Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 445

Tổng truy cập: 1378155

NGƯỜI MÔN ĐỆ ĐÍCH THỰC

Người môn đệ đích thực

Ngày hôm nay, các tổ chức, các công ty-xí nghiệp họ thường có những huy hiệu hay những bộ đồng phục để người ta nhận ra thành viên của tổ chức ấy, hoặc để các thành viên trong tổ chức đó nhận ra nhau. Bài Phúc âm chúng ta vừa nghe, CG không dùng những hình thức bên ngoài để người ta nhận ra ai là môn đệ Chúa, nhưng dấu hiệu để chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Chúa đó là phải có lòng yêu thương.

Có lẽ khi nói đến hai chữ “yêu thương” ai trong chúng ta cũng đều hiểu và cảm nhận được ngay. Vì con người không thể sống nếu không biết yêu thương. Ngay khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để trong lương tâm của mỗi người khả năng yêu thương. Nhờ đó con người có thể yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhau. Chính vì hai chữ “yêu thương” nó quan trọng như thế cho nên khi CG sắp bước vào cuộc khổ nạn, CG đã để lại cho các môn đệ lời trăn trói sau cùng, đó là: “các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Nhưng yêu thương như Chúa yêu thương là như thế nào?

Tâm lý tự nhiên, chúng ta thường yêu thương những người trong gia đình, trong huyết tộc, hay yêu thương những người thương ta, làm ơn cho ta. Nhưng CG yêu thương tất cả mọi người, từ những em bé, những kẻ tội lỗi, những người bị xã hội ruồng bỏ, và cả những kẻ làm hại Ngài, giết chết Ngài. Tình yêu đó đã làm cho Ngài không ngại khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài không ngại rửa chân cho Giuđa kẻ sắp phản bội Ngài. Ngay cả lúc trên thập giá, khi còn chút hơi mọn, thay vì Ngài trách mắn những kẻ làm khổ mình nhưng Ngài lại “xin Chúa Cha tha cho họ”. Ngài không nhìn họ là kẻ thù nhưng Ngài thấy nơi họ là những con người cần được thương xót.

Khi yêu thương chúng ta, Chúa không so đo hơn thiệt, không đặt bất cứ điều kiện nào. Ngài cho tất cả, hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để ta được hạnh phúc. Ngài cũng muốn chúng ta là môn đệ của Ngài cũng phải biết yêu thương tất cả mọi người như vậy.

Nhìn vào đứa con người ta có thể nhận ra cha mẹ của chúng, qua nét mặt, lời nói. Cũng thế, Chúa Giêsu sẽ được nhiều người nhận biết khi chúng ta là những môn đệ của Chúa biết phác hoạ lại chân dung của Thầy bằng một đời sống biết yêu thương.

Mẹ Têrêxa Calculta đã dùng chính cuộc đời của mình để yêu thương và giúp đỡ người nghèo. Một lần nọ, mẹ đưa về nhà dòng một ông lão bị bỏ rơi trên đường phố, mình đầy ghẻ chóc. Sau một thời gian được mẹ săn sóc, ông xin được rửa tội. Mẹ mới hỏi: tại sao ông muốn được rửa tội. Ông trả lời: vì tôi thấy tình thương của Chúa dành cho tôi qua sự săn sóc của mẹ. Chính cách sống yêu thương của Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho nhiều người tin vào Chúa mà còn làm cho cả thế giới thấy được tinh thần yêu thương của kitô giáo.

Làm sao chúng ta có thể nói với anh chị em lương dân đạo công giáo là đạo của tình yêu, Thiên Chúa chúng ta thờ, Ngài yêu thương hết mọi người mà chính bản thân, gia đình của chúng ta lại không yêu thương, không giúp đỡ nhau.

Tuy nhiên, nói yêu thương thì rất dễ nhưng để yêu thương như Chúa yêu không phải là chuyện dễ chút nào. Bởi vì đã gọi là yêu thương thì phải chấp nhận hy sinh: hy sinh tiền của, sức khoẻ, thời giờ, nhất là khi phải yêu thương những người chúng ta không thích, những người làm khổ chúng ta. Tự sức chúng ta thật khó để thực hiện lệnh truyền yêu thương của Chúa nhưng chúng ta sẽ làm được nếu dựa vào Chúa, noi gương Chúa. Nhờ kết hợp với Chúa qua đời sống cầu nguyện, chúng ta sẽ tập nhận ra Chúa qua anh chị em. Bởi vì Chúa Giêsu đã đồng hoá Ngài nơi tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh.

Xã hội ngày hôm nay, người ta có thể mua được nhiều thứ bằng tiền, nhưng cái đang rất cần để mang lại hạnh phúc là yêu thương thì lại càng ít được quan tâm. Chính vì sự vắng bóng tình yêu nên cuộc sống của con người càng trở nên khô cằn. Biết bao gia đình tan vỡ, con cái chống lại cha mẹ, vợ chồng ly tán, anh chị em bất hoà cũng chỉ vì thiếu vắng tình yêu.

Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta, biết can đảm thực thi lệnh truyền yêu thương của Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Bằng một đời sống biết quan tâm và giúp đỡ nhau, không chỉ là cơm áo gạo tiền, nhưng một lời nói tốt, một lời cầu nguyện, một sự thông cảm tha thứ đó cho nhau đó cũng là chúng ta đang thực hiện lệnh truyền yêu thương của Chúa, đó là chúng ta đang làm chứng cho Chúa.

 

66. Đức Giêsu luôn luôn hiện diện

(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

Sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho các Kitô hữu là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.

1.- Ngữ cảnh

Đoạn văn này thuộc về Phần II của TM IV (“Sách về Giờ của Đức Giêsu”) và ở trong “Diễn từ cáo biệt thứ nhất” (13,31-14,31): Đức Giêsu nói những lời này sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và loan báo Giuđa phản bội (13,21-30). Người mời gọi các môn đệ đừng hoang mang trước viễn tượng Người ra đi (14,1): Chúa Cha sẽ cử đến một Đấng Bảo Trợ khác để trợ giúp các ông, đó là Thánh Thần (14,16-17). Còn chính Người thì sẽ trở lại với các ông; thế gian không thấy Người, nhưng những ai tin vào Người thì thấy được Đấng ấy (14,18-21). Giuđa đã diễn tả sự kinh ngạc của tất cả các môn đệ: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (14,22). Ông mơ một cuộc tỏ mình cụ thể, khả giác, của Đức Giêsu; ông chưa hiểu là biến cố Đức Giêsu và Thánh Thần ngự đến chỉ có thể nhận biết trong đức tin.

Thoạt nhìn, dường như câu trả lời của Đức Giêsu (c. 23) không liên hệ đến câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuđa. Thực ra, câu trả lời đã đi thẳng vào câu hỏi, bởi vì Đức Giêsu loan báo sự hiển lộ mầu nhiệm của Người và lý do khiến thế gian không thấy được sự hiển lộ này.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (14,23-24);

2) Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (14,25-26);

3) Đức Giêsu ban bình an và ra đi (14,27-29).

3.- Vài điểm chú giải

– lời (23): Đối với một người Sê-mít, “lời” (logos) có tính cụ thể; “lời” diễn tả hữu thể thâm sâu, chính bản thân con người.

