Các bà vội rời gót khỏi nơi đó.
Các bà run lẩy bẩy, hết hồn vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá.
Đây là những lời cuối cùng của đoạn Tin Mừng Lễ Phục Sinh.
“Run lẩy bẩy” (tromos) và “ngây ngất xuất thần” (extasis). Làm sao có thể diễn tả hay hơn sự đột nhập bất ngờ và gây đảo lộn của Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người? Xuyên suốt Tin Mừng của mình, Maccô đã nhấn mạnh đến “bí mật” che giấu căn tính đích thực của Đức Giêsu Nagiaret: mỗi lần có kẻ nào nói quá sớm Người là “Con Thiên Chúa”, Đức Giêsu đều buộc họ phải im lặng. Câu kết này của Maccô giữ trọn ý nghĩa. Chúng ta hãy trân trọng nó? Các người nữ “im lặng” và “chẳng nói gì với ai”: Nói thế nào được khi con người Đức Giêsu đã vượt thoát khỏi mọi nắm giữ và trở nên một mầu nhiệm không còn thuộc phạm vi nhân loại, luôn gây bối rối.
Tất cả những ai muốn kiếm tìm trong những trình thuật trên, một sự “hiển nhiên tuyệt đối” một sự “ổn định hoàn toàn”, thì sẽ gặp thất vọng. Chính Maccô muốn dẫn chúng ta vào sự im lặng của Đức tin và thái độ tôn thờ. Lạy Chúa Giêsu, Chúa cao cả hơn mọi tưởng tượng của chúng con.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT PHỤC SINH- Năm B
THEO KINH THÁNH THÌ NGƯỜI PHẢI SỐNG LẠI TỪ CÕI CHẾT (*)- Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Phục Sinh tập trung vào biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su, vì thế, bỏ qua bài đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho Tân Ước. Sau khi Đức Giê-su đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì quan tâm đến những bản văn tiên báo. Khởi đi từ Chúa Nhật Phục Sinh cho đến lễ Ngũ Tuần, Bài Đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ. Đây là một truyền thống xa xưa lên đến tận thế kỷ IV.
Cv 10: 34a, 37-43
Bài Đọc I nhắc chúng ta nhớ rằng đức tin của chúng ta vào Đức Ki-tô Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, thủ lãnh của Giáo Hội, được nêu bật trong đoạn trích sách Công Vụ nầy.
Cl 3: 1-4
Đoạn trích thư gởi tín hữu Cô-lô-xê dẫn chúng ta vào trọng tâm mầu nhiệm Phục Sinh và mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học của biến cố này.
Ga 20: 1-9
Sau cùng, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về cuộc khám phá ngôi mộ trống. Đây là câu chuyện khai mào đức tin của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I (Cv 10: 34a, 37-43)
Sách Công Vụ được trình bày như phần tiếp theo sách Tin Mừng thứ ba: cùng một tác giả là thánh Lu-ca, và cùng một người nhận là ông Thê-ô-phi-lô, mà chúng ta không biết rõ nhân vật lịch sử này.
Thánh Lu-ca ôm ấp nỗi bận lòng của một sử gia: “tra cứu đầu đuôi mọi sự”. Trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký đã quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su; cũng vậy, trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh ký tường thuật cuộc đời thơ ấu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô; còn trong phần thứ hai là dung mạo của thánh Phao-lô.
Thánh Lu-ca nhiều lần nhấn mạnh các Tông Đồ đã mạnh mẻ làm chứng về biến cố Phục Sinh như thế nào. Diễn từ của thánh Phê-rô tại nhà ông Co-nê-li-ô, viên đại đội trưởng người Rô-ma, cung cấp một ví dụ. Đó là lý do chọn lựa đoạn trích nầy vào Chúa Nhật Phục Sinh nầy.
