Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 70

Tổng truy cập: 1379944

NGƯỜI LỚN NHẤT

Người lớn nhất – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Một linh mục kể lại câu chuyện đầy kịch tính sau đây:

Tại một vùng hoang dã, những tay giang hồ tứ chiếng tập trung trong một khu trại. Một phụ nữ duy nhất sống giữa đám đàn ông sa đọa. Ban ngày cuốc xới bới tìm, đêm về là rượu chè bài bạc. Người phụ nữ đã gian díu với một tay quái nào đó và đang mang thai. Ngày sinh con, chị suy nhược không chịu nổi phút thử thách đã chết trên giường sinh.

Biến cố này bắt những tay giang hồ phải suy nghĩ một cái gì khác hơn là chuyện tranh chấp vàng bạc, rượu chè. Thơ nhi được đặt nằm trên tấm ván cạnh xác người mẹ. Bên dưới người ta đặt một cái nón ngửa để nhận quà tặng. Chiếc nón đầy đồng hồ, dây chuyền, nhẫn cưới, đồng vàng. Tất cả quà tặng dùng để chôn xác người mẹ xấu số và nuôi đứa bé thơ dại. Một ông già tình nguyện lo cho cháu nhỏ.

Người ta vô cùng bỡ ngỡ là ngày góp mặt đứa bé trong trại, cuộc sống đám quái đã đổi hẳn. Họ bỏ đánh bạc đêm để cho em bé ngủ yên, dừng lại những câu tục tĩu khi ở trước mặt bé, những nụ hôn thắm thiết như mưa trên nét mặt vô tội.

Một hôm vỡ đê, nước cuồn cuộn tràn lều. Nhảy khỏi giường, ai cũng đến tìm bé. Không ngờ bé và cụ già bố nuôi đã bị cuốn trôi lúc nửa đêm. Hai tay bé vẫn níu chặt cổ bố. Ngày đào hố chôn hai xác thiên thần cũng là ngày những người trong trại giang hồ chôn hết quá khứ. Họ vẫy tay, từ giã nhau mỗi người về một nẻo. Có phải chính nét thơ ngây thiên thần kia làm cho khách giang hồ trực cảm được một ý nghĩa cao đẹp trong cuộc đời trôi nổi phi lý đó? Có phải chính ánh mắt, nụ cười, nét đẹp thiên thần đã khơi một hương sống mới lạc quan và tươi vui hơn.

***

“Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy là đón tiếp chính mình Thầy” (Mc.9,37).

“Trẻ nhỏ” ở đây được xem là những người không quan trọng, không đáng kể, không cần lưu ý; những người nghèo hèn, tàn tật, bị bỏ rơi. Đức Giêsu muốn đồng hòa với những con người bất hạnh ấy, để khi đón tiếp họ, chúng ta hoàn toàn vô vị lợi, vì không mong chờ sự đáp trả của những kẻ khốn khổ ấy. Đó chính là sứ điệp mà Đức Giêsu muốn gởi tới chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay.

Người còn khẳng định: “Ai muốn làm lớn nhất hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc.9,35). Với tinh thần phục vụ vô vị lợi, chúng ta thực sự lớn lên trước mặt Thiên Chúa và anh em. “Người lớn nhất” là người phục vụ nhiều nhất, hăng say nhất. “Người lớn nhất” là người làm trước nhất và nghỉ sau cùng.

Đó là một cuộc cách mạng về quan điểm “Người lớn nhất” nơi Đức Giêsu. “Người lớn nhất” theo kiểu của Đức Giêsu không dùng quyền để lãnh đạo, nhưng dùng đôi tay để phục vụ. “Người lớn nhất” không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng con tim để yêu thương. Thế giới ngày nay rất cần những người đứng đầu theo kiểu mẫu ấy: khiêm tốn, phục vụ, và yêu thương. Bourdaloue có nói: “Đặt mình trên kẻ khác chính là tự buộc mình làm việc và phục vụ họ”. Nhà truyền giáo Albert Schweitzer nói: “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.

Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng là người đứng đầu trong một tập thể nhỏ bé nào đó, xin cho chúng con biết dùng quyền hạn của mình để phục vụ những người Chúa giao phó cho chúng con. Nhất là xin cho chúng con luôn thao thức, làm cho họ ngày càng được an vui và hạnh phúc hơn. Amen.

 

45. Bách hại.

Dân Thiên Chúa luôn luôn phải chịu đau khổ bởi bàn tay bọn người xấu. Họ đau khổ bởi vì đời sống vô tội của họ là một lời trách mắng kẻ xấu. Họ làm cho những kẻ xấu bị phiền nhiễu bằng những lời nói chống lại bất công và tội lỗi, và một đôi khi chỉ vì lòng nhân ái và chính trực trong đời sống của họ. Rõ ràng họ đau khổ chỉ vì họ tốt lành.

Elie Wiesel (nhà văn Do thái và là người được giải thưởng Nobel về hòa bình) kể lại một câu chuyện làm người ta rất lo âu trong một cuốn sách của ông. Một lần nọ, sau khi ra về từ một buổi thuyết trình ở New York, ông gặp một người đàn ông có vẻ quen quen. Ông liền tự hỏi người đàn ông này là ai và trước đây họ gặp nhau ở đâu. Bấy giờ ông nhớ lại. Ông đã biết ông ấy ở Auschwitz. Thình lình một biến cố có liên quan đến người đàn ông ấy hiện về với ông.

Ngay sau khi những trẻ em được xe lửa đưa đến trại tập trung Auschwitz cùng với những người già và người bệnh. Lập tức các em được chọn lựa để đưa vào phòng hơi ngạt. Trong một lần kia, một nhóm các em được hoãn việc hành hình qua hôm sau. Người đàn ông này đã xin lính gác cho ông được ở lại với các em đó trọn đêm cuối cùng của chúng trên cõi đời này. Những lính gác ngạc nhiên nhưng chấp thuận lời thỉnh cầu. Đêm cuối cùng ấy trôi qua như thế nào? Ông bắt đầu kể cho các em nghe những câu chuyện, cố làm cho chúng vui vẻ lên. Tuy nhiên thay vì làm chúng vui lên, ông chỉ có thể làm cho chúng kêu khóc. Vậy, ông và chúng đã làm gì? Ông và bọn trẻ cùng nhau khóc cho tới khi trời sáng. Lúc đó ông tiễn đưa những con người nhỏ bé đến phòng hơi ngạt. Sau đó, ông quay về sân nhà tù để báo cáo công việc khi những người lính gác thấy ông, họ phá ra cười.

Câu chuyện này đóng góp nhiều cho các bài đọc của chúng ta. Chúng ta thấy trong đó sự vô liêm sỉ của kẻ làm ác, sự bách hại người vô tội, và chiến thắng bề ngoài của điều ác, đây là chủ đề của bài đọc 1. Câu chuyện cũng đưa ra một tấm gương tuyệt vời về phục vụ dành cho những người bé mọn, điều này Đức Giêsu đánh giá cao và được Tin Mừng làm nổi bật.

Hành động phục vụ anh dũng của người đàn ông đối với những người bé mọn tỏa ra mọi vẻ rực rỡ của nó trên một hậu cảnh tối đen. Ở Auschwitz, mọi điều gì tốt đẹp và tử tế đều bị chà đạp dưới đất. Ở đó, lợi ích của chính mình là tên gọi của trò chơi. Lòng thương xót hiếm hoi như một cánh hoa ở giữa mùa đông.

