Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 45

Tổng truy cập: 1379200

NGƯỜI ĐỆ TỬ ĐÍCH THỰC

NGƯỜI ĐỆ TỬ ĐÍCH THỰC

Bài giảng trên cánh đồng của Luca không chỉ ngắn hơn bài giảng của Mt 5-7; mặc dù trong 30 câu phần lớn đều song song với 107 câu của Matthêu nhưng giọng điệu hoàn toàn khác. Chỗ nào Tin Mừng thứ nhất làm nổi bật thái độ tôn giáo của các môn đệ Chúa Kitô khác biệt trong nhiều điểm với thái độ của các Kinh sư Do Thái, thì về phần mình Luca tìm cách liên kết cộng đoàn Kitô hữu với Israel hơn là tạo những khoảng cách –điều mà tự nhiên cộng đoàn đã làm. Ông trình bày cho Thêophilê, trước kia là người ngoại giáo (x. 1,3), như bản mẫu của sứ điệp Tin Mừng, điều độc đáo hơn cả trong lời giảng dạy của Chúa Giêsu, không hề có trong kho tàng khôn ngoan của các dân tộc.

Sau các mối phúc nói cho những người bị đè bẹp trong cuộc sống, thì phần thứ hai, một cách hành xử tuyệt đối đặc biệt trước hết được đề nghị với các môn đệ: yêu thương kẻ thù. Lý lịch của những kẻ thù này được biểu lộ qua các hành vi họ làm (cc. 27-28): đó là những kẻ bách hại các Kitô hữu được nói đến trong mối phúc thứ tư. Nói với những kẻ đang nghe Ngài -một gợi nhớ đến câu 18- Chúa Giêsu yêu cầu họ có tình thương (agapè) đối với những ai ghét họ. Đây không phải là vấn đề tình cảm mà người ta có đối với một phần tử gia đình, cũng không phải tình bằng hữu với một kẻ ngang hàng, càng không phải thứ tình yêu đam mê. Đây là việc tôn trọng và khoan dung đối với kẻ thù, được biểu lộ bằng cử chỉ và lời nói. Một yêu cầu như thế đã thực vậy ở các câu 27-28, được nhắc lại ở câu 35. Vậy, những câu được đóng khung như thế phải được hiểu theo quan điểm này; chúng minh hoạ một đòi hỏi căn bản.

Những thí dụ mới đầu được trình bày ở ngôi thứ hai số ít: sự bất bạo động đối với ai bạo hành người tín hữu, sự trao ban cách thường quen… ngay cả cho kẻ trộm; phải nhường nhịn trong tất cả ý nghĩa của từ này (cc. 29-30). Rồi tới”luật vàng” (c.31) mở ra một triển khai mới bằng từ”anh em”. Hãy để ý: việc chuyển từ ngôi thứ hai số ít (ở đây, (cc. 29-30; xa hơn, (cc. 41-42) qua ngôi thứ hai số nhiều gợi lên sự vượt quá tương quan liên bản vị. Như thế”luật vàng” được trình bày cách tích cực: tính hỗ tương mà luật này phải dựa vào (làm cho người khác điều thiện mà mình muốn nhận nơi họ) được xác định, ngay cả được vượt qua, trong, trong các câu 31-34. Thực vậy, ba câu hỏi nhắc lại rằng chỉ có việc không tính toán và không cho để được cho, chỉ có tính cách vô vị lợi mới phân biệt cách ăn ở của những người tội lỗi, những người này cũng biết yêu thương, nhân ái đối với những ai đối xử với họ như vậy. Trong sáu câu này, thính giả được mời gọi hằng ngày phải vượt qua chính mình, phải sáng tạo để làm điều thiện cho kẻ khác, nhất là cho kẻ không muốn làm điều thiện cho mình.