Cuộc kinh lý mục vụ của thánh Phê-rô:
Vị lãnh đạo Giáo Hội đang thực hiện một cuộc “kinh lý mục vụ”. Sau cuộc bách hại giáng xuống cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem non trẻ vào năm 36 (năm mà thánh Tê-pha-nô được phúc tử đạo), thời kỳ lắng dịu đã xảy đến. Thánh Phê-rô lợi dụng thời kỳ tạm yên nầy để viếng thăm những giáo đoàn vừa mới được thành lập. Sách Công Vụ nói với chúng ta, “thánh Phê-rô rảo khắp nơi” (Cv 9: 32). Chính như vậy thánh nhân đến miền duyên hải mà vừa mới đây “phó tế” Phi-líp-phê đã mang Tin Mừng đến đó.
Thánh Phê-rô lần đầu tiên bước vào nhà một người ngoại giáo:
Trong khi thánh Phê-rô đang ở tại nhà ông Gia-phô thì một viên đại đội trưởng người Rô-ma đồn trú ở Xê-da-rê cách đó khoảng năm mươi cây số, sai người đến mời thánh nhân đến nhà ông. Viên đại đội trưởng là một cảm tình viên của Do thái giáo, trong số những người được gọi “những người kính sợ Thiên Chúa”. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông là người đạo đức và rộng tay bố thí.
Đây là lần đầu tiên thánh nhân bước vào nhà của một người không chịu phép cắt bì, bất chấp những cấm kỵ lâu đời. Lệnh cấm tiếp xúc với những người không chịu phép cắt bì không được phát biểu trong Lề Luật, nhưng xuất phát từ tập quán và lời giải thích của các kinh sư. Lý do đầu tiên chính là để tránh mọi tiêm nhiễm ngoại giáo, nhưng dần dần lệnh cấm nầy được phổ biến và được tuân giữ nghiêm nhặt. Lần đầu tiên thánh nhân mang sứ điệp Tin Mừng đến một người lương dân và tất cả gia quyến của ông. Đây thực sự là một kinh nghiệm gây chấn động.
Bài diễn từ của thánh Phê-rô:
Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không có chung những điểm nhấn với những bài diễn từ khác mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, ở đó thánh Tông Đồ chứng minh cho người Do thái thấy rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a. Ở Xê-da-rê, vì ngỏ lời với một cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh phẩm chất “chứng nhân” của mình: chính thánh nhân và các vị Tông Đồ khác đã là những “chứng nhân” về những hoạt động của Đức Giê-su người Na-da-rét, về cuộc Khổ Nạn của Ngài, và nhất là về cuộc Phục Sinh của Ngài. Có một ít người được diễm phúc gặp gỡ Đức Giê-su Phục Sinh và sống thân mật với Ngài. Thánh nhân là một trong số những người “đã được cùng ăn cùng uống với Ngài sau khi Ngài đã từ cõi chết sống lại”. Đấng Phục Sinh đã trao cho họ sứ mạng làm chứng rằng Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Thẩm Phán để xét xử người sống cũng như kẻ chết. Đối với những người có ý định gia nhập Hội Thánh và đón nhận phép Rửa, thánh nhân tế nhị nói thêm rằng vị Thẩm Phán nầy cũng là Đấng tha tội. Thánh nhân trích dẫn lời loan báo của các ngôn sứ để nhấn mạnh: “Phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”.
Giáo Hội đặt nền tảng đức tin của mình vào biến cố Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng nầy dứt khoát đến nổi Giáo Hội đã không bao giờ cảm thấy cần phải đặt biến cố Phục Sinh như một tín điều. Sự kiện hiển nhiên buộc phải nhận như thế, nền tảng quá vững chắc: những chứng nhân đã “thấy” và “đã sống” với Đức Ki-tô Phục Sinh.
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-4)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Cô-lô-xê này trong khi bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-62. Trong đoạn trích thư này, thánh nhân trình bày cho chúng ta chiều kích thần học về biến cố Phục Sinh cách sâu xa.
Lập luận của thánh Phao-lô:
Thánh Phao-lô là nhân chứng của Đức Ki-tô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng chói lòa, đã cho thánh nhân những lời dạy của Ngài và trao phó sứ mạng cho thánh nhân.