Tuy nhiên, người đàn ông ấy vượt lên trên mọi điều đó. Ông đánh liều mạng sống mình để giúp đỡ những người bé mọn như những bạn bè. Ông không có một lời giải đáp nào cho họ, không đem đến cho họ một sự cứu thoát nào. Tất cả những gì ông có thể làm là ở cùng bọn trẻ trong những giờ cuối cùng để bọn trẻ không chịu đau khổ một mình.

Ông là một người giống Đức Kitô. Ông không tham gia vào điều xấu. Ông cũng không đứng yên và nhìn người khác đau khổ mà không cố gắng làm dịu bớt những đau khổ của họ. Dù rằng ông chỉ là một tù nhân bình thường, không địa vị, không quyền thế, nhưng không chút nghi ngờ, ông là người cao trọng nhất trong nơi buồn thảm ấy vào thời điểm buồn thảm ấy. Điều làm cho ông vĩ đại, chính là lòng nhân hậu của ông.

Đức Kitô đúng là Đấng cao cả nhất. Dù vậy Người cũng đã đau khổ. Suốt trong sứ vụ công khai, Người bị những kẻ thù săn đuổi. Sở dĩ như thế vì Người quá tốt lành, quá công chính đến nỗi họ nhìn thấy rõ. Nhưng đặc biệt khi ở trên thập giá, Người đã chịu đau khổ vì những lời chửi rủa của những kẻ thù và những kẻ vô thần.

Đức Kitô đã chiến thắng, không phải bằng cách tránh né điều xấu, nhưng bằng cách đối đầu nó và vượt qua nó. Người đã đem lại lòng can đảm và hy vọng cho tất cả những người hiến dâng chính mình cho người khác vì một lý do chính đáng.

Sự bách hại luôn luôn là số phận của những người ngay thẳng trung trực. Tuy nhiên, nó cho họ cơ hội để biểu lộ lòng can đảm của họ. Mặt khác, người công chính biết rằng Thiên Chúa ở bên cạnh họ. Kinh tin kính của người chính trực là niềm tin không lay chuyển của họ vào tình yêu mà Thiên Chúa cho họ. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi người chính trực, nhưng là phần thưởng của họ ở trong cuộc sống mai sau.

“Ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy”. Sự sống lại bảo đảm cho chúng ta chiến thắng sau cùng của điều thiện trên điều ác, của sự sống trên sự chết.

 

46. Theo Chúa phải khiêm nhường phục vụ

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Sau khi thăm dò ý kiến dân chúng về chính con người của mình, Chúa Giêsu quay sang hỏi các môn đệ, và nhận được phản hồi từ Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8, 29). Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải cho các ông biết Người là “Người Tôi Tớ đau khổ” được Isaia loan báo cũng Đavít đã nói trong Thánh Vịnh 22 (21). Người Tôi Tớ ấy: “Sẽ phải chịu đau khổ nhiều…bị giết đi” (Mc 8, 31).

Các môn đệ kia không biết các ông có hiểu hay có ý kiến gì không, vì không thấy ai nói gì? Còn Phêrô, vì không chấp nhận mạc khải ấy nên đã bị khiển trách nặng nề: “Satan, hãy lui đi” (Mc 8, 33). Nhưng với tình thầy trò, Chúa Giêsu tiếp tục dạy dỗ các ông nhiều điều, dẫn các ông lên một ngọn núi cao và biến hình trước mặt các ông, để củng cố niềm tin của các ông trước cuộc Khổ Nạn sắp tới.

Bài học về sự phục vụ

Sau khi biến hình, thầy trò xuống núi, trở lại với các môn đệ kia, Chúa Giêsu lại tiếp dục dạy dỗ các ông lần thứ hai: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Marcô ghi rõ: “Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người” (Mc 9, 10), nghĩa là có Phêrô, Giacôbê và Gioan vừa chứng kiến cảnh Thầy biến hình, vậy mà các ông vẫn không hiểu, vì không hiểu nên các ông mới hỏi nhau: “Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?” (Mc 9,10) Và cũng từ sự không hiểu biết này dẫn đến cuộc cãi vã dọc đường (x. Mc 9, 34), tệ hơn nữa Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho được một ngồi bên tả, một ngồi bên hữu Thầy (x. Mc 10, 35). Câu trả lời của Chúa Giêsu thật mạnh mẽ: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc 9, 35); Và Người nói tiếp: “Cũng vậy, Con Người đến không phải để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống cho nhiều người” (Mc 10, 45).