Có thể rằng một thực hành như thế sẽ ”tước khí giới” đối phương –sức mạnh của những người bất bạo động mà Gandhi đã sử dụng chẳng hạn… nhưng Chúa Giêsu không nói gì đến chuyện đó, bởi vì Ngài nhấn mạnh sự kiện là không được tìm kết quả trên bình diện con người; nếu có thì đó chỉ là phần được ban thôi. Người tín hữu chỉ trông chờ lời đáp của Thiên Chúa. Đáp lại ba hành vi phục vụ người khác (c.35) là lòng biết ơn của Thiên Chúa (nguyên văn là ân sủng, phần thưởng): nó làm cho trở thành con cái của Thiên Chúa. Ở đây cũng như ở Mt 5,9-45, chính trên cơ sở những tương quan liên vị mà có sự đồng hoá của người tín hữu với Đấng là Con duy nhất của Thiên Chúa.

Câu 36 là một câu then chốt, nó vừa đóng lại phần khai triển ở trên vừa mở ra phần hai ngắn gọn: sự từ chối xét đoán người khác (cc. 37-38). Cả hai đều dựa trên việc bắt chước Thiên Chúa. Người tín hữu vừa được hứa ban cho trở thành con của Chúa, ước gì họ đừng quên cách ngôn”Cha nào, con nấy!”. Đã được hình thành ở Lv 19,2 đề tài bắt chước Thiên Chúa nhắm tới sự”thánh thiện”. Trong bài giảng của Matthêu thì nói nên hoàn thiện như Cha trên trời (Mt 5,48). Đó là một ưu phẩm khác của Thiên Chúa được đề cao ở đây: cảm thông, nhân từ, trong chiều hướng của Xh 34,6, nơi đó Thiên Chúa tự tuyên bố là Đấng cảm thông và đầy tình thương xót. Chính cách hành xử của Chúa Cha thiết lập và làm cho khả thi tình yêu của tín hữu đối với kẻ thù, cũng y như việc từ chối không đoán xét anh em.

Như vậy những câu 37-38 cũng minh hoạ điều mà lòng thương xót làm nảy sinh. Bằng bốn ý tưởng –hai câu phủ định và hai khẳng định- Chúa Giêsu kêu gọi người ta mãi mãi trong một lượng giá chắc như đinh đóng cột. Người tín hữu không có thể thay thế Thiên Chúa để lên án người khác, cũng không mong người khác đối xử với mình như vậy, đấy là công việc của một mình Thiên Chúa mà thôi: rốt cuộc chính Người sẽ xét xử, sẽ lên án hay tha thứ, sẽ ban phát dư dật. Cách hành xử của tôi đối với người khác như thế nào thì Thiên Chúa cũng sẽ xử với tôi như vậy.

 

54. Cách sống của môn đệ

  1. HÌNH THỨC

Xét về hình thức (cách dùng chữ, dùng hình ảnh…) bản văn Luca có những đặc điểm sau đây:

1) Lv 19,18 cũng có lời dạy yêu thương “Hãy yêu thương tha nhân như chính bản thân mình”. Lc đã thay chữ “tha nhân” (prochain) bằng chữ “kẻ thù”. Câu 27 “Hãy yêu thương kẻ thù”.

Người thời Cựu ước cũng biết mở rộng tình thương ra khỏi phạm vi hạn hẹp của gia đình, nhưng chỉ mở rộng tới “tha nhân” (hiểu là những kẻ ở ngoài gia đình mà được mình thích). Đức Giêsu mở rộng tới chỗ không ai ngờ. Đó là: “kẻ thù”.

2) Mt 5,40: “Ai muốn kiện con để đoạt áo trong…”

Lc 6,29: “Ai đoạt con áo choàng…” Rộng hơn: không nhẹ nhàng trong một vụ kiện, mà mạnh mẽ vì là một sự tấn công.

3) Mt 5,42 ghi: “À qui te demande, donne”.

Lc 6,30 ghi: “À quiconque te demande, donne…”: rộng hơn.

4) c.31: “Các con muốn người ta làm chi cho mình thì hãy làm cho người ta như thế”. So với một số câu khác thì câu này tích cực hơn:

       – Sách Nho: Kỷ sở bất dục – Vật thi ư nhân.

       – Tb 4,15: Điều mà con không thích thì đừng làm cho người khác.

       – Ông Hillel: Điều con không thích thì đừng làm cho tha nhân.