– Thánh Thần… Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều (26): Từ ngữ “Thánh Thần” (to pneuma to hagion) ở trung tính; vậy mà chủ ngữ “Đấng đó” (ekeinos) thay cho “Thánh Thần” (to pneuma to hagion, ho…) lại ở nam tính. Khi viết như thế, tác giả muốn cho thấy rằng Thần Khí còn hơn là một xu hướng hay là một ảnh hưởng; Người là một nhân vật, một Đấng. Có thể nói ekeinos ở nam tính vì thay cho paraklêtos, nhưng gần hơn, vẫn là thay cho to pneuma to hagion, ho…

– sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm anh em nhớ lại (26): Bultmann có lý khi cho rằng, “dạy” và “làm nhớ lại” không phải là hai chức năng khác nhau của Thánh Thần, nhưng là hai phương diện của cùng một chức năng. Như thế, “dạy anh em” và “làm anh em nhớ lại” song đối với nhau.

– bình an (27): Khi ra đi, Đức Giêsu nói shalôm (bình an) với các môn đệ. Nhưng đây không phải là lời chào thông thường, mà là ân ban cứu độ. Đây không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh, hay là chấm dứt sự căng thẳng về tâm lý, hay là một cảm giác thư thái. Theo ngôn ngữ Ga, “bình an”, “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui” là những từ mang nghĩa ẩn dụ để diễn tả các phương diện khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu đã mang từ Chúa Cha đến cho con người. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” là một cách khác để nói “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời” (10,28). “Bình an của Thầy” ở đây cũng giống như “niềm vui của Thầy” ở 15,11 và 17,13.

– nếu anh em yêu mến Thầy (ei êgapate, 28): Động từ ở thì vị hoàn (imperfect) để nói về một điều kiện “không có thật”, chưa xảy ra [1].

– Chúa Cha cao trọng hơn Thầy (28): Câu này đã là đề tài cho nhiều cuộc tranh luận về Kitô học và về Ba Ngôi. Phái Ariô đã dựa vào câu này để biện minh cho Kitô học của họ, và do đó, để chống lại thần tính của Đức Giêsu. Đã có hai cách giải thích cổ điển: (1) Một nhóm Giáo Phụ (Origiênê, Téctulianô, Athanasiô, Hilariô, Êpiphanê, Grêgôriô Nadien, Gioan Đamát) cho rằng bản văn diễn tả sự phân biệt giữa Chúa Con và Chúa Cha: Con được nhiệm sinh trong khi Cha thì không. Tuy nhiên, cách giải thích này phát xuất từ suy tư tín lý về Kinh Thánh sau này chứ không dựa trên chú giải câu văn. Cho rằng tác giả Ga đã giới thiệu Đức Giêsu nói với các môn đệ về quan hệ nội tại giữa Ba Ngôi là sai niên đại. (2) Một nhóm Giáo Phụ khác (Xyrilô Alêxandria, Ambrôsiô, Âutinh) đã giải thích rằng trong tư cách là con người, Chúa Con Nhập Thể kém hơn Chúa Cha. Lối giải thích này thoạt tiên có vẻ có lý hơn lối giải thích trước, nhưng vẫn nhằm phân biệt các bản tính nơi Đức Giêsu. Và đây là điều không chắc là Ga đã nghĩ tới. Không lẽ Ga lại nghĩ đến một sự phân biệt giữa Đức Giêsu nói như con người và Đức Giêsu nói như Thiên Chúa? Nhất là một cách phân biệt như thế có phù hợp chăng trong Diễn từ cuối cùng, vì ở đây hơn ở bất cứ nơi nào khác, Đức Giêsu, Đấng đang nói, siêu việt lên trên cả thời gian lẫn không gian?

Khi đã bỏ ra ngoài sự can thiệp của khoa tín lý hình thức của thời sau này, chúng ta thấy rất có thể chìa khóa nằm ở 13,16: “Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi”. “Cha quan trọng hơn tôi” nghĩa là quan trọng hơn những gì anh em đã thấy nơi tôi. Đức Giêsu chỉ quan trọng do chỗ Người là Đấng “mạc khải” Chúa Cha. Sự phân biệt được đưa vào không đối lập bản tính nhân loại với bản tính thần linh trong Đức Kitô (theo cách giải thích truyền thống), mà là đối lập “cách giới thiệu bản thân Người trong hình thức nhân loại” (trong phẩm cách Mêsia) với ý nghĩa tròn đầy của bản thân Người trong tư cách là Thiên Chúa, đó là mạc khải Chúa Cha. Vậy vấn đề là nhận biết Chúa Cha nơi Đức Giêsu. Khi các môn đệ đã đạt được tới đó, sẽ không còn vấn đề thấp hơn hay cao hơn, bởi vì Chúa Cha và Người chỉ là một.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (23-24)

Đức Giêsu khẳng định rằng người nào yêu mến Người, thì phải “giữ lời” Người, nghĩa là gắn bó với lời loan báo của Người và nhận biết bằng đức tin những gì Người đã yêu cầu (x. 14,15.21.23), và đáp lại bằng trọn cuộc đời dấn thân thực tế và quảng đại. Khi ấy, họ sẽ được đón tiếp Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu, bằng chứng cho thấy Người liên kết với Chúa Cha là những việc Người làm (x. 14,10-11). Trong Cựu Ước, dân Israel đi tới chỗ biết Thiên Chúa của họ do họ thấy Ngài che chở kẻ nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất, những ngoại kiều, trẻ mồ côi, và các quả phụ. Nếu Đức Giêsu đang làm những việc tương tự, điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đang ở trong Người và Người đang ở trong Thiên Chúa.

Không những các môn đệ đầu tiên, mà bất cứ ai tin vào Người và yêu thương Người, liên kết với Người theo cách này (“giữ lời”), thì đều sẵn sàng đón Chúa Cha và Chúa Con khi các Đấng đến; các Đấng sẽ cư ngụ nơi người ấy và sẽ ở lại bền bỉ với người ấy. Người đã liên tục nhắc lại: “Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (16,32; x. 8,29). Điều này đúng cho bất cứ ai yêu thương Đức Giêsu: người ấy không phải cô độc, không bị lạc lõng và bỏ rơi; dù không hữu hình, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên người ấy.

* Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (25-26)

Đức Giêsu nhắc lại một lần nữa là Thánh Thần sẽ đến (x. 14,16-17); Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần theo lời Đức Giêsu thỉnh cầu. Đức Giêsu để lại cho các môn đệ lời của Người, sứ điệp của Người. Đây sẽ mãi là những yếu tố đưa các môn đệ đến với Người. Nhưng các môn đệ sẽ không phải dựa vào sức riêng mà hiểu lời Người: họ sẽ được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Sự hỗ trợ hữu hiệu của Thánh Thần sẽ được biểu lộ rõ ràng trong việc dạy cho họ hiểu lời của Đức Giêsu. Thánh Thần sẽ không đưa đến một giáo huấn mới: thật ra toàn thể mạc khải đã được ban nơi Đức Giêsu. Tất cả hoạt động của Thánh Thần sẽ là quy về những gì Đức Giêsu đã nói và giải thích cho các môn đệ. Được Thánh Thần dạy dỗ, các ông sẽ có thể đi theo sát hơn nữa lời của Đức Giêsu và được chuẩn bị đi vào hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con.