Bài học về sự khiêm nhường

Khiêm nhường đón tiếp cả trẻ nhỏ và trở nên người rốt hết phục vụ mọi người, là điều Chúa Giêsu muốn các môn đệ của mình phải noi theo. Kiêu ngạo sẽ biến người ta trở thành kẻ tự phụ, đề cao mình không đúng mức, hoặc khinh dể kẻ khác, tìm cách hạ người khác xuống để mình được tôn lên. Người kiêu ngạo hay khoe khoang và có thái độ tự đắc, rất ham thích địa vị và tiếng khen, muốn được phục vụ và không phục thiện. Ai không đồng ý kiến, hay nói lời khinh chê, thì họ tỏ thái độ buồn giận bực tức và tìm cách trả thù. Hậu quả là kẻ kiêu ngạo bị Thiên Chúa đối địch và người đời ghen ghét.

Kinh Thánh dạy rằng: “Thiên Chúa chống đối kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho người khiêm tốn” (x. Gc 4,6). Kẻ kiêu ngạo không những bị Thiên Chúa đối địch mà còn bị người đời ghét bỏ và xa tránh. Bị người đời chống lại đã nguy hiểm, phương chi bị Thiên Chúa đối địch thì khủng khiếp biết bao, khốn nạn biết chừng nào. Có lời Chúa phán “Kẻ nào tự nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, và kẻ nào tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên” (Mt 23,12)… Nếu như bạn có điều gì tốt, hãy nhận về bạn, nhưng đừng quên lỗi lầm của bạn; đừng thổi phồng những gì hôm nay bạn đã làm tốt, đừng loại sự xấu gần đây và trong quá khứ; nếu điều hiện tại mang lại cho bạn hư vinh, hãy nhớ quá khứ; đây là cách bạn nhận ra sự kém cỏi của mình!

Và nếu bạn thấy lỗi lầm của tha nhân, hãy thận trọng coi như lỗi này ở trong anh em, nhưng cũng phải suy nghĩ về những gì tốt anh em đang làm hoặc đã làm; nếu bạn duyệt toàn bộ cuộc sống của bạn và không tính toán chi li, thì theo lẽ thường, bạn sẽ khám phá ra điều tốt nơi mình. Thiên Chúa không để ý đến từng li từng tí của con người… chúng ta phải luôn nhắc nhủ nhau rằng, đừng có kiêu ngạo, hãy ăn ở khiêm hường và hạ mình xuống để được nhấc lên.

Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng đã từ trời hạ mình xuống… Nhưng sau khi tự hạ, Người đã được tôn vinh, những người bị ngược đãi như các môn đệ đầu tiên, hay những người nghèo khổ, đói rách, trần truồng, đi khắp thế gian, không lời khôn ngoan, không đánh trống phô trương, nhưng nhiệt thành làm việc, lang thang trên đất và trên biển, bị đánh đập, bị ném đá, bị trục xuất và cuối cùng bị giết cũng được tôn vinh với Người.

Chúng ta cũng vậy, hãy bắt chước họ và bước theo để được vào nơi đầy ánh sáng và vinh quang đời đời, đây là món quà tốt hảo và chân thật Thiên Chúa dành cho những ai đi theo đường lối Người.

Lạy Chúa Giêsu khiêm nhường và hiền lành, xin giúp chúng con dẹp tính khoe khoang, cậy mình và năng nhớ lời Chúa dạy: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc 9, 35). Amen.