       – Trường phái Hy Lạp Stoiciens: Điều ngươi không muốn người ta làm cho bạn thì bạn đừng làm cho người ta.

Chẳng những tích cực, câu này còn biểu lộ sự quãng đại có sáng kiến trước (không đợi cho có kinh nghiệm về sự khó chịu người khác gây cho mình rồi mới dựa vào đó để đừng gây cho người ta).

5) c.33: “Nếu các con làm ơn…” so với Mt 5,47 “Nếu các con chào hỏi…” Ta thấy Lc sửa lại cho hợp với thính giả người lương (“chào hỏi” là thói quen của thính giả Do Thái và Phương Đông).

“… thì có gì là ơn với nghĩa”: so với Mt 5,46 “… thì còn đáng thưởng công chi nữa”: bớt đi tính vụ lợi, nhấn mạnh đến tính miễn phí vì lợi ích vì gợi tới ơn Chúa.

6) c.35: “… các con… sẽ được gọi là Con Đấng Chí tôn”: đây chính là tước hiệu của Đức Giêsu (Lc 1,32): kẻ nào yêu thương kẻ thù thì được mang cùng tước hiệu với Đức Giêsu.

7) c.36: “Như Cha các con là Đấng xót thương” so với Mt 5,48: “Như Cha là Đấng trọn lành”. Lc không nói mơ hồ, mà diễn tả sự trọn lành bằng một đức tính cụ thể là xót thương.

8) cc 37.38: “Sẽ không bị xét đoán… không bị lên án… sẽ được cho…”: đây là những passif divin hiểu ngầm tác nhân của những động từ ấy là Thiên Chúa.

  1. NỘI DUNG

Đoạn Tin mừng này đề cập đến ba điều: Yêu thương kẻ thù – Đừng xét đoán (lòng thương xót) và Hãy cho đi (lòng tốt).

I – YÊU THƯƠNG KẺ THÙ (CC 27-36)

27-28 Cựu ước cũng có giới luật yêu thương: Lv 19,18 “Ngươi hãy yêu thương cận nhân” (ton prochain). Đức Giêsu chú giải chữ “cận nhân” ấy một cách rộng rãi hơn: Cận nhân là bất cứ ai, không giới hạn, kể cả kẻ thù. Thực ra trong số những cận nhân, kẻ thù là đối tượng khó thương nhất. Nên khi Đức Giêsu cụ thể hóa tình thương cận nhân vào đối tượng này thì tình thương trở thành vừa cụ thể nhất vừa cao nhất.

Thế nhưng làm sao có thể ép tình thương được? Nói đúng ra yêu thương xét theo nó là một tình cảm thì không thể ép được. Điều Đức Giêsu dạy ở đây là: làm ơn – chúc phúc – cầu nguyện. Nếu có được tình cảm thì càng tốt, còn nếu chưa có thì hãy làm những việc ấy, dần dần chúng có thể đưa đến tình cảm thật.

Đặc biệt, khi cầu nguyện cho kẻ thù thì người môn đệ kéo Chúa vào cuộc theo: họ xin Chúa làm cho kẻ thù điều mà bản thân họ chưa làm nỗi.

29-30 Khuynh hướng tự nhiên là muốn trả đủa, lấy ác báo ác. Đức Giêsu dạy ta đừng trả đủa, đừng lấy ác báo ác.

Khi trả đủa, người ta tưởng rằng có thể lấy sự ác để chiến thắng sự ác. Thực ra như thế là rất sai. Sự ác chỉ có thể bị chiến thắng bởi sự thiện mà thôi.

Vả má, đoạt áo, xin và đoạt của đều là những thí dụ Đức Giêsu dùng để diễn tả thái độ lấy thiện báo ác trên. Những thí dụ này ta không nhất thiết phải theo đúng (vả lại chúng được diễn tả cách cường điệu). Phải luôn nhớ điều quan trọng là “lấy thiện báo ác” và mỗi người cố gắng thể hiện ra bằng những thí dụ hợp với hoàn cảnh mình.

c.31: “Các con muốn người ta làm chi cho mình thì hãy làm như thế cho người ta”. So với lời dạy của nhiều người khác (xem phần A) thì lời này của Đức Giêsu tích cực hơn và rộng rãi hơn.