Lập luận của thánh Phao-lô xem ra có vẻ mâu thuẫn: trước hết, thánh nhân nói: “Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô,” đoạn tiếp đó: “Anh em đã chết với Đức Ki-tô”. Thật ra, đây là một trong những phương thức thánh Phao-lô thường sử dụng: trước tiên thánh nhân đề cao thực tại tinh thần, từ đó cho thấy những hậu quả “luân lý” đòi buộc cách ăn nếp ở của chúng ta; tiếp đến, những hậu quả “hữu thể”, tức là những hậu quả ghi dấu ấn trên bản thân của chúng ta.
Người Ki-tô hữu:
Như trường hợp ở đây, thánh Phao-lô định nghĩa người Ki-tô hữu là người, nhờ bí tích Thánh Tẩy, được dự phần vào sự Phục Sinh của Đức Kitô, vì thế, họ được sống lại rồi. Trong thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh nhân diễn tả thực tại nầy còn bạo dạn hơn nữa, khi thánh nhân dùng thì quá khứ: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 2: 6).
Vì thế, từ thực trạng tinh thần này của người Ki-tô hữu, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước tiên những hậu quả luân lý: “Anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới”, tiếp đó thánh nhân nói đến những hậu quả hữu thể: được sống lại rồi, tức là đã chết cho tội lỗi, đó là được biến đổi tận bên trong. Bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ẩn kín ở bên trong người Ki-tô hữu, mà ánh sáng rực rỡ của nó sẽ chỉ được tỏ rạng một cách viên mãn vào ngày chung cuộc. Ý tưởng rất thân thiết đối với thánh Phao-lô: sống theo Đức Ki-tô đảm bảo vinh quang tương lai của chúng ta; ngay ở đời này, chắc chắn chúng ta có được những bảo chứng về vinh quang của chúng ta rồi.
TIN MỪNG (Ga 20: 1-9)
Niềm xác tín của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô đặt nền tảng trên hai kinh nghiệm: “Ngôi mộ trống” và “Những lần Đấng Phục Sinh hiện ra”. Chúng ta có thể nói rằng niềm xác tín nầy đã hình thành nên hai giai đoạn.
Trước hết, việc “phát hiện ngôi mộ trống” là mặc khải gây kinh ngạc đầu tiên, chúng ta dám nói kinh nghiệm về sự “trống rỗng”, kinh nghiệm nầy đã khai mở lòng trí của họ để hiểu Kinh Thánh. Tiếp đó, vào cùng ngày hôm ấy, “những lần Đức Giê-su hiện ra” đem đến những bằng chứng khả giác về một người đang sống; tuy nhiên, các môn đệ không thể nào hiểu thấu được mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh hiện ra với các ông rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác mang lấy những vết thương tử nạn của Ngài. Vì thế, đây không là một bóng ma, cũng không thân xác giả mạo. Hai kinh nghiệm cũng cố cho nhau, bổ túc lẫn nhau. Các Tông Đồ làm chứng về cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su với một niềm xác tín tuyệt đối cho đến phải hy sinh tính mạng của mình.
Ngày thứ nhất trong tuần:
Tin Mừng thứ tư cho chúng ta một bài tường thuật sống động và chính xác về cuộc phát hiện ngôi mộ trống, bài tường thuật của một “chứng nhân nhãn tiền”. Như thường hằng trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết vén mở những ý nghĩa sâu xa.
Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua, ngày thứ nhất trong tuần đã khởi sự, ngày thứ nhất nầy sẽ là Ngày Chúa Nhật của chúng ta, “Ngày của Chúa”, chính xác là ngày các Ki-tô hữu tưởng niệm biến cố Phục Sinh.
Bà Ma-ri-a Mác-đa-la:
Thánh Gioan nói: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là một trong các người phụ nữ đã lấy của cải của mình mà giúp Đức Giê-su và các môn đệ Ngài trong những cuộc hành trình truyền giáo của Ngài (Lc 8: 1-3), cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, bà can đảm đứng bên thập giá vào những giây phút sau cùng của Đức Giê-su (Ga 19: 25), và bà đã chứng kiến cuộc mai táng của Ngài đế ý nhìn ngôi mộ và xem thi thể Ngài được đặt như thế nào (Lc 23: 55). Bây giờ, sau ngày hưu lễ, bà đi viếng mộ. Tin Mừng nói rõ rằng bà ra đi đến mộ sáng sớm “lúc trời còn tối”: lòng mến và niềm tôn kính của bà khiến bà ra đi không trì hoãn để được ở bên cạnh thi thể của Chúa chúng ta.