 

47. Tính ganh ghét.

Trong lúc Đức Giêsu gần tới giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc đời là sắp bị bắt và chịu chết để chuộc tội loài người, thì các tông đồ lại còn ganh ghét nhau, tranh giành địa vị với nhau xem ai lớn ai nhỏ trong nước mà họ tưởng Chúa sẽ thành lập. Như thế đủ biết cái tính ganh ghét có thể xâm nhập vào bất cứ ai (kể cả các tông đồ), và bất cứ hoàn cảnh nào (kể cả lúc Đức Giêsu sắp chịu chết). Cho nên ganh ghét được coi là một trong 7 mối tội đầu, mối thứ 3.

– Gia đình chẳng hạn: lẽ ra đó phải là một tổ ấm hạnh phúc mà mọi người sống trong đó yêu thương, nâng đỡ, nhường nhịn, ủi an nhau. Nhưng nếu chẳng may trong gia đình có một người ganh ghét, thí dụ như một người chị ganh với một đứa em vì nó đẹp hơn, thông minh hơn, được mọi người thương mến hơn… thì trong nhà có những lườm nguýt, phân bì, nói bóng nói gió, cãi vã nhau, thậm chí xô xát nhau nữa… Gia đình hết là tổ ấm mà trở thành gần như hỏa ngục.

– Ở sở làm cũng thế, nhất là những chỗ có nhiều đàn bà con gái. Nhiều chị em đã phải vất vả tốn công tốn của để tìm cho được một chỗ làm. Bắt đầu đi làm thì vui vẻ hăng hái lạc quan. Nhưng làm một thời gian rồi thì đụng phải sự ganh ghét của chị em đồng nghiệp, và khởi sự chán nản, buồn bã, bi quan, chỉ muốn thôi việc đi tìm chỗ khác. Ganh ghét đưa đến những tai hại như thế nào?

  1. Trước hết là hại cho chính bản thân người ganh ghét:

. Người ganh ghét tự nung nấu ruột gan mình bằng ngọn lửa khó chịu âm ỉ mãi. Thấy người ta dở, người ta xấu, người ta làm sai làm quấy thì mình khó chịu đã đành; mà thấy người ta hay, người ta tốt, người ta thành công mình cũng khó chịu. Thành ra khi người ta vui thì mình buồn, người ta sung sướng thì mình đau khổ, người ta càng vui sướng chừng nào thì mình càng buồn khổ chừng nấy.

. Hại hơn nữa là người ganh ghét tự làm giảm giá trị và tư cách của mình nữa. Ganh ghét với ai là tự đặt mình vào thế tranh đua với người đó. Mà trong cuộc tranh đua này, nếu mình cảm thấy khó chịu, bực tức khổ sở trước thành công của người khác, thì đó là dấu mình đã thua kém. Thua kém mà còn khó chịu bực tức thì cho thấy tư cách của mình cũng thấp kém nữa.

  1. Tai hại thứ hai của tính ganh ghét là gây cho nạn nhân bị mình ganh ghét.

Vì ganh ghét mà mình làm cho người ta buồn người ta khổ một cách hết sức bất công. Chứ nếu công bình mà xét thì người ta đâu có gì để đáng phải buồn khổ như vậy. Chỉ vì người ta hay, người ta tốt, người ta giỏi mà người ta phải khổ. Lẽ ra người ta phải được khen thưởng, phải được mừng vui thì vì ganh ghét mà mình làm cho người ta khổ sở. Người bị ganh ghét như thế lâm vào một hoàn cảnh thật khó xử: một đàng là công việc phải làm, đã làm thì phải làm cho tốt, cho hay – mà càng tốt càng hay thì càng bị mỉa mai dằn vặt. Biết xử thế nào bây giờ! Thật là khó. Thôi chỉ còn nước cứ tiếp tục làm và cắn răng, nuốt nước mắt mà chịu đựng những lời mỉa mai của kẻ ganh ghét.

  1. Sau cùng tính ganh ghét còn làm hại cho tập thể nữa.

Người ganh ghét như một con sâu, một con vi trùng độc hại, âm thầm mà hiểm độc phá hoại tập thể, làm cho tập thể mất đoàn kết, mất bình an, mất hăng hái. Cho nên thật là tai hại cho tập thể nào có một vài người ganh ghét; và cũng thật là xui xẻo cho ai lỡ thuộc về tập thể có vài kẻ ganh ghét như thế. Những tai hại vừa kể dẫu không nói ra thì ai cũng có thể nhận thấy. Nhưng có một điều khó nhận thấy là ít ai nhận thấy mình mang tính ganh ghét. Ai cũng có thể bị tính ganh ghét xâm nhập, nhưng ít ai biết mình đang có tính xấu ấy. Chị em có thể ganh ghét nhau mà không hay; bạn bè có thể ganh ghét nhau mà không biết; những người đồng lý tưởng có thể ganh ghét nhau làm hại nhau mà không ngờ. Các con của ông Giacóp ganh ghét đến nỗi bán em là Giuse mà vẫn thản nhiên; các tông đồ ganh ghét tranh giành địa vị với nhau đang lúc Đức Giêsu sắp bị bắt giết mà vẫn không thấy là kỳ. Chúng ta cũng có thể đang ganh ghét với người đồng nghiệp của mình, với người hàng xóm của mình, với chính anh chị em bạn bè của mình mà vẫn không hay. Vì thế chúng ta phải hết sức khiêm nhường mỗi khi xét mình, kiểm điểm đời sống. Dấu hiệu rõ ràng nhất cho biết mình đang có tính ganh ghét là khi mình thấy người khác thành công, mình chẳng những không vui mừng với người ta mà còn bực bội khó chịu với họ, hay thấy người ta thất bại thì mình lại vui sướng.

 

48. Suy niệm của Fx. Đỗ Công Minh.

Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết (Mc 9, 35).

Bài Tin mừng hôm nay Thánh Maccô tường thuật chuyện Chúa mạc khải cho các môn đệ về con đường khổ giá Người phải trải qua trước khi bước vào vinh quang phục sinh: “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết Người sẽ sống lại”, nhưng các ông không hiểu lời đó và các ông sợ không dám hỏi lại Người. Các ông lúc ấy chỉ chăm chăm vào vị trí của từng người trong cộng đòan. Thánh Maccô mô tả “khi đi đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”.

Chúa Giêsu đã biết rõ lòng các ông. Chúa thấu hiểu tâm lý con người trần gian là ai cũng muốn có vị trí cao hơn người trong một tập thể, trong xã hội lòai người. Ý tưởng muốn “làm lớn” cũng là tâm trạng bình thường trong xã hội có tổ chức, có sự phân công. Nhưng quan niệm làm lớn để làm gì thì lại không đơn giản. Người mong được làm lớn để thể hiện quyền lực với người khác, với bề dưới. Cũng có người có thiện ý là mong có vị trí cao để phát huy năng lực của mình, thể hiện tài năng của mình trong môi trường được giao. Nhưng đa phần thì mong có quyền cao chức trọng là để thỏa mãn cái tôi, để được thụ hưởng quyền lợi lớn lao về tiền tài, nhà cửa, phương tiện do chức vụ, vị trí đem lại. Có người mong có danh vị theo suy nghĩ “một người làm quan cả họ được nhờ”, thích đi đến đâu cũng được người khác chào đón tung hô, tùng phục, kiêng nể, kính sợ.

Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có cái nhìn khác, Người là Thầy dạy của các môn đệ lúc đó đã ngồi xuống, gọi nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”, và chính Người đã làm như vậy với các ông. Một quan niệm xem ra trái ngược với suy nghĩ của con người mọi thời mọi lúc. Làm việc, học hỏi, nghiên cứu… tốn không biết bao nhiêu công sức, thời gian, tiền bạc bỏ ra để mong có ngày được cất nhắc lên vị trí cao hơn như tổ trưởng, trưởng khoa, trưởng phòng, quản đốc rồi lên phó giám đốc, giám đốc… của một đơn vị, một công ty, một cơ quan, một ngành, sở mà Chúa lại dạy phải sống như người rốt hết, phải phục vụ mọi người thì dại gì mà phấn đấu, dại gì mà hăng say. Làm sao lại phải khép mình sống nghịch lại lẽ thường như vậy? Thế mà Đức Kitô lại dạy như thế ai nghe cho lọt. Và để minh họa rõ thêm, Người đã dùng một em nhỏ đặt giữa các ông, ôm lấy em và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”.

Sống trong xã hội hay trong Giáo hội vẫn có sự sắp xếp, phân công. Cần những người có khả năng, đáp ứng một số điều kiện sẽ được điều động cất nhắc, không vì lợi ích của bản thân họ, nhưng vì lợi ích của cộng đồng, mưu ích cho nhiều người. Người được cất nhắc tất nhiên có quyền lợi chính đáng nhưng đồng thời có trách nhiệm lớn lao đối với công việc đảm nhận. Có quyền hạn để thực thi chức trách của mình. Nhưng quan trọng hơn cả là thái độ và tinh thần phục vụ, phải tận tụy, hy sinh cho tập thể, cho lợi ích chung chứ không theo quyền lợi cá nhân, riêng tư theo kiểu lợi ích nhóm. Thực hiện chức trách theo đúng bổn phận, quyền hạn như đón tiếp một trẻ thơ, không đòi hỏi nơi các em sự hầu hạ mà sẵn sàng hạ mình đáp ứng nhu cầu của em bé ngây thơ, trong trắng. Phục vụ trong Giáo hội cũng như vậy.

Lạy Chúa,

Xin cho con biết nhìn lại mình với vai trò người cha, người mẹ trong gia đình; người anh, người chị; người đội trưởng, đoàn trưởng các đòan thể trong giáo xứ. Người trưởng khu giáo, hay trong Hội đồng mục vụ giáo xứ…Là người có địa vị nào đó trong xã hội, con đã thể hiện vai trò đó ra sao? Có trở nên người phục vụ mọi người, hay đòi hỏi người khác phải qui phục, phải phục vụ con?

Xin cho con biết: “Phục vụ là hy sinh, phục vụ là quên mình. Phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ơn nghĩa không màng. Phục vụ là hy sinh, phục vụ vì Chúa Kytô” (Bài ca phục vụ).

 

49. Giá trị.

Giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà tùy vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.

Để minh họa cho bài học này, sau đó Đức Giêsu đưa ra hình ảnh một em bé. Hình ảnh của một em bé đối với bất cứ người nào nhìn, cũng thấy dễ thương. Cho nên khi thấy một em bé, ai cũng muốn bồng ẵm, muốn ôm hôn, muốn cho nó ăn bánh, ăn kẹo. Tại sao người ta thương em bé và muốn cho nó đủ thứ như vậy? Có phải tại nó giỏi giang, tại nó giúp cho người ta được việc này việc nọ không? Thưa hoàn toàn không, đứa bé còn quá nhỏ, chưa biết là gì, chưa giúp ích được gì. Nhưng người ta thường nói chỉ vì người ta thương nó, thế thôi. Một tình thương hoàn toàn vô vụ lợi. Người ta cho nó cái này cái nọ, cũng không phải để trả ơn nó hay để mong nó làm gì giúp mình. Cũng chỉ vì thương mà phục vụ thôi. Chúa dùng hình ảnh em bé để minh họa cho bài học phục vụ trên kia: chúng ta cũng phải cư xử với mọi người theo kiểu chúng ta cư xử với một em bé: hết lòng yêu thương phục vụ một cách hoàn toàn vô vụ lợi. Người nào biết phục vụ kẻ khác như thế thì là phục vụ Chúa, và mới xứng đáng làm môn đệ Chúa.

Chúng ta hãy nhớ bài học của Chúa: giá trị con người không tùy vào địa vị của người đó, mà tùy vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.

– Trong một gia đình, ai là người lớn nhất? Có phải là người cha, người chồng không? Bề ngoài là như vậy. Nhưng đối với Chúa thì chưa chắc. Người cha ấy, người chồng ấy nếu chỉ biết có ra lệnh bảo người này người nọ làm mọi việc, nếu chỉ biết ngồi đó mà chê món này dở, cái bàn này lau chưa sạch, nhà cửa này lộn xộn lung tung;

Nếu chỉ biết ăn no rồi đi chơi, chỉ biết có nhậu nhẹt và để mặc vợ con làm tất cả, thì đó chính là kẻ nhỏ nhất trong nhà, nhỏ hơn cả vợ mình, nhỏ hơn cả con mình. Bởi vì người chồng người cha ấy là một người vô ích.

– Trong một khu xóm cũng vậy, trong một cơ quan cũng vậy, trong một họ đạo cũng vậy. Nếu xét theo tiêu chuẩn của Chúa, thì kẻ lớn nhất không hẳn là người có địa vị cao nhất, không hẳn đó là ông trưởng xóm, không hẳn đó là ông giám đốc, không hẳn đó là ông chủ tịch Hội đồng Giáo xứ. Mà rất có thể kẻ được Chúa xét là lớn lại chính là một người mà ít ai để ý tới, người đó không có chức có quyền nào, người đó âm thầm ít nói, nói ít mà làm nhiều; luôn luôn chu toàn nhiệm vụ mình, luôn tìm cách giúp ích cho người khác.

– Thí dụ như linh mục Jean Marie Vianney. Cha là một người vừa kém thông minh và vừa có tư cách cục mịch như một người nhà quê. Sau nhiều năm học ở chủng viện, Vianney thi không đủ điểm nên đáng lẽ bị loại. Nhưng người ta chỉ thương tình mà cho đậu vớt và được phong chức linh mục. Vì thấy cha quá kém cõi. Đức Giám mục đưa cha đi làm cha sở một họ đạo nhỏ xíu ở miền quê mà giáo dân đã bỏ đạo gần hết, đó là họ Ars. Thế nhưng cha Vianney đã tận dụng tất cả các khả năng và sức lực Chúa ban để hết lòng phục vụ họ đạo. Mỗi ngày cha chỉ nghỉ ngơi 3, 4 tiếng đồng hồ. Nhưng ngồi tòa giải tội thì liên miên, có khi tới 16 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Cha không có giờ nấu cơm, nên chỉ nấu một nồi khoai lớn để ăn dần cho suốt một tuần lễ. Dần dần cả họ Ars trở lại, thành một họ đạo sốt sắng sống gương mẫu. Giáo dân từ các họ khác cũng đến đó để dự lễ, để nghe giảng, để xưng tội. Có cả các tu sĩ, các linh mục, Giám mục từ khắp nơi đến để nhờ cha giúp đỡ về mặt linh hồn. Sau này người viết tiểu sử của cha đã nhận định: Nếu cả Giáo Hội nước Pháp mà có được chỉ một vài linh mục như cha Vianney thôi thì cả nước Pháp đã nên thánh. Đó mới là người lớn thật mặc dù chỉ là một linh mục học kém, một cha sở nhà quê, bởi vì sức phục vụ của cha thật là lớn.

Bài học của Chúa Giêsu hôm nay thật là dễ hiểu, nhưng lại khó thực hành.

Ai muốn làm lớn thì phải hạ mình phục vụ mọi người như một kẻ đầy tớ.

Giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà là do khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.

 

home Mục lục Lưu trữ