32-34 Tình thương của người môn đệ không được dựa trên những tính toán có qua có lại. Họ yêu thương chỉ vì đó là cách hành động của Thiên Chúa yêu thương mọi người mà không mong được đáp đền.

c.35 Ai yêu thương như thế thì được gọi là “Con Đấng Tối cao”. Đây chính là tước hiệu được đặt cho chính Đức Giêsu (xem Lc 1,32).

c.36: Như thế tình thương của người môn đệ có hai nguyên tắc hướng dẫn: Một là như chính mình. Hai là như Cha. Thực ra hai nguyên tắc này cũng thành một bởi vì người môn đệ chính là “Con Đấng Tối cao”.

II – ĐỪNG XÉT ĐOÁN: (CC.37)

Đã yêu thương thật thì sẽ không xét đoán, bởi vì nếu xét đoán xem đối tượng có đáng được ta yêu hay không, tức là đã giới hạn cho tình thương rồi.

Thế nhưng phải chăng ta cũng không được có cảm nghĩ này nọ về một người nào đó? Ở đây phải phân biệt: có thể đánh giá về một hành động của người ta (xấu hay tốt), nhưng không được từ đó mà đưa ra kết luận tốt xấu về con người của người đó được.

III – CHO ĐI: C.38

Đức Giêsu dùng hình ảnh ông chủ ruộng đối xử với thợ mình: người chủ keo kiệt thì đong lúa thật kỹ (để chỉ vừa đủ thôi, thí dụ đong nhanh, lấy cây để gạt miệng đấu) người chủ rộng lượng thì có ý đong sao cho thật đầy (dằn, lắc, đổ vun lên vv…) nếu ta cư xử với người khác thế nào (keo kiệt hay rộng lượng) thì Thiên Chúa cũng cư xử với ta như thế đó.

KẾT LUẬN

Tương quan giữa người môn đệ với kẻ khác không còn phải dựa trên luật trả đủa của Cựu ước, cũng không dựa trên luật công bình phân phối của người đời, mà phải dựa trên tình thương huynh đệ: Mọi người đều là anh em vì có cùng một Cha trên Trời.

 

55. Tha thứ là trao ban

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

Sống trên trần gian này yêu kẻ yêu ta thì dễ mà ghét kẻ ghét ta thường là khuynh hướng tự nhiên của mọi người. Người ta thường có cảm tình với kẻ có thiện cảm với ta và ác cảm, thù hận với những kẻ tranh chấp, hận thù và xấu với ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại nói khác: “ Hãy yêu thương cả kẻ thù… Hãy yêu mến cả kẻ không có chút thiện cảm với ta “.

THA THỨ LÀ MỘT CỬ CHỈ ANH HÙNG, KẺ CẢ: Cuộc đời là một cuộc hành trình đầy gian khó. Con người phải vất vả, cố gắng, phấn đấu hy sinh và khó nhọc để sinh sống, để tương quan với nhiều người khác. Yêu kẻ yêu thương mình là khuynh hướng quá tự nhiên, quá bình thường với mọi người. Do đó, cử chỉ tha thứ, thái độ thông cảm, tấm lòng yêu thương đối với những người ta không hề thiện cảm quả thực thật khó khăn. Chính vì thế, tha thứ là một hành động đáng khen ngơi, một cử chỉ anh hùng, cao quí, vượt lên những gì là tầm thường, là đời thường để vượt lên trên bình diện cao hơn, siêu nhiên hơn để sống yêu thương, từ tốn và nhân hậu như Chúa đã nói trong Tin Mừng: “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con” “ Tha thứ tới bảy mươi lần bảy, tha thứ không ngừng”. Chúa Giêsu dậy con người là tha thứ mãi mãi, tha thứ không thôi vì tha thứ là trao ban cho chính kẻ mình ghét cay, ghét đắng.Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Chúa đã yêu thương mọi người, tha thứ cho mọi người, nên tha thứ là trao ban hai lần, là trao ban cử chỉ yêu thương cho chính kẻ thù của mình. Chúa Giêsu đã mời gọi: “Hãy yêu kẻ thù “. Kẻ thù là người đối kháng với ta, là kẻ không có gì là thiện cảm, là yêu thương ta. Do đó, Chúa kêu gọi yêu kẻ thù là một mệnh lệnh thật khó. Tuy nhiên, khó nhưng không phải là khôg thực hiện được vì chính Chúa đã làm gương cho ta khi cúi mình rửa chân cho các môn đệ và tha thứ cho những kẻ làm hại mình, những kẻ giết mình. Đây là gương tha thứ cao độ nhất mà người đời không dễ thực hiện.