Ở đây, thánh Gioan chỉ nêu đích danh bà Ma-ri-a Mác-đa-la; tuy nhiên, theo chính bản văn, dường như có các người phụ nữ khác (hay ít ra một người phụ nữ khác) cùng đồng hành với bà, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Quả thật, thánh Mát-thêu nêu tên hai người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cùng tên là Ma-ri-a (Mt 28 : 1); còn thánh Mác-cô thì kể ra ba người phụ nữ: bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê (Mc 16 : 1); thánh Lu-ca còn nói đến nhiều người phụ nữ (Lc 24 : 1). Nhưng bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được nêu đích danh và đặt ở hàng đầu.
Tại sao chỉ một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu đích danh ở đây? Chắc chắn vì trong số những thánh nữ trung tín này, kỷ niệm của bà đã là nổi bật nhất (thánh Gioan biên soạn Tin Mừng của mình với một hồi tưởng nào đó), vì chính bà đã được diễm phúc chứng kiến cuộc hiện ra đầu tiên trong số những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh mà các sách Tin Mừng tường thuật và chính Đấng Phục Sinh sai bà đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông Đồ. Vì thế, truyền thống Giáo Hội tôn kính gọi bà là “Tông Đồ của các Tông Đồ”, nghĩa là người tông đồ tuyệt hảo bậc nhất.
Thánh Phê-rô và thánh Gioan:
Khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin cho thánh Phê-rô và thánh Gioan: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”, lúc đó, có thể cả hai ông đang tá túc dưới một mái nhà. Trong các sách Tin Mừng nhất lãm, cả hai ông đều đã là nhân chứng của biến cố Biến Hình, chắc chắn kinh nghiệm nầy giúp hai ông hiểu biến cố mà hai ông trải qua vào buổi sáng nầy. Trong sách Công Vụ, hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hoạt động cùng nhau (Cv 3: 1-11; 4: 1-22).
Thánh Phê-rô lớn tuổi hơn thánh Gioan, vì thế, ông không thể chạy theo kịp sức trẻ của thánh Gioan. Thánh Gioan đến mồ trước, nhưng không vào chỉ đứng bên ngoài liếc nhìn vào bên trong trong khi chờ đợi thánh Phê-rô đến và nhường cho thánh Phê-rô vào mộ trước để tỏ lòng tôn kính quyền lãnh đạo Tông Đồ của thánh Phê-rô. Trong Tin Mừng Gioan, quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô được xác nhận chỉ sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh bên biển hồ Ti-bê-ri-a: “Hãy chăm dắt chiên của Thầy” (Ga 21: 15-17), nhưng thật ra đã hàm chứa trong việc đổi tên mà Đức Giê-su đã ban cho vị Tông Đồ nầy rồi ngay từ cuộc hội ngộ đầu tiên: “Anh là Si-mon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô: Ga 1: 42). Cả hai người cùng chứng kiến hiện trường: “ngôi mộ trống”. Chi tiết này có một tầm quan trọng đặc biệt, vì đối với luật Do thái, một sự kiện chỉ được chứng thực nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Trước đây, Đức Giê-su đã nhắc lại điều nầy cho những người Biệt Phái: “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật” (Ga 8: 17). Ngoài ra, theo luật, lời chứng của những người phụ nữ thì không có giá trị.
Lời chứng của chứng nhân nhãn tiền.
Không chỉ chứng kiến ngôi mộ trống, hai ông còn thấy băng vải liệm và khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Cảnh tượng này càng đánh động sâu xa hai vị Tông Đồ. Nếu thi thể bị đánh cắp, băng vải liệm có lẽ đã bị vất bừa bãi, thế mà tất cả đều được xếp gọn gàng ngăn nắp.