* Đức Giêsu ban bình an và ra đi (27-29)

Đức Giêsu không để các môn đệ phải mồ côi (x. 14,18), nghĩa là bỏ rơi các ông, mặc cho các ông sợ hãi, không được hỗ trợ nâng đỡ. Người từ giã và ban sự bình an của Người cho các ông. Người từ giã các môn đệ nhưng ban một sự bình an, một sự đảm bảo và một sự che chở chỉ có thể phát xuất từ Người. Sự bình an này không phải chỉ là một lời nói (một lời chào), cũng không phải là sự bình an mà thế gian ban tặng: một sự bình an giả trá, một sự bình an được đặt trên sự chuyên chế, bạo động và bất công. Sự bình an Đức Giêsu ban chính là ơn cứu độ, là “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui”, dựa trên việc loan báo do Người thực hiện, dựa trên sự hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Con và dựa trên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông ấy đưa lại sự an toàn và che chở. Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đe dọa chúng ta và đứng lên chống lại chúng ta?

Khi đi chịu chết, thật ra Đức Giêsu trở về nhà Cha (x. 13,1); như thế Người đã đạt được mục tiêu của hành trình trần thế của Người. Đối với Người, không có niềm vui nào to lớn hơn là sự hiệp thông trọn vẹn với Cha. Điều này hẳn cũng phải có giá trị cho các môn đệ Người. Sự thông hiệp với Cha và với Con, một sự hiệp thông được ban cho họ ngay từ bây giờ, là nền tảng cho sự bình an của họ. Sự hiệp thông trọn vẹn của Con với Cha, vì là mục tiêu Đức Giêsu đã đạt, là nền tảng chắc chắn nhất cho niềm vui của họ.

+ Kết luận

Mọi sự tùy thuộc vào việc nhìn các sự việc một cách đúng đắn. Nhìn từ bên ngoài, cái chết của Đức Giêsu dường như là tai họa và sự đổ vỡ tan tành thành mây khói. Nhưng ai tuân giữ lời của Người, thì đã không mất sự an toàn do cái chết của Người, mà lại còn được củng cố trong niềm tin vào Người và trong niềm vui vì chiến thắng của Người. Đức Giêsu làm cho chúng ta tất cả những điều này xuyên qua hoạt động của Thánh Thần: chính Thánh Thần sẽ dẫn dắt chúng ta, dạy bảo và nhắc chúng ta nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cất đi mọi mối bận tâm, sợ hãi và lo lắng bất an, nhất là khi ta sống sự hiệp thông ấy trong đức tin. Bởi vì chỉ Đức Giêsu mới giúp chúng ta đi vào hiệp thông với Chúa Cha, thì cũng chỉ Người mới có thể ban cho chúng ta sự bình an này. Người tín hữu phải luôn luôn biết rằng, ngay cả khi họ bị cái chết dằn vặt, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên họ, chứ không bao giờ bỏ rơi họ trong tình cảnh khốn quẫn. Sự hiệp thông với Đức Giêsu và với Chúa Cha không chỉ bắt đầu khi chúng ta được tiếp đón vào nhà Cha (14,2-3), nhưng là một thực tại đã có bây giờ và sẽ hoàn tất với cuộc hưởng kiến vinh quang.
  2. Ngược với việc tuân giữ những luật lệ chi li cách tỉ mỉ và máy móc, không quan hệ gì với con tim của người tín hữu, Đức Giêsu đặt các tương quan của Người với các môn đệ trên nền tảng là các dây liên kết riêng tư trong tình yêu. Muốn thấy Đức Giêsu, muốn sống nhờ Người và với Người, người tín hữu phải “giữ các lời Người” (c. 24). Sự sống này, như Đức Giêsu xác định, lại chính là sự sống của Người và cũng là sự sống mà Người nhận từ Chúa Cha, nhưng cũng có chung với Chúa Cha.
  3. Các Kitô hữu hôm nay cũng phải vui mừng cho chính mình: sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho họ là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.
  4. Cái chết của Đức Giêsu rất có thể có vẻ là chiến thắng của ông hoàng của thế gian này và của các quyền lực bóng tối, là sự khải hoàn của các đối thủ của Người. Nhưng Đức Giêsu không hề bị áp đảo bởi một quyền lực bên ngoài, chống lại ý muốn của Người. Người đã tự ý nhận lấy cái chết của Người, bởi vì Cha đã định đoạt như thế cho Người. Cái chết của Người là một dấu chỉ về tình yêu của Người đối với Cha.

——————————————–

[1] M. Zerwick, Biblical Greek *313.

 

67. Chú giải của Noel Quesson

Từ đây cho đến hết Mùa Phục sinh, chúng ta sẽ đọc một số trích đoạn “cuộc nói chuyện cuối cùng của Đức Giêsu” vào chiều Thứ Năm Thánh, hôm trước ngày Người “ra đi”: đó là di chúc tinh thần của Ngài.

Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói

Ta có cảm tưởng rằng, Đức Giêsu được tự do, Người có thể bắt đầu bày tỏ một số tâm sự… như thể sự hiện diện của kẻ phản nộp đã bít cứng cổ họng Người, khiến không có dịp thốt nên lời.

Khi chúng ta nghĩ đến những nỗi cô đơn thương đau, những khó khăn trong mối quan hệ, những tình trạng chặn nghẽn tâm lý, đôi khi ngăn cản chúng ta không thể nói hết những gì’ cần phải diễn tả… lúc đó ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì trong thân phận con người, Người đã thấu cảm những tình huống đau thương như thế.

Khi chúng ta chịu đựng những xung đột giữa người đời, trong các nhóm, những chống đối và hiểu lầm… chúng ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì Người cũng đã chịu đựng những điều như thế. Chiều hôm đó, bầu khí trong nhóm đang tụ tập chung quanh bàn ăn với Người, trở nên bi thiết: một người trong họ vừa bước ra ngoài… để phản bội nhóm. Đó là thái độ quá quắt của kẻ “không có, tình yêu”: tố cáo bạn hữu, ruồng bỏ một người mà mình đã trải qua nhiều năm tháng kết tình kết nghĩa.

Đức Giêsu không phải là không có khả năng thông cảm mọi khó khăn của ta. Người đã sống những khốn khó đó.

Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.

Đức Giêsu luôn hoàn toàn thanh thản. Trong tình trạng nguy kịch phải đường đau, Người vẫn giữ được một sự bình an siêu phàm. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự bình an đó.

Sự bình an của Đức Giêsu được diễn tả trong một câu nằm giữa hai phó từ: giờ đây… sắp sửa. Những động từ ở đầu câu thuộc thời hiện tại (nhằm diễn tả một tình trạng bất định theo tiếng Hy Lạp, nghĩa là thời gian của “các vật chưa hoàn tất”), và những động từ ở cuối câu thuộc thời tương lai. Toàn thể một thái độ tinh than tiềm ẩn đằng sau cấu trúc ngôn ngữ trên. Trong giây phút hiện tại, giây phút đầu tiên của cuộc Thụ Khổ mà Giua đã mở ra… Đức Giêsu đã nghĩ đến kết quả của tiến trình sắp được thể hiện qua biến cố Phục sinh. Như thế, niềm hy vọng đã giúp ta cảm thấy trước những gì vẫn còn ở trong tương lai! “Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Cũng như Đức Giêsu, ngay từ bây giờ, giữa đau khổ hiện tại, tôi có thể đã nếm cảm được thứ hạnh phúc vô biên đó, sẽ được thể hiện cách trọn vẹn, mãi mãi nhưng muộn hơn, sau này.

Giờ đây, Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người.

Chúng ta trở lại mạc khải đáng ngạc nhiên trên đây, khiến ta có dịp bước sâu vào “nội tâm của Đức Giêsu. Tiến trình cuộc Thương khó vừa mới được mở ra, do thái độ bước ra ngoài của “kẻ trao nộp Đức Giêsu”. Do đó, ngay tức khắc, đối với Đức Giêsu, vinh quang của Người đã hiện ra rồi! Đó là sự thực. Thật là khó khăn chúng ta mới tin được rằng, thập giá đã là vinh quang của Đức Giêsu. Chúng ta có khuynh hướng dễ khóc thương trong Ngày Thứ Năm, Thứ Sáu Thánh dù rằng ngay sau đó phải vội bỏ qua để sống niềm vui rộn rã của Chúa nhật Phục sinh. Thế nhưng, chính “Đấng chịu đóng đinh” đã được tôn vinh và làm vinh quang Thiên Chúa? Đến khi nào ta mới hết coi thập giá như một vật ghê tởm, cần phải tìm hết cách thủ tiêu? Thực sự, nhìn theo quan điểm của Đức Giêsu, thập giá của Người, chính là vinh quang của Người? “Không có tình yêu nào lớn hơn” (Ga 15,13). Tuy nhiên, kẻ yêu thương, theo kinh nghiệm, luôn biết rằng, tình yêu thương dẫn đến hy sinh bản thân cho người mình yêu mến. Còn kẻ chỉ biết yêu bản thân mình, sẽ không thể hiểu được.

Bạn có muốn biết mình thương yêu người nào không?

Bạn hãy tự hỏi xem bạn có thể hiến thân mình cho họ vì yêu thương không. Nhưng coi chừng, một giọng nói lừa đảo của thế giới hiện đại sẽ trấn an bên tai bạn rằng, hiến thân như thế là lầm to, bạn sẽ thành nạn nhân, sẽ mất nhân vị, bạn phải nghĩ đến mình một chút; để cho đời thêm tươi.

Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi

Đó là những lời đầy âu yếm, những lời nói của người mẹ. Trong tất cả các Tin Mừng, đây là lần duy nhất Đức Giêsu dùng kiểu xưng hô: “Hỡi các con bé nhỏ của Thầy…”

Đức Giêsu phải ra đi. Người biết rõ điều đó. Người đã phát biểu thành lời. Nhưng thật đáng tiếc, Sách Bài đọc đã cắt bỏ một câu như sau: ‘Anh em sẽ tìm kiếm Thầy, nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: Nơi tôi đi, các ngươi không thể đến được’, bây giờ Thầy cũng nói với anh em như vậy”. Thế giới ngày nay đang đặt nặng vấn đề sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên Chúa. Đức Giêsu biết rằng, buổi chiều mà Người đang sống với các bạn hữu của mình là buổi chiều cuối cùng. Người sắp để họ ở lại một mình, không có sự hiện diện của Người cách hữu hình, nhân loại, cụ thể… nhưng rất hữu ích? Sẽ có thời gian vắng mặt. Nhưng rõ ràng, Đức Giêsu muốn nói lên điều gì về vấn đề này. Chúng ta hãy lắng nghe tiếp.

Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau

Đức Giêsu phải ra đi. Nhưng Ngài loan báo cách hiện diện mới mẻ của Ngài. “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Và thánh Gioan quảng diễn như sau: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta” (1 Ga 4,12).

Vâng, tình yêu đích thực là một “sự hiện diện thực sự” của Thiên Chúa. “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”. Đức Giêsu hiện diện giữa những người cùng nhau cầu nguyện (Mt 18-20). Những gì các người đã làm (cho ăn, cho mặc, viếng thăm, săn sóc) cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là “các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Đức Giêsu luôn hiện diện trong mọi người đang cần đến tôi và tôi đang phục vụ (Mt 25,31-46).

Nếu thực là thế! Nếu thực là “Thiên Chúa đã chết”, thì sự vắng mặt của Thiên Chúa trong thế giới hiện tại chỉ là hiện tượng tình yêu đã chết”. Nhưng hãy để ý, vì tiếng nói lừa dối của thế giới hiện đại không ngừng thay đổi giọng điệu với ta, qua những làn phát sóng, trong mọi thứ quảng cáo. Người ta chỉ bàn luận, chỉ ca ngợi “tình yêu”. Nhưng là thứ tình yêu nào chứ? Éros hay Agapè, “tình yêu bản thân” hay “tình yêu kẻ khác”? tình yêu là từ hàm hồ nhất, giả dối nhất. Khi bạn nói: “Tôi thích kẹo cao su!”… bạn có thích nó thực sự hay bạn tiêu huỷ nó nhằm lợi ích cho bạn? Khi bạn yêu một người nào đó, bạn có yêu họ theo cách đó… nghĩa là chỉ vì bạn hay vì họ? Ngôn ngữ Hy Lạp ít hàm hồ hơn, vì có hai từ khác biệt nhau để diễn tả hai thực tại yêu thương đối nghịch nhau:

-Éros: Yêu mình… đó là tình yêu lợi dụng kẻ khác đến huỷ hoại họ.

-Agapé: Yêu tha nhân… đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác.

Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.

Chỉ một từ “như” đơn giản… nhưng đã vạch trần mọi hình thức tình yêu giả tạo của chúng ta dễ dàng lặp đi lặp lại.

Yêu như Đức Giêsu! Đó là quỳ gối xuống rửa chân cho anh em mình, một cử chỉ phục vụ thấp hèn nhất (Ga 13,14). Đó là việc Đức Giêsu vừa làm. Yêu như Đức Giêsu! Đó là “hiến mạng sống cho kẻ mình yêu thương” (Ga 10,11-15,13). Đó là điều Người sáp thực hiện, vào ngày mai, trên thập giá.

Đức Giêsu nói với thánh nữ Angèle de Foligno: “Việc cha yêu con, đâu phải trò đùa”. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã dẫn Người đến thái độ hoàn toàn từ bỏ bản thân mình.

Để yêu tha nhân đúng như con người, và nhận biết họ trong chính sự “khác biệt” của họ, chúng ta cần từ bỏ quan niệm coi mình là trung tâm mọi giá trị. Đối với Thiên Chúa, tình yêu tha nhân đã dẫn Đức Giêsu chấp nhận thập giá Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi yêu thương họ, trong cả khả năng thụ tạo nhầm lẫn của họ. Khả năng đó, “kẻ khác” đã chiếm hữu trong tự do của họ, để phủ nhận tôi, trở nên một địch thù với tôi, và kết án tử hình tôi!

Đối với Đức Gỉêsu, tình yêu không phải là cái gì cứ lặp đi lặp lại cách dễ dàng và nhàm chán đến độ vô nghĩa. Mọi người xem ra đều nói đến yêu thương. Thế mà, Đức Giêsu quả quyết, giới răn của Người thì mới mẻ. Phải, yêu như Đức Giêsu hẳn là phải rất độc đáo, rất mới lạ. Đó là một thứ luân lý mới. Người ta không khi nào biết được nơi mà tình yêu đó dẫn bạn tới.

Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau

Chỉ có ba dòng Tin Mừng, mà Đức Giêsu đã ba lần lặp lại điệp khúc: Yêu thương nhau. Sự lặp lại rất có ý nghĩa. Nhờ đó, Người đã gợi lên ba lý do bổ sung cho nhau, khiến chúng ta phải yêu thương.

  1. Đó là lệnh truyền của Đức Giêsu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới”.
  2. Đó là gương mẫu của Đức Giêsu: “Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
  3. Sau cùng, đó là dấu chỉ Đức Giêsu: “Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu…”.

Như thế, Đức Giêsu thực sự mời gọi các môn đệ tiếp tục sứ vụ của Người, lúc Người rời bỏ thế gian. Tình yêu huynh hệ là “thể thức” thực sự, giúp Đức Kitô tiếp tục hiện diện suốt dòng “Thời gian cuối cùng”, mở đầu bằng cài chết của Người. Gioan đã không thuật lại việc lập phép Thánh Thể, như ta mong đợi. Nhưng bù lại, ông đã tường thuật việc rửa chân ” và trao ban “giới răn mới quan trọng” như thể dưới mắt ông, Tình yêu là một tái diễn sự Hiện Diện đích thực của- Đức Kitô, cũng thực sự và hữu hiệu, như dấu chỉ hữu hình., của Bí tích Thánh Thể. Nhằm bổ sung những gì mà các thánh sử khác không nói đến, có thể nói thánh Gioan đã giảm thiểu tính thiêng thánh của nghi thức, để đề cao nội dung hơn”. Theo thánh Mát-thêu, Máccô và Luca, Đức Giêsu nói: “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp, và Máu Thầy sẽ đổ ra”. Còn theo Gioan, Đức Giêsu đã nói: “Thầy rửa chân cho anh em, Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Nhưng, đó cũng chính là “sự hiện diện” có tình nghi thức và thực sự. Có một điều gì đó chất vấn mạnh mẽ các Kitô hữu khi tham dự thánh lễ. Dấu chỉ mà người ta nhận ra môn đệ Đức Giêsu không chỉ là Thánh lễ. “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”.

Nhờ những điều kiện nào, để người ngoài Kitô giáo có thể đọc được dấu chỉ này? Làm sao dấu chỉ này chỉ dành riêng cho những giây phút các Kitô hữu quy tụ giữa bốn bức tường của Giáo hội? Chắc chắn Đức Giêsu đã nói đến một dấu chỉ được trao gởi trong đời thường: đó là dấu chỉ duy nhất mà “mọi người” có thể nhìn thấy. Trong những điều kiện đó, chúng tá của Kitô hữu chỉ có thể được nhận biết nếu chúng ta quan tâm đến những trách nhiệm lớn lao của thế giới hiện nay: công lý, hoà bình, đói khổ, phẩm giá con người. Bí tích Thánh Thể sẽ “dẫn” chúng ta tới phố xá, các văn phòng làm việc, những nẻo đường đời, tới trường lớp và đại học ta đang theo đuổi tới mọi nơi ta đang phục vụ”.

 

68. Suy niệm của nhóm Nha Trang

“Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy thương yêu nhau”.

BÀI TIN MỪNG

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay là một đoạn được trích trong bài Từ Biệt của Chúa Giêsu, nói về việc Chúa Giêsu ban cho các môn đệ giới luật mới, luật yêu thương nhau.

  1. SUY NIỆM:
  2. “Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc”:

Có lẽ Giuđa ra khỏi phòng tiệc sau lúc rửa chân và trước lúc thiết lập Bí tích Thánh Thể. Chính lúc này Chúa Giêsu mới có thể nói một cách cởi mở về số phận của Người và đồng thời trăn trối những điều quan trọng cho các môn đệ.

  1. “Bây giờ Con Người được vinh hiển”:
  • “Bây giờ” diễn tả ý nghĩa vào chính lúc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Chính hành vi Giuđa bước ra khỏi phòng tiệc là cử chỉ nói lên việc Giuđa quyết định phản nộp Thầy mình, chính lúc đó Chúa Giêsu coi như là khởi sự cuộc khổ nạn của Người.
  • “Con người được vinh hiển”: Chúa Giêsu coi việc Người chịu chết trên Thánh Giá như một chiến thắng: chiến thắng Satan. Và vì vậy Người cho biết Người sẽ bước lên Thập giá trong tư thế một kẻ chinh phục (Ga 3,14; 8,28; 12,32-34). Và như vậy, cho đến khi ấy, đời Chúa Giêsu chỉ là một sự chuẩn bị, “Bây giờ” mới là lúc bắt đầu thảm kịch cứu rỗi.
  • “Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người”:

Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng cách “Vâng lời cho đến chết và chết trên cây Thập giá” (Ga 4,34; 17,4).

  1. “Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người”:

Nếu Chúa Giêsu làm vinh hiển Thiên Chúa Cha bằng cái chết của Người trên Thập giá, thì đáp lại, Chúa Cha sẽ ban cho Người vinh hiển sau khi Người chịu nạn chịu chết, bằng cách cho bản tính loài người chịu đau khổ của Người được thông phần vinh quang rực rỡ bản tính của Thiên Chúa.

  1. “Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con …”:

Vì sắp phải lìa xa các môn đệ, nên Chúa Giêsu đã tỏ ra cho các ông biết cuộc biệt ly tạm thời này bằng những lời lẽ rất thân thiết.

Kiểu nói “các con yêu quý” diễn tả một tâm tình thắm thiết đầy tình thương yêu của Chúa Giêsu đối với các môn đệ của Người.

  1. “Thầy ban cho các con điều răn mới …”:

Đây là ý muốn của Chúa Giêsu tỏ bày cho các môn đệ trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu nói những lời này trong tư thế của một sư phụ nói lời trăn trối trước khi ra đi (Mt 24, 45-51) và trong tư thế một Người Cha hằng lo lắng bảo đảm hạnh phúc cho con cái mà ông sắp từ giã. Nếu các môn đệ thực hiện thì luật yêu thương này sẽ đền bù cho các ông sự mất mát không còn được thấy Thầy cách khả giác nữa và làm cho các ông xứng đáng gặp lại Người.

“Điều răn mới”: Chúa Giêsu muốn so sánh với luật tự nhiên mà Môisen đã thừa nhận khi dạy phải yêu thương tha nhân như chính mình (Lv 19,18). Nhưng tình yêu tha nhân theo luật này có tính cách tiêu cực vì chỉ nhằm tránh những gì có thể gây ra thù oán hoặc nếu có hành động tích cực thì lại mang tính cách vụ lợi: làm cho tha nhân những điều mình muốn thôi. Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần sửa lại luật này cho hoàn hảo hơn: “Xưa … nhưng nay Ta bảo …” (Mt 7,12; 19,9; 22,39-40).

  1. “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau”:

Với luật mới này, Chúa Giêsu còn thêm nhiều điều trong những đòi hỏi của tình bác ái huynh đệ: yêu tha nhân như chính mình chưa đủ, người môn đệ cần phải yêu thương tha nhân như chính Đức Kitô đã thương yêu họ, mà tình yêu Chúa Giêsu đối với chúng ta là ân cần, tận tâm, vô vị lợi (Ga 13,13-16; 15,16-19; Rm 15,13). Người đã hiến thân mình cho nhân loại đến cùng, nghĩa là cho đến chết (Ga 13,1; 15,12-14). Thánh Gioan đã ghi rõ ràng: “Chính điều này mà Ta nhận ra được lòng yêu mến: Là Đấng ấy (Đức Kitô) đã thí mạng mình vì chúng ta, nên ta cũng phải thí mạng mình vì anh em (1 Ga 3,16).

  1. “Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy”:

Bác ái của người môn đệ Chúa Giêsu theo luật mới này phải có tính cách cụ thể, rõ ràng đến nỗi tự nó cho thấy họ là môn đệ của Chúa Giêsu ngay cả đối với những người chưa biết gì về Ki-tô Giáo (Ga 14,31; 17,21; 1Ga 2,7-11; 20,21).

Luật yêu tha nhân theo kiểu Chúa Giêsu đã yêu nhân loại là luật riêng của Chúa, nên cứ dấu đó mà người ta nhận ra môn đệ chân chính của Người. Và như vậy, tình yêu tha nhân được truyền dạy chỉ có thể được thực hiện giữa những người tin vào Chúa Giêsu Ki-tô. Đó là tính cách mới mẻ của luật mới này.

III. ÁP DỤNG:

  1. Ap dụng theo Tin Mừng:

Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng hôm nay để nhắc nhở chúng ta về luật yêu thương nhau và đồng thời và đồng thời cũng gây cho chúng ta ý thức về bổn phận phải yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta, để nhờ đó chúng ta xứng đáng với danh nghĩa người Ki-tô hữu, môn đệ của Chúa Kitô.

  1. Áp dụng thực hành:

Nghe lời Chúa phán:

1/ Bây giờ con Người được vinh hiển: Chúa Giêsu được vinh hiển nhờ chiến thắng Satan bằng Thập Giá qua những hy sinh, hãm mình và chết đi cho tội lỗi trong đời sống hằng ngày.

2/ Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người: Chúa Giêsu làm vinh danh Thiên Chúa Cha bằng sự vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá. Chúa muốn mời gọi chúng ta noi theo người làm vinh danh Thiên Chúa bằng cách vâng theo ý Chúa trong mọi việc mình làm, tức là làm mọi việc và chịu đựng mọi sự vì lòng mến Chúa.

3/ Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình.

càng làm vinh danh Chúa, càng được công phúc trước mặt Chúa và càng được hy vọng vinh hiển với Chúa trong Nước-Trời.

4/ “thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau”. Mỗi lần chúng ta đọc lời này là mỗi lần Chúa nhắc chúng ta nhớ lại luật yêu thương nhau, nhưng sự yêu thương của chúng ta vẫn còn tính cách ích kỷ vì chỉ yêu theo sở thích và được mối lợi cho riêng mình. vì thế Chúa bảo ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, một tình yêu hướng tha và vô vị lợi.

Cần chiêm ngắm và suy niệm cuộc đời Chúa Cứu Thế để khám phá ra cách thể Chúa yêu thương chúng ta và nhờ đó chúng ta biết yêu thương nhau cũng theo cách thể như vậy.

5/ Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau. Muốn nhập đoàn quân nào phải đeo phù hiệu binh chủng đó. gia nhập đoàn quân của Chúa Kitô thì phải đeo phù hiệu của Chúa. phù hiệu của Chúa Kitô là yêu thương nhau.

Đồng phục của người Ki-tô hữu là bác ái.

 

69. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

“ĐIỀU RĂN MỚI” (Ga 13,31-33a.34-35)

  1. Khi Giuda ra khỏi nhà tiệc ly, có lẽ sau lúc rửa chân và trước khi thiết lập phép Thánh thể, Chúa Giêsu nói: “Bây giờ con người đã được tôn vinh và Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ngài”. Thốt lên những lời tuyên bố buồn bã về một người trong nhóm 12 sẽ phản bội, câu nói ấy, đối với các tông đồ, vang lên như một bài ca khải hoàn. “Bây giờ” là lúc cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và satan, mà Giuda là dụng cụ (x.13,37), vừa thực sự bùng nổ qua việc tên phản bội quyết tâm ra đi thi hành dự tính của mình; “bây giờ” là lúc Chúa Giêsu đối diện với “giờ” của Ngài, Giờ mà vì đó Ngài đã đến trong thế gian và không ai có quyền cho xảy ra sớm hơn hay trễ hơn (7,30; 8,20; 12, 23-27; 13,1; Dt 10,3-7; Lc 13,3-33). Cho đến khi ấy, đời Chúa Giêsu chỉ là một chuẩn bị, “bây giờ” mới bắt đầu thảm kịch cứu rỗi.

Nghĩ đến ơn cứu rỗi loài người và vinh quang Cha Ngài (3,15.17; 8,49-50; 10,10; 12,47), tâm hồn Chúa Giêsu cảm thấy hài lòng đến nỗi – coi cuộc khổ nạn như một thoáng qua và Thập giá như chiếc ngai vàng. Ngài đã nhiều lần chơi chữ khi dùng từ ngữ: giương cao” (exalter, hupsoun) vừa có ý nghĩa “nâng lên” (élever) và “tôn vinh” (glorifier), để cho thấy Ngài sẽ bước lên thập giá chúng ta tư thế một kẻ chinh phục (3,14; 8,28; 12,32-34; 12,23.24). Ngài thâm tín sẽ tìm thấy sự sống trong cái chết và vinh quang trong ô nhục đến nỗi nói về sự vinh hiển của Ngài như là một điều gì đã hoàn tất: “Con người sẽ được tôn vinh ”. Thì quá khứ này, để diễn tả một việc sẽ xảy ra, có thể giải thích dễ dàng nhờ lòng tin tưởng tuyệt đối của Đức Kitô vào hiệu quả chương trình của Chúa Cha hơn là nhờ các hậu kết bất khả kháng gây ra do việc Giuda phản bội.

Có lẽ đừng nghĩ đến các chứng tá Chúa Cha đã ban cho Con Ngài thì đặt trong viễn cảnh đó thì câu nói đến việc Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng cách chu toàn bổn phận khi còn sống (4,34; 17,4), bằng việc mạc khải Chúa Cha (17,6) và vinh quang của Người (2,11; 11,4.40; 17,4), qua lời nói (1,18; 3,32-34; 5,24.38.47; 6,45.63; 7,16; 8,38.40-47.55…) và hành động (3,21; 5,19-20.30.36; 8,28; 9,3.4; 10,25.32.37.38; 14,10-11; 15,24). Nhưng chữ “bây giờ” bắt đầu câu 31 cho thấy một cái gì mới mẻ vừa khởi phát với việc Giuda bội phản: cuộc khổ nạn – phục sinh của Chúa Giêsu được xem như sự tôn vinh tuyệt hảo nhất, và sự tôn vinh tột bực này một cách nào đó đã được chiêm ngắm trong ý nghĩa thần học của nó. Như thể đã được thực hiện trong mầm mống qua việc phản bội của Giuda. Để xác quyết điều này, chỉ cần nhớ lại chứng tá Chúa Cha vài ngày trước đó: “Ta đã tôn vinh danh Ta và Ta sẽ còn tôn vinh danh Ta nữa” (12,28). Trong trường hợp này, chính Chúa Giêsu đã tuyên bố đã đến giờ Con Người sắp được tôn vinh; hiển nhiên đây là lời tiên báo trực tiếp vào cuộc khổ nạn Ngài sắp chịu và vinh quang Ngài sắp lãnh nhận (12,23-25).

Chính Chúa Giêsu ở đây đã có ý tự xưng là “Con Người”. Mặc dù vẫn có nghĩa thiên sai như trong các phúc âm tước hiệu này dưới ngòi bút của Gioan, mang một ý nghĩa chính xác hơn. Trong mười đoản văn mà chúng ta gặp nó luôn luôn trên miệng Đức Kitô, tước hiệu “Con Người” đã ám chỉ đến vinh quang đang chờ đợi Ngôi lời nhập thể, để đáp lại việc Ngài hạ cố làm thân phận con người, dù là con người tuyệt hảo hơn hết. Và trong 4 lần, tước hiệu này trực tiếp ám chỉ đến sự vinh hiển nhờ thập giá (1,51; 3,13.14; 5,27; 6,27; 6,54.63; 8,28; 12,23; 13,31).

Nếu Đức Kitô đã được tôn vinh, chính là vì “Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ngài”. Mọi việc con người phụng sự Thiên Chúa sẽ trở lại với con người dưới dạng thức vinh quang. Đó là luật, luật này trước tiên liên hệ đến Đức Kitô, và vì thế “Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Ngài (Đức Kitô) trong chính mình Người (Thiên Chúa)”. Nghĩa là gì? Nghĩa là Ngài sẽ ban vinh quang thuộc về Ngài, khi đón nhận Ngài “trong chính Người”. Con Người sẽ được thông phần vào các đặc quyền của sự sống thần linh, các đặc quyền mà Ngài sẽ nhắc tới trong lời nguyện: “Con đã tôn vinh Cha dưới đất, đã chu toàn công việc Cha giao phó cho Con làm. Và bây giờ xin Cha tôn vinh Con nơi Cha trước khi có thế gian” (17,4-5). Ở đây có sự đối chiếu giữa tình trạng của Đức Kitô lúc còn ở “dưới đất” và tình trạng “trên trời” mà Ngài xin cho được. Từ đó ta hiểu tại sao nói “Con Người” và “Thiên Chúa” thay vì nói Con và Cha. Đúng ra Chúa Con đã bao giờ mất vinh quang đã có ở Chúa Cha ngay trước khi tạo dựng vũ trụ; nhưng nhờ sự vinh hiển mà Đức Kitô đạt được cho nhân tính mình, Thiên Chúa đã nâng con người lên chính Ngai của Thiên Chúa. Chính đấy là nơi mà từ nay các tín hữu đầy lòng tin và đạo đức sẽ tìm đến gặp Ngài. Chính từ đó mà Ngài đã mạc khải cho vị tử đạo tiên khởi của Ngài. Vị này nói khi chết: “Tôi thấy các tầng trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7,56).

Khi loan báo “Thiên Chúa sắp tôn vinh Ngài”, Chúa Giêsu ám chỉ đến chứng tá hùng hồn Chúa Cha ban cho Ngài khi cho Ngài phục sinh từ cõi chết. Ngoài ra, việc phục sinh này đối với Ngài chỉ là bước đầu tiên trong cuộc sống hiển vinh mà cuộc khổ nạn sắp đưa Ngài vào.

  1. Trước khi từ giã các môn đệ, Đức Kitô đã cho họ biết ý muốn tối thượng của Ngài: “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới là hãy yêu mến nhau. Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau” (c.34). Ngài nói trong tư thế một sư phụ trăn trối những lời cuối cùng trước khi ra đi (x.Mt 24,45.51), và trong tư thế một người cha hằng lo bảo đảm hạnh phúc cho con cái mà ông sắp giã từ. Nếu được chấp hành tốt, điều răn này sẽ đền bù cho các môn đệ, trong mức độ có thể, sự mất mát không còn thấy Thầy cách khả giác, và sẽ làm họ xứng đáng gặp lại Ngài. Giới luật bác ái huynh đệ mà ở đây Chúa Giêsu gọi là giới luật “mới” ít lúc nữa sẽ được Ngài gọi là “giới luật của Ngài” (15,12).

Chính nhờ giới luật mới, nên Đức Kitô mới có thể tuyên bố là của Ngài. Luật tự nhiên dạy đừng làm cho ai điều ta không muốn họ làm cho mình. Luật Môisen đã thừa nhận khoản luật tự nhiên đó, khi dạy phải yêu tha nhân như chính mình (Lv 19,18). Nhưng đối với ai người Do thái, tha nhân là anh em, đồng bào, bạn hữu mà họ cần phải sống an hoà với, không thì sẽ bất an khi cùng đi đường. Luật trực tiếp liên hệ đến người Do thái, nhưng không gạt bỏ ngoại kiều (Mt 5,43. Trong các điều kiện trên, tình yêu tha nhân có tính cách tiêu cực nhiều: tránh tất cả những gì có thể gây thù oán, báo phục. Nếu tình yêu được thể hiện cách tích cực bằng hành động, thì cũng không kém vụ lợi; tựu trung, qui tắc là yêu chính bản thân mình. Chính giáo sĩ Hiller, nhà luân lý Do thái nhân bản nhất đã hiểu như thế: “Điều chi ngươi ghét, ngươi chớ làm cho tha nhân. Chính đó là tất cả lề luật, các điều khác chỉ là lời chú giải” (Chabbath, f.31).

Để xác quyết, Chúa Giêsu đã hơn một lần nhắc lại luật căn bản của mọi tương giao xã hội (Mt 7,12; 19,19; 22,39-40), nhưng Ngài đã vượt qua luật đó, hay ít ra, đã đưa nó về lại nội dung ban đầu, khi tố giác lối chú giải hẹp hòi và cứng nhắc mà các thày ký lục đã đề ra (Mt 5,43). Không phải chỉ yêu thương bạn hữu, mà còn phải muốn điều lành cho mọi người, kể cả kẻ thù mình; bằng không, không phải là Kitô hữu (Mt 5,46-48).

Với “giới luật mới”, Chúa Giêsu còn thêm nhiều điều trong những đòi buộc của tình bác ái huynh đệ; yêu tha nhân như chính mình chưa đủ người kitô hữu phải yêu tha nhân như Đức Kitô đã yêu họ (c.34). Mà tình yêu Đức Kitô đối với chúng ta là ân cần, vô vụ lợi, tận tâm (Ga 13,13-16; 15,16.19; Rm 15,13). Ngài đã hiến mình cho loài người đến cùng, nghĩa là cho đến chết (Ga 13,1; 15,12-14). Thánh Gioan đã ghi rõ ràng: “Chính do điều này mà ta nhận ra được lòng yêu mến: là Đấng ấy (Đức Kitô) đã thí mạng vì chúng ta; nên ta cũng thí mạng vì anh em mình” (1Ga 3,16).

Giao ước mới đã được đóng ấn với máu của tác giả giao ước (1Co 11,25). Điều trong trình thuật rửa chân trước đó được giới thiệu như một việc “phục vụ”, ở đây được gọi là “tình yêu”; nhưng tựu trung chỉ có một vấn đề: hiến thân hoàn toàn, không hạn chế. Tình yêu Chúa Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu thần linh, không chỉ vì Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài yêu chúng ta như là tạo vật và Con Thiên Chúa (Ga 17,6.9.10); nhưng còn vì Ngài mô phỏng theo tình yêu Chúa Cha dành cho Ngài: “Như Cha yêu mến Ta, Ta cũng yêu mến các ngươi” (Ga 15,9). Nói tóm lại có nghĩa là: “Hãy yêu thương nhau, như Ta đã yêu thương các ngươi, cho đến hy sinh mạng sống; hãy yêu thương nhau như chính Thiên Chúa đã yêu Ta”.

Một khi được hiểu và thực hành như vậy, tình bác ái huynh đệ phải tạo ra giữa loài người mối hiệp nhất theo gương Thiên Chúa: “Để hết thảy chúng được nên một, cũng như, Lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong chúng ta” (Ga 17,21). Mà Đấng cầu nguyện như thế cũng đã nói: “Cha và Ta là một” (10,30).

Ngoài ra, Đức Kitô của Thánh Gioan ở đây không dạy điều gì khác các điều chúng ta đã học trong các phúc âm nhất lãm. Bài diễn từ trên núi tóm tắt toàn bộ lý tưởng Kitô hữu: “Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48). Đoạn này cũng nói yêu kẻ thù là dấu chỉ phân biệt người Kitô hữu (Mt 5,46-48). Để yêu người như Chúa Giêsu muốn, phải yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự. Vì thế vị tôn sư đã đặt tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân một cách nào đó ngang hàng với nhau (Mt 22,39). Gioan và Phaolô, hai môn đệ Ngài, đã nhất trí dạy rằng: người yêu tha nhân là giữ trọn lề luật (1Ga 2,7-11; 3,10-11.14-16; Rm 13,9-10).

“Chính nơi điều này mà mọi người sẽ nhận ra là các ngươi là môn đệ Ta: ấy là các ngươi có lòng yêu mến nhau” (c.35). Bác ái giữa người Kitô hữu với nhau phải hiện thực và rõ ràng đến nỗi tự nó cho thấy họ là môn đệ Chúa Giêsu, ngay cả đến những người không biết gì về Kitô giáo (Ga 14,31; 17,21; 1Ga 2,7-11; 4,02-21). Tình yêu được truyền dạy ở đây chỉ có thể được hiện hữu giữa những người tin vào Chúa Giêsu Kitô. Một lần nữa, giới luật là giới luật “mới”.

Lịch sử Giáo hội sơ khai là lời chú giải tuyệt hảo nhất về câu nói đó. Luật bác ái đã được hiểu rất sớm và đã phát sinh ra nhiều hoa quả xây dựng mà Chúa mong chờ. Tác giả sách công vụ đã nói lên đặc điểm của nhóm Kitô hữu đầu tiên: “Các kẻ tin hết thảy đều coi mọi sự như của chung” (Cv 2,44). Theo chứng từ của Tertullien, người ta đã nói về họ: “Hãy xem họ thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng cho nhau chừng nào” (Apolog.39; Pl 1,53a). Sau này, những người ở ngoài sẽ gọi họ là Kitô hữu, còn họ vẫn gọi nhau là “anh em” (Cv 11,26.29). Họ ý thức việc họ được bác ái liên kết, đến nỗi đã dùng chữ “Agapê” (tình yêu) để đặt tên cho bữa ăn chung, được đó họ ăn và uống Mình, Máu Chúa (Giuda 12; Ignatiô, thơ gởi tín hữu Rm 7).

KẾT LUẬN

Trước ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã ban luật sống mới cho môn đệ mình. Đây là một luật mới vì đặt cơ sở trên một biến cố mới, bất ngờ và điên đảo: cái chết của Chúa, và vì trong cộng đoàn nhân loại không có chi tương tự như thế. Do đó, luật sống này là đặc điểm của cộng đoàn môn đệ vừa thành lập: “chính nơi điều này mà mọi người sẽ nhận ra các ngươi là môn đệ Ta”. Và các chứng tá trong Giáo hội sơ khai chứng nhận rằng luật tình yêu này, thực sự đã được chấp hành tốt.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Sau khi Giuda ra đi, Chúa Giêsu liền công bố, như thể cuộc ra đi của Giuda là dấu hiệu của một điều gì quan trọng: “Bây giờ Con Người đã được tôn vinh và Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ngài”. Hãy biết rằng, trong thánh kinh, vinh quang của Thiên Chúa hay vinh quang của một người nào đó không cùng ngôn ngữ như trong ngôn ngữ chúng ta. Trong ngôn ngữ chúng ta, vinh quang có nghĩa: nổi danh, đắc nhân tâm và được tiếng tốt. Trong Thánh kinh, vinh quang chỉ phẩm cách, thế lực, ảnh hưởng hiện diện và quyền năng của nhân vật. Với ý nghĩ đó, vinh quang cao cả, cơ sở của mọi vinh quang khác, chỉ thuộc về Thiên Chúa, Đấng thông ban vinh quang như ý Ngài muốn. Trong mức độ thực hiện chương trình Thiên Chúa, mỗi người nhận được giá trị và thế lực, và lớn lên trong vinh quang.
  2. Việc tìm hiểu các tự nguyện đó giúp chúng ta quán triệt ý nghĩa các lời nói của Đức Kitô. Chúa Giêsu đã được tôn vinh. Ngài chấp nhận điều Giuda phải làm. Từ đó, Ngài được vinh hiển, vì hoàn toàn chấp nhận cuộc Vượt qua bằng cái chết. Việc Ngài vâng phục thánh ý Chúa Cha làm cho Ngài được “vinh quang” và nói lên việc Người nhiệt tâm yêu mến Thiên Chúa. Đồng thời khi minh chứng mức độ tình yêu Ngài đối với loài người bằng việc trao ban Chúa Con, Chúa Cha cũng “đã được tôn vinh” trong con người Chúa Giêsu.
  3. Việc phúc âm và phụng vụ nhấn mạnh đến tính cách mới mẻ của luật bác ái huynh đệ đòi buộc chúng ta xét mình xem chúng ta thực thi Luật đó đến mức nào và bằng cách nào. Nó giả thiết đức ái này tiếp nối tình yêu Đức Kitô dành cho chúng ta (“như thày đã yêu mến các con”) và tiếp nối tình yêu chúng ta đối với Chúa Giêsu (vì chính trong điều đó mà người ta nhận ra các con là môn đệ Thày…). Lòng thương cảm tự nhiên khác xa tình yêu anh em siêu nhiên mà chúng ta phải có. Yêu thương họ vì họ (trong môi trường và điều kiện sống họ đang sống) không ngăn cản việc yêu thương họ trong Thiên Chúa và trong Đức Kitô. Và ngược lại, yêu thương họ như thế không giảm bớt lòng kính trọng và tình cảm tự nhiên. Yêu cách siêu nhiên không có nghĩa là yêu cách nhạt nhẽo, hững hờ, “để được Chúa thưởng”. Nhưng là yêu người khác hết lòng, không phải vì họ dễ thương, xinh đẹp, tốt lành… nhưng là vì họ là chi thể quí giá của Chúa Giêsu, là công dân Gierusalem thiên quốc. Vì các đặc điểm trên có giá trị cho mọi người, nên phải yêu mọi người với tình yêu siêu nhiên.
  4. Trong thế giới ích kỷ, bạo tàn, ham mê tiền bạc, bóc lột nghèo, người Kitô hữu phải làm sáng rực như ánh lửa, tình yêu họ đối với tha nhân, niềm cảm thông với người cùng khổ, lòng dịu và tha thứ cho kẻ nghịch thù. Nếu làm như vậy, Kitô hữu sẽ nổi bật lên giữa bao người khác. Một khi cảm nghiệm cách cụ thể tình yêu đó, thiên hạ sẽ nhận ra người Kitô hữu là môn đệ đích thật của Đức Kitô, sức nóng của tình yêu, họ sẽ được đưa dẫn về với Đức Kitô. Chỉ tình yêu mới có thể xây dựng đô thành huynh đệ loài người hằng mơ ước.

home Mục lục Lưu trữ