Chúa chỉ cho mọi người thấy gương cao vời của người: Chúa đến để yêu thương, để tha thứ chứ không phải để giết chết và óan hận.

TẠI SAO CHÚNG TA PHẢI YÊU THƯƠNG KẺ THÙ?: Cứ thường tình kẻ mến ta, kẻ giúp đỡ ta là những kẻ được ta lưu tâm, được ta giúp đỡ lại. Tội gì lại thương yêu kẻ ghét và hận thù với ta. Chúa đã làm gương để ta soi khi Chúa tha thứ cho những kẻ không biết việc họ làm, treo Ngài lên thập giá. Chúa tha thứ và phong thánh cho kẻ trộm lành. Chúa truyền dạy ta phải theo gương Chúa: “Các con hãy học cùng ta, vì ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11, 29). Thánh Phaolô cũng nói: “Anh em hãy bắt chước Thầy, như là Thầy đã bắt chước Chúa Kitô” (1Cr 11, 1).

Giới luật mới của Chúa xem ra trái nghịch hòan tòan với những luật lệ của người biệt phái, Pharisiêu vv…Đức ái của Chúa buộc con người yêu thương hết cả mọi người kể cả kẻ thù nữa (Lc 6, 27-35). Do đó, Chúa Giêsu dạy các môn đệ và mọi người phải yêu thương tất cả không trừ một ai. Đây là một nhân đức siêu nhiên vượt trên mọi nhân đức ở thế gian này. Ta thử tìm đọc dụ ngôn của thánh Luca 10, 25-37 về người Samaritanô nhân hậu. Chúa bảo chúng ta phải yêu thương mọi người vì mọi người được dựng nên đều giống hình ảnh Thiên Chúa, vì mọi người không phân biệt bất cứ ai được cứu chuộc bởi giá máu cứu chuộc của Thiên Chúa. Vì mọi người đều là con một Cha trên trời.

Vâng, đối với người Kitô hữu, chúng ta được mời gọi yêu thương kẻ thù chính là lời Chúa dậy: “Anh em hãy yêu thươ ng kẻ thù. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng tối cao”(Lc 6, 35). Lời Chúa tra vấn ta nếu ta không yêu kẻ thù, tha thứ cho họ và không cầu nguyện cho những kẻ bách hại, ngược đã ta thì ta chưa xứng đáng là con đích thực của Chúa.

Yêu người sẽ gặp Chúa và yêu Chúa sẽ gặp người.

Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết yêu thương và tha thứ cho những kẻ đã sống không tốt với chúng con.

 

56. Yêu thương kẻ thù

(Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

Một trong những huấn lệnh quan trọng nhất và tuyệt vời nhất của Chúa Giêsu là yêu thương thù địch. Đây là một giới luật xem ra nghịch với sự suy nghĩ và quan niệm của con người muôn thế hệ. Sống yêu thương là gặp Chúa vỉ Chúa là tình yêu. Sống hận thù là chối bỏ Đức Kitô. Môn đệ của Đức Giêsu không thể sống con đường nào khác là thể hiện lòng yêu thương.

SỨ ĐIỆP TIN MỪNG:

Chúa Giêsu đến trần gian không để thiết lập một mớ những nguyên tắc, một hệ thống luân lý hầu bóp nghẹt dân chúng. Chúa đến trước hết là vén mở tình yêu của Thiên Chúa và đưa con người vào mối quan hệ tình yêu với Chúa Giêsu. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa, nên họ cũng phải họa lại lối sống của Chúa. Yêu như Chúa, sống như Chúa, đó là con đường của Chúa đã vạch ra cho con người, cho nhân loại. Qua cuộc sống của Chúa, cách Ngài giao tế, tiếp xúc, cách Ngài đối xử với tha nhân, con người sẽ nhận ra được hình ảnh của Thiên Chúa tình yêu. Với cái chết của Chúa trên thập giá, Chúa Giêsu đã tỏ ra cho nhân loại thấy được tình yêu của Thiên Chúa Cha. Yêu như Chúa Giêsu có nghĩa là từ bỏ, trao ban và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người mình yêu: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Do đó, yêu như Thiên chúa yêu là yêu tất cả mọi người, không phân biệt, không loại trừ, yêu ngay cả kẻ thù của mình.

NHÂN LOẠI PHẢI SỐNG VÀ YÊU NHƯ CHÚA GIÊSU:

Chúa Giêsu đã nâng sự yêu thương lên một bình diện cao hơn, mới hơn. Theo bài đọc I trích từ sách Samuen cho thấy, Đavít không khử trừ Saun, mặc dầu Saun đang ngủ và đây là cơ hội ngàn vàng để Đavít có thể loại trừ Saun: “Đừng giết vua, vì có ai đưa tay hại người Chúa đã xức dầu mà không bị phạt”. Ở đây, ta vẫn thấy còn có ranh giới của yêu thương và sự tha thứ. Và bài Tin Mừng của Luca trích đọc hôm nay đưa nhân loại có cái nhìn rộng và sâu hơn, một giới luật yêu thương thật mới mẻ, tuyệt hảo “yêu thương và làm ơn cho kẻ thù”. Chính cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu là lời chứng hùng hồn nhất về lòng yêu thương tuyệt đối của Chúa đối với nhân loại, đối với mọi người không phân biệt bất cứ ai, không loại trừ bất cứ người nào. Chóp đỉnh của yêu thương của Chúa Giêsu là chính lúc Ngài giang tay ra trên thập giá mà vẫn thưa với Cha mình: “Lạy Cha! xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Chúa Giêsu muốn dậy chúng ta phải sống như Ngài, phải yêu như Ngài vì Ngài không bao giờ chỉ nói ngoài môi miệng mà không thực hành điều Ngài nói, Ngài đã chấp nhận cho kẻ dữ đóng đinh, nhưng lại cũng chính Ngài tha thứ cho những người làm hại mình, giết mình.

HÃY THA THỨ NHƯ CHÚA ĐÃ THA THỨ:

Chúa Giêsu quả thực đã làm gương cho nhân loại bằng chính con người yêu thương của mình. Ngài đã tha thứ cho những kẻ làm khổ, đánh đập, lên án và đóng đinh Ngài. Chúa đã sống trọn vẹn tình yêu xả kỷ của Ngài đối với nhân loại, đối với con người. Chúa mời gọi con người hãy yêu thương và tha thứ không ngừng như Phêrô đã hỏi Chúa: “Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con, con phải tha thứ mấy lần? Chúa trả lời: “bảy mươi lần bảy”. Bảy mươi lần bảy có nghĩa là tha thứ và tha thứ luôn luôn, tha thứ không ngừng, không giới hạn. Chỉ có lòng tha thứ, con người mới thực sự trở nên nhân chứng sống động của tình yêu Thiên chúa đối với mọi người. Qua hành động tha thứ của Chúa Giêsu, Ngài khẳng định Ngài không bao giờ thỏa hiệp với cái xấu, Ngài loại trừ cái ác, sự dữ ra khỏi thế gian, ra khỏi con người.

GỢI Ý CHIA SẺ:

  1. Tại sao Chúa Giêsu lại nói: “yêu thương và làm ơn cho kẻ thù”?
  2. Hành động nào của Chúa Giêsu nói lên tình yêu tuyệt đối của Ngài?
  3. Tha thứ như Chúa Giêsu là llàm sao?

home Mục lục Lưu trữ