Mặt khác, làm thế nào hai ông không thể không nghĩ đến cảnh anh La-da-rô được sống lại bước ra khỏi mồ, “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11: 44), còn Đức Giê-su khi sống lại thì hoàn toàn tự do, không còn bị băng vải liệm buộc chặt thân thể Ngài hay khăn che đầu phủ mặt Ngài được chứ? Như vậy quyền lực của Tử Thần, mà băng vải liệm và khăn che mặt là biểu tượng, không còn có thể trói buộc Ngài được nữa. Nói cách khác, anh La-da-rô dù được sống lại nhưng vẫn còn bị xích xiềng Tử Thần trói buộc nên rồi sẽ phải chết một lần nữa, trong khi Tử Thần từ nay không có quyền hành gì trên Đức Giê-su nữa, Ngài đã vĩnh viễn đánh bại Tử Thần. Chắc chắn, thánh Gioan đã hiểu dấu chỉ nầy và bị chấn động đến mức ông đã phải thốt lên: “Tôi đã thấy và đã tin”. Rõ ràng lời tuyên xưng này diễn đạt một tiến trình đức tin từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn vào Đấng Phục Sinh.
Ánh sáng đức tin đã bừng lên trong lòng “người môn đệ Chúa yêu” nầy trước ngôi mộ trống trong đó chính ông đã chứng kiến: băng vải liệm cùng khăn phủ đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Nếu trước đây đức tin của thánh Gioan đã bị chao đảo trước những biến cố đau thương của Thầy mình, thì tình yêu của “người môn đệ Chúa yêu” này đã chẳng hề suy giảm như thánh nhân đã cho thấy khi theo từng bước chân của Thầy cho đến đỉnh đồi Can-vê và chứng kiến giây phút sau cùng của Thầy. Chính độ nhạy bén của tình yêu này đã dẫn thánh nhân đến niềm tin ngay tức khắc. Đó cũng độ nhạy bén của tình yêu này mà vài ngày sau đó cũng chính thánh nhân là người đầu tiên nhân ra Thầy mình dưới hình dạng của một khách vãng lai trên bờ hồ Ti-bê-ri-a trong sương sớm (21: 4, 7). Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên, thánh nhân lại “tin tối đa”. Độ nhạy bén của tình yêu này hỗ trợ cho thánh nhân thấu hiểu con người và sự vật.
Lời chứng của Kinh Thánh.
Nhờ độ nhạy bén của con tim, người môn đệ Chúa yêu đạt đến niềm tin; tuy nhiên, thánh nhân cũng cần lý trí soi sáng. Lời ghi nhận “Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Ki-tô phải chỗi dậy từ cõi chết” ám chỉ đến tiến trình các môn đệ hậu phục sinh giải thích biến cố Phục Sinh của Chúa Ki-tô nhờ ánh sáng Cựu Ước (Ga 2: 17, 22; 12: 16). Hơn nữa, vào lúc này, Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng tâm trí của họ để hiểu nội dung Kinh Thánh, chưa được ban cho họ (Ga 14: 26; Lc 24: 45).
Các bản văn Kinh Thánh lại hiện ra trong tâm trí các ông. Người ta có thể phỏng đoán rằng họ nghĩ đến Tv 16, vì, vài tuần sau đó, chính Thánh Vịnh nầy mà thánh Phê-rô sẽ trích dẫn cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để đưa ra những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh (Cv 2 : 24-31). Quả thật, trong Tv 16, chúng ta gặp thấy những hàng nầy:
“Thân xác con cũng nghĩ ngơi an toàn.Vì Chúa chẳng đành để mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung nầy hư nát trong phần mộ” (Tv 16: 9-10).
Ấy vậy, truyền thống đã áp dụng Thánh Vịnh này vào Đấng Mê-si-a.
Như vậy, hai vị Tông Đồ rời khỏi ngôi mộ trống với hai yếu tố cần thiết cho niềm xác tín của họ: trước hết, chứng thực những điều các ông đã chứng kiến; sau nữa, khẳng định những lời Kinh Thánh tiên báo.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam