Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 76
Tổng truy cập: 1379737
NGƯỜI TÀN TẬT
Người tàn tật.
Đoạn Tin Mừng của thánh Marcô kể chuyện Chúa Giêsu cứu chữa một người mù có thể gợi lên vài suy nghĩ
Ở đời chúng ta thấy có nhiều người tàn tật: Có người thì mù, có người thì què, có người thì câm, có người thì rối loạn thần kinh… Trong số họ, có những kẻ bị tàn tật vì do một tai nạn, nhưng cũng có rất nhiều người bị tàn tật như thế ngay từ lúc mới sinh.
Đứng trước những người tàn tật ấy, người ta có thể có nhiều thái độ khác nhau: trẻ con thì vô tâm đến tàn nhẫn và chọc ghẹo những người đó “1,2,3 thằng cha bán kẹo què giò, còn một giò đi kéo xe lôi”; những kẻ có lòng hơn thì không lỡ chọc ghẹo nhưng ngậm ngùi tội nghiệp thông cảm; người thân của kẻ tàn tật thì đau khổ xót thương: năm 1962, tại thành phố Liège nước Bỉ có một bà mẹ sinh ra một đứa con hình dáng không ra con người mà là giống như một con vật. Bà đau đớn quá và giết chết đứa con ấy. Người ta đem bà ra tòa vì tội giết con. Nhưng tòa án tha bổng vì thông cảm với nỗi đau khổ của bà và nỗi đau khổ của đứa con ấy nếu nó sống và phải gánh chịu. Nhưng ngoài những thái độ chọc ghẹo, tội nghiệp và thương xót đó, người tín hữu chúng ta còn có thể có suy nghĩ nào hơn nữa không? Thưa có, đó là suy nghĩ về cuộc đời và những bất công của cuộc đời. Cuộc đời này quả thực có nhiều bất công: có người sinh ra thì mạnh khỏe xinh đẹp, có người sinh ra thì tàn tật xấu xí. Có kẻ sinh ra đã nằm sẵn trong một gia đình giàu có, địa vị; còn có kẻ sinh ra nhằm một gia đình cơ cực túng thiếu. Một người vừa mới sinh ra đã mạnh khỏe, thông minh và thuộc một gia đình giàu có thì hầu như sẽ rất dễ thành công trong đời; còn một người sinh ra mà tàn tật, ngu đần lại nghèo khổ nữa thì rất khó mà ngóc đầu lên được. Thử hỏi những kẻ xấu số đó bản thân của họ có làm gì nên tội mà phải gánh chịu những thiệt thòi như vậy? Họ không có tội nhưng họ phải chịu thiệt thòi, đó là một sự bất công.
Mà bất công thì đòi hỏi phải sửa lại cho công bằng. Nhưng có những trường hợp không thể sửa lại cho công bằng được. Chẳng hạn trường hợp cái quái thai do bà mẹ người Bỉ kia sinh ra, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Bà mẹ ấy đã giết nó chết đi, như thế có phải là công bằng không? Chắc chắn là không. Còn nếu không giết chết nó thì phải nuôi sống nó, nuôi thật chu đáo, đầy đủ, cưng chiều nó đủ thứ, nhưng như thế có phải là công bằng chưa? Cũng chưa vì chăm sóc chiều chuộng bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là xoa dịu phần nào những đau khổ của nó mà thôi, chứ không thể nào bù đắp được những thiệt thòi cho nó bằng một người bình thường không tàn tật. Bất công cũng vẫn còn là bất công thôi.
Nhưng chính những cái bất công ở đời này và sự bất lực không tạo được sự công bằng ở đời này đã giúp cho chúng ta tin rằng phải có một thế giới công bằng ở đời sau. Bởi vì nếu tất cả đều kết thúc ở đời này thì thật là chua xót quá đối với những kẻ xấu số tàn tật, thà họ không được sinh ra còn hơn. Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng nên họ không thể nào tàn nhẫn quá đến nỗi tạo ra họ chỉ là để cho họ chịu khổ đau. Vì thế mà chắc chắn phải có một cõi đời sau, khi đó mọi bất công sẽ không còn, những thiệt thòi sẽ được bù đắp xứng đáng, và công bình sẽ được thực hiện trọn vẹn.
Đó là ý nghĩa của những lời cầu nguyện đầy tin tưởng mà những kẻ xấu số đã kêu lên trong thánh vịnh 125: “Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận cho con, như những dòng suối ở miền Nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan”. Mà cũng là ý nghĩa lời hứa hẹn ngầm của Chúa Giêsu khi ra tay cứu chữa anh Bartimê khỏi bị mù trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là điều mà tiên tri Giêrêmia tiên báo trong bài thánh thư hôm nay “Ta sẽ lấy lòng từ bi mà dẫn dắt những kẻ đui mù què quặt…”
Tóm lại, những cảnh bất công ở đời vừa làm cho lòng ta thương cảm, mà cũng vừa giúp chúng ta tin chắc rằng phải có một cõi đời sau, công bằng hơn, hoàn hảo hơn và hạnh phúc hơn. Ở đời này có một số bất công mà con người không thể nào bù đắp cho công bằng được, như tàn tật chẳng hạn.
Nhưng chính các bất công không bù đắp được mới khiến loài người mơ tới một cõi đời khác sẽ không còn bất công.
Và qua phép lạ cứu chữa một người mù, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền năng Thiên Chúa có thể tạo ra một cõi đời như thế.
Như vậy phép lạ này là một bằng chứng về cõi đời sau. Đó là niềm tin của người Công giáo chúng ta.
56. Suy niệm của JKN.
Thái độ của người theo Chúa trước cảnh bất công, cùng khốn của đồng loại
Câu hỏi gợi ý:
- Thái độ của người mù trong bài Tin Mừng là la to lên để Đức Giêsu nghe thấy, và khi bị quát nạt, anh lại càng la to hơn nữa. Đó có phải là thái độ khôn ngoan không? Những kẻ cùng khốn có thể rút ra bài học gì không?
- Cảnh người mù kêu cứu mà bị quát nạt có gì tương tự với những cảnh đang xảy ra trong xã hội hôm nay không? Tại sao lại có người quát nạt anh? quát nạt anh để làm gì?
- Những người theo Đức Giêsu cần có thái độ nào trước cảnh người cùng khốn kêu cứu mà bị quát nạt? Im lặng mặc kệ họ hay kêu cứu dùm họ?
Suy tư gợi ý:
- Người mù lên tiếng kêu cứu và bị quát nạt
Trên trần gian này, có biết bao người cùng khổ như anh chàng Batimê trong bài Tin Mừng trên. Anh bị mù, không làm được việc gì để sinh sống, nên đành phải đi ăn xin. Đời anh thật khốn khổ, nên khi nghe tin Đức Giêsu – người nổi tiếng chữa lành bằng phép lạ – sắp đi qua, anh kêu to lên xin Ngài cứu chữa. Đó quả là nhu cầu vô cùng chính đáng của anh. Nhưng những người Pharisêu – những kẻ không muốn Đức Giêsu có ảnh hưởng trong xã hội vì lời giảng dạy và những phép lạ của Ngài – đã dọa nạt anh, bịt miệng anh để anh im đi. Họ sợ Ngài có thêm cơ hội làm phép lạ khiến Ngài nổi tiếng và có ảnh hưởng trên dân chúng nhiều hơn. Họ muốn độc quyền ảnh hưởng trên dân chúng. Đáng lẽ anh mù phải sợ những người Pharisêu này, vì họ có quyền thế về tôn giáo. Họ có thể «dứt phép thông công» anh (nói theo kiểu hiện đại cho dễ hiểu), khiến anh bị cô lập giữa những người đồng đạo, và đời anh đã khốn khổ sẽ vì thế lại càng khốn khổ hơn.
Nhưng sự cùng khốn của anh khiến anh không còn sợ gì nữa, anh quyết tranh đấu cho nhu cầu chính đáng của mình. Vì thế, anh càng la to hơn để Đức Giêsu nghe thấy. Nhờ kiên quyết tranh đấu, anh đã toàn thắng kẻ cố tình bịt miệng anh: Đức Giêsu nghe thấy tiếng anh kêu, đã đến với anh và chữa anh lành bệnh. Anh đã «nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi».
- Người cùng khốn đang bị áp bức, bị bịt miệng, bịt tai
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một cách thu gọn cảnh áp bức bất công vẫn thường xảy ra trong xã hội. Những người nghèo khổ, thấp cổ bé họng, không có tiếng nói như anh Batimê luôn luôn phải chịu cảnh áp bức: bị bịt miệng không cho phát biểu, bị bịt mắt không cho thấy, bị bịt tai không cho nghe những diễn biến đang xảy ra trong xã hội. Vì càng để họ ở trong cảnh dốt nát mù mịt thì kẻ nắm quyền càng dễ bề áp bức, hà hiếp, bóc lột họ. Để họ biết nhiều quá, nắm thông tin nhiều quá, nhất là để họ biết được quyền lợi của họ, hay biết được những thối nát, ngu xuẩn, bất công của những kẻ đang cầm quyền, thì khó mà duy trì ách thống trị trên họ mãi. Vì thế, tất cả những kẻ cầm quyền áp bức trên thế gian này đều muốn bưng bít thông tin, trấn áp dư luận, tìm cách bịt miệng tất cả những ai muốn nói, bịt tai tất cả những ai muốn nghe. Họ chỉ cho phép những gia nô của họ bốc thơm, nâng bi họ, bất chấp những tồi tệ ngu xuẩn của họ. Và chỉ cho phép đám dân ngu cu đen nghe những lời tán tụng giả dối ấy, để đám dân này ảo tưởng rằng mình đang được sống trên thiên đàng, và để họ coi bọn cầm quyền là ân nhân của họ.
Trong bài Tin Mừng, nếu anh mù Batimê mà sợ oai sợ vía bọn Pharisêu, mà im lặng trước sự quát nạt của họ, thì rất có thể anh sẽ không gặp được Đức Giêsu, anh sẽ không được chữa lành, và anh sẽ phải sống trong tăm tối suốt cả cuộc đời. Nhưng anh đã can đảm không sợ hãi, và sự can đảm ấy đã giải phóng anh! Sự can đảm ấy đã được Đức Giêsu chúc lành. Anh đáng làm gương cho chúng ta về lòng can đảm, về tinh thần tranh đấu cho nhu cầu và quyền lợi chính đáng của mình. Những kẻ nhát sợ trước bạo lực, không dám lên tiếng tranh đấu cho quyền lợi chính đáng của mình, đành chấp nhận làm thân giun dế, thật đáng xấu hổ trước tấm gương can đảm này.
- Các ngôn sứ hãy lên tiếng thay cho kẻ không có tiếng nói
Cái cảnh quát nạt không cho người mù lên tiếng như trong bài Tin Mừng hôm nay vẫn đang hằng ngày xảy ra trong xã hội con người. Nhưng có biết bao người khốn khổ, bị hà hiếp, đàn áp như thế không có khả năng hay dũng khí để gào to lên như anh mù trong bài Tin Mừng. Họ sợ bị ám hại, họ không có miệng để kêu, hoặc không biết kêu với ai… Tội nghiệp những con người ấy biết bao! Ai sẽ lên tiếng thay cho họ?
Thật may mắn cho họ, Đức Giêsu đã đến với sứ mạng «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn (…) trả lại tự do cho người bị áp bức» (Lc 4,18). Ngài có cả một đạo quân tiếp nối sứ mạng của Ngài, đạo quân của những người tận hiến đời mình để theo Ngài. Sứ mạng của họ được sách Châm Ngôn mô tả: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng xét xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9). Isaia cũng mô tả sứ mạng của họ: «Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ» (Is 1,17).
Giữa xã hội, hiện đang có cả một đạo quân hùng hậu gồm những người mang danh theo Đức Giêsu, thường tự hào mình tiếp nối sứ mạng của Ngài, tự hào mình là ngôn sứ, khiến những kẻ cùng khốn trong xã hội đặt biết bao hy vọng nơi họ. Nhưng tiếc thay, nhiều khi đạo quân đông đảo này lại sẵn sàng cùng nhau câm lặng trước những cảnh áp bức, đau thương, những cảnh ngang trái đầy bất công của xã hội… Ơi, phải chi những người ấy đừng vỗ ngực xưng tên mình là môn đệ Đức Giêsu, là người theo Ngài, là ngôn sứ của Ngài thì chẳng ai phiền trách họ về sự câm lặng ấy! Và chẳng ai thèm hy vọng nơi họ để khỏi phải thất vọng! Xưng mình là ngôn sứ mà chẳng làm công việc của ngôn sứ thì còn chính danh gì nữa? còn chân thật gì nữa! Thiên Chúa sẽ xét xử ra sao những người đang vui hưởng vinh quang của các ngôn sứ, nhưng lại muốn trốn tránh nhiệm vụ ngôn sứ?
- Thái độ của người Pharisêu
Bọn Pharisêu trong bài Tin Mừng không muốn anh Batimê la to lên để Đức Giêsu nghe thấy mà chữa lành cho anh. Đối với họ, cảnh mù lòa xin ăn, sự khốn cùng của anh chẳng có gì đáng để họ bận tâm. Lòng họ đã ra chai đá rồi! Họ không muốn anh được chữa lành, khi mà việc ấy không thuận lợi cho sự độc quyền ảnh hưởng của họ trên dân chúng. Họ sợ bị mất ảnh hưởng hơn sợ dân chúng phải đau khổ. Vì thế, họ muốn bịt miệng anh, không muốn anh nói lên sự cùng quẫn của anh. Là những người lãnh đạo tinh thần trong dân chúng, đúng ra họ phải lên tiếng nói thay cho dân, nhất là cho những kẻ đang bị cùng quẫn vì áp bức. Đằng này họ lại muốn bịt miệng người dân lại khi người dân lên tiếng. Là lãnh đạo tinh thần, đúng ra họ phải đặt quyền lợi người dân lên trên quyền lợi của họ. Đằng này, họ lại đặt quyền lợi của họ trên quyền lợi của dân.
Thấy thái độ của họ đối với dân chúng như vậy, Đức Giêsu đã dùng hình ảnh «kẻ chăn thuê» để nói về họ: «Kẻ chăn thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên» (Ga 10,12-13).
Ước gì những người lãnh đạo tinh thần thời nay không giống như các Pharisêu xưa, mà giống như Đức Giêsu, để vị nào cũng có thể nói được như Ngài: «Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên» (Ga 10,11). Amen.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, cảnh người mù kêu cứu bị quát nạt vẫn hằng xảy ra trong thế giới hôm nay. Là những người theo Đức Giêsu, nhưng chúng con chẳng muốn làm theo Ngài. Chúng con chẳng muốn quan tâm tới những người nghèo khổ, những kẻ bị áp bức bất công như Ngài vẫn luôn quan tâm. Chúng con chỉ thích bắt chước những người Pharisêu, đặc biệt quan tâm tới những nghi thức tôn giáo, những hình thức đạo đức bên ngoài, những luật lệ… Có phải chúng con thiếu đức tin và nghèo tình thương không? Xin Cha đừng để chúng con ảo tưởng mình đầy đủ đức tin chỉ vì chúng con đang làm thầy dạy về đức tin, hay tưởng mình giàu tình thương chỉ vì chúng con đang rao giảng về đức ái. Sự sợ hãi hằng trấn áp chúng con chứng tỏ đức tin của chúng con còn rất yếu kém. Sự lãnh đạm với những người nghèo khổ chứng tỏ tình thương của chúng con còn rất nghèo nàn. Lạy Cha, xin thêm đức tin và tình thương cho chúng con.
57. Xin cho con được thấy – Lm. Minh Vận.
Tại Việt Nam, trong một giáo xứ nọ, có một bà người ta quen gọi tên là “Con Mẹ Mướp”. Bà ta dữ như “sư tử hà đông” hay còn được ví như một “bà chằng”. Tại sao vậy? Là vì bất cứ ai làm gì bà cũng chê, cũng tìm đủ lý lẽ để bắt bẻ, để hạch xách; ngay cả chồng bà, bà cũng không kính nể; con cái, cháu chắt trong nhà, bà cũng luôn miệng la mắng, khiến trong gia đình lúc nào cũng luôn cảm thấy một bầu không khí căng thẳng, nghẹt thở. Gia đình mất hẳn tình thương yêu đầm ấm thuận hòa. Vợ chồng thiếu tình yêu đương âu yếm tôn trọng nể vì nhau; cha mẹ luôn càu nhàu cãi cọ nhau, la rầy mắng nhiếc nhau; làm nên gương xấu, khiến con cái mất lòng hiếu thảo, tôn kính phải có đối với bậc sinh thành ra mình.
Cuối cùng, bà ta cũng bất mãn cả với chính mình và trở thành con người bất bình thường; luôn nổi cơn cáu kỉnh, làm cho mọi người phải chán ghét xa tránh bà, khiến bà trở nên cô độc, gia đình bà trở thành như một hoang đảo, không ai thèm lai vãng thăm hỏi.
Vì cảm thấy mình bị lẻ loi và bị mọi người chán ghét, cũng giật mình; bà đi tìm một bác sĩ phân tâm để chữa cái bệnh “cáu kỉnh” cho bà. Nhưng ông bác sĩ cũng phải bó tay hàng phục, chẳng sao chữa trị cho bà được.
- ĐỨC TIN CỦA CON ĐÃ CHỮA CON
Một buổi sáng Chúa Nhật, bà có tên là “Con Mẹ Mướp” đi dự lễ và nghe bài Tin Mừng tường thuật câu truyện Chúa chữa người mù từ mới sinh mà chúng ta vừa nghe. Câu truyện đó làm cho bà bừng tỉnh và xúc động khác thường, khiến bà rưng rưng giọt lệ, tự cảm thấy mình cũng bị mù lòa, không nhìn ra được cái hay cái tốt, cái ưu điểm nơi tha nhân. Thế rồi, được ơn Chúa đánh động, bà quyết tâm sửa đổi thái độ và nhờ ơn Chúa trợ giúp bà đã thành công. Bà đã trở nên một người đàn bà thùy mị, vui vẻ, lạc quan và dễ thương với hết mọi người. Gia đình bà đã trở nên một tổ ấm yêu đương, thuận hòa, hạnh phúc, đến nỗi khiến mọi người phải thán phục, khen ngợi, kính nể và coi đó như một mẫu gương phải noi theo bắt chước.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã làm phép lạ chữa anh chàng bị mù từ mới sinh, bởi anh đã đặt niềm tin vững mạnh nơi Chúa, như chính lời Chúa đã phán với anh: “Đức tin của con đã chữa con”. Chính vì Đức Tin đó, mà không những Chúa đã chữa anh khỏi bệnh mù lòa phần xác mà còn chữa anh khỏi cả bệnh mù lòa phần linh hồn, là cho anh được ơn nhận biết Chúa, hiến thân theo Chúa để suốt đời phụng sự và yêu mến Người.
- BỆNH MÙ CỦA NGƯỜI THỜI NAY
Giữa một thế giới văn minh khoa học tiến bộ ngày nay mà vẫn còn nhiều người mắc chứng bệnh mù lòa, không sao nhận ra ánh sáng, họ phải mò mẫm trong bóng tối; không thưởng thức được những vẻ đẹp của thiên nhiên, những cảnh uy hùng của vũ trụ, những kỳ công kiệt tác của Đấng Tạo Hóa… Đó chính là cái bệnh mù lòa tinh thần. Bệnh mù lòa phần xác dù có cực khổ thế nào đi nữa, cũng chưa thấm vào đâu với nỗi khổ của cái bệnh mù lòa tinh thần. Biết bao nhà thông thái, biết bao triết gia, khoa học gia, chính trị gia là những kẻ tự hào cho mình là thông thái khi đề ra những triết thuyết làm lẽ sống cho con người; đã sáng nghĩ ra được máy móc tối tân để chinh phục không gian, để canh tân đời sống; đã chế tạo ra được những khí giới tối tân để tác oai tác quái nhằm tiêu diệt đối phương, đe dọa sự sống còn của các dân tộc.
Khi chữa cái bệnh mù phần xác cho anh chàng mù từ mới sinh trong Tin Mừng, Chúa cũng muốn cứu chữa cái bệnh mù lòa tâm hồn cho con người, để họ được diễm phúc nhận biết, tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa hầu được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, là thứ hạnh phúc con người phải khát khao và nỗ lực tìm kiếm.
III. XIN CHO CON ĐƯỢC XEM THẤY
Với niềm tin tưởng, chúng ta hãy khiêm tốn chân nhận sự mù lòa, sự nghèo nàn, hữu hạn thiếu thốn của mình và tha thiết nài xin Chúa cho chúng ta được ơn xem thấy, để chúng ta biết:
Nhận ra Chúa nơi tha nhân, nhận ra Chúa nơi anh chị em chúng ta, nhận ra những điểm hay điểm tốt nơi tha nhân, để biết tôn trọng kính nể họ. Xin cho chúng ta biết nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác của Người, để chúng ta biết dâng lời chúc tụng ca ngợi Đấng Tạo Hóa muôn loài. Xin cho chúng ta biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa, để chúng ta biết tôn kính, vâng phục, hiếu thảo với các vị theo thánh ý Chúa.
Nhất là xin cho chúng ta biết chân nhận thân phận thụ tạo của mình là phải hoàn toàn lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; biết nhìn nhận ra những ơn phúc do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để luôn biết dâng lời cảm tạ Chúa, biết tôn thờ, phụng sự và hết lòng kính mến Chúa, xứng với nghĩa vụ là một tôi trung, con thảo của Người.
Kết Luận
Chớ gì chúng ta được ơn nhận ra Chúa luôn luôn, nhận ra Chúa nơi mọi người, nhận ra Chúa nơi mọi thụ tạo, nhận ra Chúa nơi mọi hoàn cảnh của cuộc sống, trong mọi biến cố Chúa để xảy đến dù may hay rủi, dù xuôi thuận hay bất trắc; nhận ra Chúa nơi mọi kỳ công Người sáng tạo bằng một Đức Tin sống động và kiên vững, để luôn hết lòng thuần phục Chúa trong mọi sự, bằng một tình con thảo hằng biết yêu mến làm hài lòng Cha.
58. Đức Giêsu chữa lành người mù ở Giêrikhô
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Mc 8,22-26 kể truyện một người mù được dẫn đến gặp Đức Giêsu, được Người chữa lành tiệm tiến, và được yêu cầu giữ kín việc này; trong 10,45-52, Báctimê tự mình tích cực tìm Đức Giêsu, được chữa lành ngay và trở thành môn đệ trên đường. Truyện thứ hai này, cùng với câu truyện thứ nhất, đóng khung một đơn vị văn chương, nhưng cũng cho thấy một sự tiến bộ trong đức tin. Truyện này có thể được coi như một truyện về chữa lành hoặc một truyện về ơn gọi. Truyện này còn là một lời khuyến khích các môn đệ đang đi theo Đức Giêsu mà không hiểu gì hết, lòng trĩu nặng kinh hoàng.
Hai đoạn 8,22-26 và 10,45-52 là những bài tường thuật có vai trò chuyển mạch. Hai đoạn này đưa độc giả đến một lời tuyên xưng công khai vào tư cách Mêsia của Đức Giêsu: đức tin vào tư cách Mêsia giả thiết có biến cố Khổ Nạn. Trong viễn tượng đối thần này, việc Đức Giêsu mở mắt có giá trị một dấu chỉ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (10,46);
2) Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (10,47-50);
3) Đỉnh cao của bài: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (10,51-52).
3.- Vài điểm chú giải
– con đường (hê hodos) (46): Chúng ta đang ở trong phân đoạn trọng tâm Trên đường (x. Bố cục). Mc 10,32 ghi: “Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem. Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi”. Đề tài này với tất cả những gì liên hệ đến (tiến bước, dừng chân…) càng nổi bật trong 10,46-52: họ (các môn đệ, đám đông và Đức Giêsu) đến Giêrikhô. Nhưng rồi Giêrikhô cũng chỉ là một chặng trên “con đường” (“Khi Đức Giêsu … ra khỏi Giêrikhô”).
– môn đệ: Xem ghi chú ở 2,18. Các môn đệ (mathêtai) đi theo Đức Giêsu được phân biệt với đám đông tổng quát hơn (8,34; 9,14). Khi ghi nhận những lần tác giả sử dụng từ “đám đông” (ochlos), chúng ta có thể khẳng định rằng, cũng như các tác giả Tin Mừng khác, Mc ghi nhận sự hiện diện thường xuyên của đám đông. Trong một vài đoạn, ngài còn ghi là đám đông đi theo Người (3,20; 5,24; 8,2; x. plêthos ở 3,7 và polloi ở 2,15). Tuy nhiên, trong phân đoạn 8,27–10,52, hiếm khi Đức Giêsu ngỏ lời với đám đông. Trước 10,46, đám đông xuất hiện ở 9,14 và 10,1 (lần duy nhất ochloi ở số nhiều). Trong chuyến đi về Giêrusalem, Đức Giêsu săn sóc đặc biệt các môn đệ. Thông thường, khi cứu xét ngữ cảnh, ta có thể giả thiết là các đám đông là những người phát xuất từ vùng Đức Giêsu đi ngang qua (10,1). Trong trường hợp 10,46, vì đã gần lễ Vượt Qua, ta có thể nghĩ đến những người hành hương đang cùng đi với nhau tiến về thành thánh. Dù sao, Mc đã không quan tâm ghi chú lý do vì sao đám đông ra khỏi Giêrikhô với Đức Giêsu và các môn đệ Người.
– Báctimê: Báctimê là phiên âm cụm từ A-ram bar timay, có nghĩa là “con ông Timê”.
– một người hành khất mù, đang ngồi ở vệ đường: So với hành động của anh mù được kể ở c. 52 (“đi theo”), câu này cho thấy vị trí đầu tiên của Báctimê hoàn toàn ngược lại: “đang ngồi ở vệ đường” (para tên hodon). Đây là một tư thế cố định được coi như vĩnh viễn (thì vị hoàn của động từ ekathêto). Đã thế, anh lại là người hành khất (prosaitês) và bị mù. Tư cách hành khất diễn tả sự cố định, còn sự mù loà diễn tả sự xa cách. “Bên vệ đường” có nghĩa là “ở bên ngoài đường”. Như vậy, Báctimê ở trong thế bị loại trừ, cố định, xa cách người khác.
– Vừa nghe nói là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên (47): Đám đông can thiệp nhiều lần. Lần đầu tiên, họ cho biết đó là “Đức Giêsu Nadarét” (c. 47). Báctimê nhận thông tin này bằng thính giác (“đã nghe”): vì mù loà nên xa cách. Nhưng có sự gần gũi: Giêsu người Nadarét là một con người; và hình như anh cũng đã được thông tin về Người rồi. Tuy nhiên, sự gần gũi này cũng chưa giúp gì cho anh. Anh kêu lên (vì xa cách): “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Đáng ngạc nhiên là đám đông chỉ giới thiệu Đức Giêsu như một con người (“người Nadarét”), mà anh này lại kêu cầu Người bằng một danh hiệu của Đấng Mêsia (“con vua Đavít”). Dù sao, truyền thống Do-thái chờ đợi Đấng Mêsia nhà Đavít đến giải phóng dân Ít-ra-en và can thiệp để cứu độ, chứ không chờ Người chữa bệnh. Do đó, nhiều nhà chú giải cho rằng Mc đã đặt vào miệng anh mù một lời cầu khẩn của Kitô giáo. Đức Giêsu còn ở xa anh, vừa về không gian vừa do tư cách, nên anh phải kêu để mong gặp Người. Lời kêu này đã giúp anh vượt qua khoảng cách đó để gặp được Đức Giêsu.
– nhiều người quát nạt… anh càng kêu lớn (48): Bây giờ, đám đông đã trở thành một trở ngại thật đáng kể; nhiều người muốn bắt anh im đi. Trong các Tin Mừng, sáng kiến đi đến với Đức Giêsu không bao giờ phát xuất từ dân chúng hay các môn đệ. Ở đây, chính sự ngăn cản của họ trở thành một thử thách cho đức tin của anh, nhưng anh càng kêu to hơn. Danh Giêsu đã biến khỏi công thức khẩn cầu, chỉ còn lại danh hiệu “con vua Đavít”.
– Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (49): Người cắt ngang cuộc tiến bước. Khi làm như thế, Người tách khỏi những kẻ đang ở với Người trên cùng một con đường, Người phá vỡ một sức năng động mà Người đã phát động và lôi kéo. Lời Người nói chứng tỏ giữa Người và anh mù, có một khoảng cách, và đám đông đang ở tại vị trí này. Hành vi cắt ngang chuyến đi của Đức Giêsu tạo ra một hậu quả bất ngờ: người mù vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu, y như thể anh không bị mù.
– anh mù: Đáng lưu ý là Báctimê được gọi là “anh mù” (ho typhlos:cc. 49 và 51) sau khi Đức Giêsu can thiệp. Nếu tác giả Mc chỉ gọi anh là “anh mù”, phải chăng ngài muốn nói rằng anh không “hành khất” nữa?
– vất áo choàng: Tấm áo choàng (himation: “áo”; “áo choàng”) có thể là y phục nói chung (2,21; 5,28-30; 9,3; 15,20.24), nhưng ở đây có thể là tấm vải dùng như áo choàng (5,27; 6,56; 11,7.8; 3,16) mà một người nghèo có thể dùng làm mền đắp (Xh 22,25-26; Đnl 24,13), còn anh mù có thể trải ra trước mặt mà nhận các món bố thí (những người hành khất Đông phương thường làm như thế). Hành vi “vất (apobalôn) áo” có thể là cách diễn tả một sự hứng khởi tột độ; nhưng dựa theo ý nghĩa của động từ ấy, có thể nói hầu chắc là anh mù làm một hành vi từ bỏ dứt khoát. Ý nghĩa chính của động từ này là “vất đi, quẳng ra sau (với sức mạnh)” và “bỏ lại bằng cách quăng ra” (Đnl 26,5 LXX) hoặc “đánh mất” (Is 1,30 LXX; Dt 10,35)[1]. Anh mù đã làm một động tác dứt khoát, nhằm bỏ cái áo đi. Hành vi này chứng tỏ một sự liều lĩnh của anh mù, nhưng cũng cho thấy anh hết sức tin tưởng vào sự trợ giúp của Đức Giêsu và không muốn để cho ngay cả một vật cần thiết cho cuộc sống gây cản trở cho mình. Cũng có thể coi động tác ấy có ý nghĩa biểu tượng là từ bỏ chính mình (8,34-35), cắt đứt với quá khứ (1,18.20; 10,28).
– đứng phắt dậy (50): Động từ anapêdaô là một hapax legomenon (từ dùng một lần) trong Tân Ước, và ngày cả trong LXX cũng không được dùng thường xuyên (7 lần). Từ này mô tả động tác “nhảy lên” theo cách cương quyết và bất ngờ (Tb 6,2) thường từ thế ngồi (1 Sm 20,34; Tb 2,4; 7,6; Et 5,1e) và vì sự phấn khích (Et 5,1e: “lo âu lao mình xuống”, agôniasas anepêdêsen). Trong những đoạn khác, Mc diễn tả hành vi “trỗi dậy” bằng động từ egeirô quen thuộc hơn (2,12; 4,27; 13,8.22; 14,27). Theo lời mời egeire (“Hãy đứng dậy!”) của Đức Giêsu ở 2,11 và 5,41, phản ứng đáp lại được mô tả cũng bằng động từ egeirô hoặc anistêmi (5,42; 9,27). Nếu chúng ta nhớ sự tương ứng của egeirô-anistêmi ở 5,41-42 và nhớ rằng ở 2,14, anastas mô tả sự đoạn tuyệt với cuộc sống đã qua nhằm đi theo Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là, trong một ngữ cảnh nói về việc kêu gọi, động từ anapêdaô diễn tả mạnh mẽ hơn một sự sẵn sàng đáp lại lời mời gọi.
– đến: Đọng từ này mở đầu bài tường thuật dành cho đám đông (c. 46: “Đức Giêsu và các môn đệ đến”), nay được dành riêng cho anh: êlthen, ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi duy nhất, quyết liệt.
– Anh muốn tôi làm gì cho anh? (51): Đức Giêsu lưu tâm đến cá nhân anh mù. Người đã cho gọi anh đến như cho vào một cuộc tiếp kiến; bây giờ Người hỏi về điều anh muốn khiến ta nhớ lại 10,36: Đức Giêsu xử sự như Đấng có vương quyền.
– Thưa Thầy: Trong bản văn Hy-lạp, ta đọc là Rabbouni; đây là từ A-ram đã không được dịch ra hy-ngữ, tăng cường từ Rabbi (“đức ông”, “ngài”).
– Anh hãy đi: Đức Giêsu đã ban cho anh được thấy, như là một dấu chỉ của đức tin (“Lòng tin của anh đã cứu anh”).
– anh đi theo Người trên con đường (52): Động từ êkolouthei ở thì vị hoàn hàm ý một sự tiếp diễn: tiếp diễn trong chuyển động. Bởi vì đây là việc bước đi “trên đường”, nhưng cũng là trong sự gần gũi, bởi vì người ta bước theo sau một ai đó. Ý tưởng cốt lõi ở đây là sự hiện diện vĩnh viễn “trên đường”. Anh trở thành môn đệ (“bước theo”).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (46)
Trong chuyến đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu và nhóm các môn đệ đến Giêrikhô, thành phố cây chà là, cách Giêrusalem 23 cs về phía đông bắc, nằm ở 250m dưới măt biển, tại một ốc đảo trong vùng trũng bên sông Giođan. Giêrikhô Tân Ước ở về phía tây nam của “Giêrikhô của vua Hêrôđê”, nơi vị vua này đã xây một hoàng cung rộng lớn. Khác với TM Lc (18,35–19,10), ở đây Đức Giêsu và đoàn người đã không dừng lại Giêrikhô; cả đoàn đang đi ra khỏi thành thì gặp anh hành khất mù Báctimê. Vị trí của hai bên là hai vị trí không thể gặp nhau: Đức Giêsu và các môn đệ cùng đám đông thì đang di chuyển trên đường; anh mù thì đang ngồi ở vệ đường.
* Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (47-50)
Đáng ngạc nhiên là đức tin của anh mù “ngồi ở vệ đường”, tức lâu nay không “đi theo” Đức Giêsu, lại có phần sâu sắc (“Con vua Đavít”) hơn đức tin của đám đông dân chúng (“Giêsu người Nadarét”). Anh cứ kêu to hướng về Đức Giêsu, bởi vì anh muốn gặp Đức Giêsu mà anh lại không biết hướng. Đã thế đám đông lại trở thành trở ngại cho đức tin của anh: họ quát nạt bắt anh im đi. Nhưng anh càng kêu to hơn. Và Đức Giêsu đã dừng lại, truyền gọi anh lại. Đám đông thấy Đức Giêsu chiếu cố đến anh, liền “đổi giọng”. Đến đây xảy ra sự cắt đứt cuộc hành trình, Đức Giêsu đứng lại (c. 49): chính thái độ này đã làm thay đổi thái độ của đám đông và đưa lại cho anh mù sự di động và sự gần gũi. Lối xử sự của Đức Giêsu (đứng lại, truyền) đã làm cho hai bên có sự gặp nhau: anh ta có hướng đi tới. Sự việc anh vất áo choàng có nghĩa là đã chấm dứt sự cố định, để đạt sự di động. Hành vi “đến” (c. 50) đưa anh mù di chuyển mà gặp Đức Giêsu, và đưa anh vào “con đường” Người đang đi. “Đức Giêsu” và “con đường” là một; nói cách khác, sự gần gũi và di động phối hợp với nhau: con đường đã mở ra cho anh mù.
* Đỉnh cao của bài tường thuật: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (51-52).
Cái nhìn cho phép gần gũi dù ở xa, và bảo đảm cho có sự an toàn trong khi di động. Từ đó, ta mới hiểu tình trạng mù loà thật sự là tình trạng của đám đông và các môn đệ, một đám đông đang đi đường với Đức Giêsu: họ ở gần mà thật ra họ ở xa, vì họ chỉ có thể thấy đây là “Giêsu Nadarét”. Nay đã được “thấy” bằng lòng tin, Báctimê phải di động, phải theo Đức Giêsu trên đường. Công thức này thường được Mc (và Mt) sử dụng trong khung cảnh một sứ vụ do Đức Giêsu giao phó cho người môn đệ (Mc 1,44; 5,19; 10,21; 14,13).
+ Kết luận
“Sự mù lòa” tượng trưng sự xa cách dù gần gũi; “sự thấy được” tượng trưng sự gần gũi dù xa cách. Toàn bài xoay quanh những khái niệm này.
Trong bài nổi lên một số nghịch lý: người mù lại là người thấy rõ hơn mầu nhiệm của Đức Giêsu, người ngồi bên vệ đường lại có thể đến gần Đức Giêsu hơn những kẻ đi theo Người lâu nay. Tất cả là do đức tin của người ấy và sự chiếu cố của Đức Giêsu.
Sự gần gũi (bằng lòng tin) phải kéo dài; muốn thế phải di động (“anh đi theo Người trên con đường Người đi”, ở thì vị hoàn). Đức Giêsu đã cắt đứt hành trình để kéo anh đi theo; anh cũng phải cắt đứt tình trạng bế tắc để đi theo Người. Đấy chính là kinh nghiệm về đời tín hữu.
5.- Gợi ý suy niệm
- Chúng ta có thể suy nghĩ về thái độ của đám đông đi theo Đức Giêsu (trong đó có các môn đệ). Họ đã “đi theo” Người lâu nay, mà họ chỉ có thể giới thiệu về Người rất sơ sài: “Giêsu người Nadarét”. Vì thiếu lòng tin, họ đã không thể giới thiệu sâu sắc hơn về Người. Điều đó đã được tác giả Mc diễn tả bằng một câu thê lương: “Đức Giêsu dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi” (10,32).
- Trong đời sống đức tin, đôi khi phải dám “đi ngược giòng”. Như anh mù, dù bị người ta quát nạt bắt im, anh vẫn cứ kêu lên Đức Giêsu, vì anh xác tín chỉ Người mới có thể mở cho đời anh một hướng mới. Chúng ta cũng được mời gọi gắn bó mật thiết với Người, vì chỉ Người mới là Đấng duy nhất dẫn chúng ta đi đúng đường.
- Đức Giêsu đã cho các môn đệ biết mục tiêu của chuyến đi của Người: Người không đi lên Giêrusalem để làm vua, nhưng là để hy sinh mạng sống. Bước theo Người có nghĩa là chịu hy sinh với Người. Người đã nhấn mạnh trên điểm này, nhưng các bạn đồng hành không hiểu. Họ đang bị mù, họ cứ muốn giữ mắt nhắm lại và mơ những chỗ nhất trong vương quốc. Người mù Giêrikhô tượng trưng cho các môn đệ và tất cả những ai chưa được thấy ánh sáng của Đức Kitô, chưa được đón nhận Tin Mừng.
- Cần phải được Đức Giêsu mở mắt tâm hồn để hiểu bản thân và sứ mạng của Người, cũng như để có thể sẵn sàng bước theo Người, làm môn đệ Người. Và khi đã nghe tiếng Đức Giêsu kêu gọi trong cuộc sống, cần mau mắn dứt khoát bỏ đi mọi sự, như bốn môn đệ đầu tiên đã tức khắc bỏ tất cả để đi theo Người. Phải chấp nhận liều lĩnh, để từ đây cuộc sống của người Kitô hữu sẽ là một sự hiệp thông thân tình với Người.
59. Chú giải của Noel Quesson.
Giêrikhô
Về mặt lịch sử, đó là một trong những thành phố danh tiếng nhất thế giới. Nhưng đó cũng là thành phố “thấp nhất” thế giới: Nằm trong một miền trũng sâu gọi là Ghor, dưới mặt nước biển 250 mét gần Biển Chết, nên cảnh vật hoang vắng, lúc nào cũng thấp thoáng bóng dáng thần chết. Ở đây, loại cây cọ phát triển mạnh, tạo nên một vệt xanh tươi, một ốc đảo. Đó còn là một thành phố cổ xưa nhất thế giới. Theo ý kiến các nhà khảo cổ học, đã có người cư ngụ ở đó từ năm 7.800 trước Chúa Giáng sinh, với những di tích đồn lũy có từ 7.000 năm trước Chúa Giáng sinh. Tổ phụ Abraham sống gần chúng ta hơn là thành phố đầu tiên này, một thành được coi là rất cổ ngay ở thời của tổ phụ.
Về mặt Kinh thánh, Giêrikhô là biểu tượng cho “công việc tiến vào miền đất hứa” ngay sau khi vượt qua sông Giođan. Đối với khách hành hương lên Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, cũng như đối với những đoàn người từ Galilê đi dọc theo sông Giođan thì đây là chặng đường cuối cùng, vì chỉ cách thủ đô 35 cây số.
Chúng ta đừng quên rằng, đối với Đức Giêsu cũng vậy, đó là con đường dẫn đến Giêrusalem. Ngày mai (Mc 11,1) Người tiến vào thành phố để hưởng chút vinh quang ngắn ngủi của buổi rước lá, dự buổi tiệc ly, trải qua cuộc thương khó, rồi Phục sinh.
Chữ Giêrikhô trong tiếng Do Thái có nghĩa là “thành phố mặt trăng”, chắc chắn để kỷ niệm việc thờ kính xa xưa. Vị thần của ban đêm. Chính vì thế mà Đức Giêsu sẽ làm “dấu lạ” cuối cùng: Người sẽ chiến thắng đêm tối đang giam cầm một người mù đáng thương. Đức Giêsu, ánh sáng của chúng ta! Anh sáng soi chiếu đêm tối đời ta.
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô
Trong những ngày trước, theo trình thuật của Maccô (chương 8 đến 10) chính những môn đệ này đã tỏ ra họ hoàn toàn “mù tối” trước định mệnh thực sự của Đức Giêsu: Họ vẫn còn mơ tưởng danh dự và thành công theo kiểu loài người (Mc 10,37) trong khi Đức Giêsu đã ba lần báo trước cho họ thập giá của Người (Mc 8,31; 9,31; 10,34). Những bài đọc của 6 Chúa nhật vừa qua đã cho chúng ta thấy rằng, các môn đệ là những người không hiểu biết và với cái nhìn nhân loại, hoàn toàn không đủ tư cách để bước theo Đức Giêsu: phải “mất mạng sống mình” (8,35), phải trở nên “người cuối chót” (9,35), phải tự “móc mắt, chặt tay, chặt chân” để khỏi phạm tội (9,47), phải “trung thành trong hôn phối” đến độ anh hùng (10,9), phải “uống chén đắng và nhận phép rửa”, phải trở nên “đầy tớ của mọi người” (10,38-44). Không, lạy Chúa, không thể được đối với con người, dù người đó đã làm môn đệ của Chúa, nếu chỉ dùng sức riêng của con người để “theo Chúa”.
Một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê
Trong những xứ nghèo ở phương Đông, người bị mù rất đông. Trước khi phát minh phương pháp Braille cho người mù đọc được chữ nhờ ngón tay, người mù chỉ sống bằng cách ăn xin, ngồi tại chỗ. Trong biểu tượng Kinh thánh người mù là “hình trạng” của sự “khó nghèo”, của con người bị bỏ rơi: Hãy nhìn hình ảnh đó! Đó là chân dung của bạn đấy! Con mắt tôi mù như đêm, bàn tay chìa ra, ngồi xệp dưới đất. Mù, không thể bước đi được, phải lệ thuộc kẻ khác một cách bi thảm. Nhưng nghịch lý thay, chính người “hành khất mù ngồi dưới đất” này, lại sắp trở thành gương mẫu cho tất cả chúng ta, cho các môn đệ là những người cứ “tưởng mình thấy rõ” (Ga 10,39-40).
Người hành khất mù ấy tên là Batimê. Chỉ mình Maccô đã ghi lại tên của người này. Rất có thể ông Batimê thuộc cộng đoàn những người Kitô hữu đầu tiên, lúc Maccô viết trình thuật này. Đó là một người mà người ta biết rõ: Một người đã được Đức Giêsu ban phép lạ. Bạn có biết Thiên Chúa cũng biết tên bạn, và Người thương yêu bạn với một tình thương cá biệt, không phải là nặc danh sao?
Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nagiarét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng
Theo thói quen của mình, Maccô luôn tỏ ra rất cụ thể. Chúng ta sắp xem một đoạn phim ngắn vô cùng linh động, trong đó mọi chi tiết được quan sát thật tinh tế, và có giá trị biểu tượng khá cao.
Như ta biết người mù có một thính giác rất đặc biệt.
Bằng lỗ tai, ông ta đã nhận ra sự hiện diện của Đức Giêsu, người Nagiarét.
Ngồi trên mô đất ngoài của thành Giêrikhô, ông ta nghe tiếng ồn ào của một nhóm người đi qua trước mặt mình. Người ta nói cho ông biết rằng, đó là Đức Giêsu.
“Tôi chưa bao giờ thấy Thánh nhan Người nhưng những kẻ biết Người, đã nói với tôi về Người. Từ ngày đó, tôi mong Người đi qua và tôi nghe nói. Hôm nay Người đến.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng ở trong tình trạng của người mù trên: ta chưa bao giờ thấy khuôn măt của Đức Giêsu. Nhờ đức tin, chúng ta đã tin vào chứng tá của những kẻ biết Người và chúng ta cũng ngóng đợi bước chân Người đi ngang qua”, Người “đang đến”. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ thấy Người.
Anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavit, xin dủ lòng thương tôi!”
Từ trong bóng đêm của người này một niềm hy vọng cuồng say đã bùng dậy. Bấy giờ anh ta la hét lên. Anh cất tiếng cầu xin. “Xin thương xót tôi”. Đó là tiếng kêu cứu của anh. Tiếng Hy Lạp là “Kyrie Eleison”. Một truyền thống lâu đời của Giáo hội Đông phương đã dạy các tu sĩ ở Hy Lạp, Libăng, Xyria, Ai Cập, Cappadoce vùng Sa mạc… phương thế tự thánh hóa mình nhờ “lời cầu xin với Đức Giêsu bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mỏi mệt những từ này: Lạy Đức Giêsu, xin thương xót. Lạy Đức Giêsu, xin thương xót”. Trong trình thuật của Maccô, tiếng Hy Lạp là “Ièsou, eleison, Ièsou, eleison”
Chữ đầu đọc bằng cách hít hơi vào chữ sau bằng cách thở hơi ra, để nhịp nhàng theo cơ thể một lời cầu nguyện mà người ta muốn tinh thần của lời kinh thấm sâu vào toàn thể cuộc sống. Trong nhiều giờ liên tục, người ta có thể “thở” với Chúa trong ngực của mình. Kiểu cầu nguyện cao cả nhưng rất đơn giản này từ Phương Đông truyền cho chúng ta. Không cần phải đi Katmandou mới sống bằng thần khí được, vì thần khí muốn thổi đâu thì thổi. Kỹ thuật đáng thán phục của môn Yoga cũng có thể được những người đơn sơ nhất, sử dụng: vậy chúng ta hãy học cầu nguyện với hơi thở của mình.
“Hỡi con vua Đavít” ngày mai, ở Giêrusalem, đám đông dân chúng sẽ cầm cành lá vạn tuế trên tay để tung hô Đức Giêsu (Mc 11,10).
“Bí mật Thiên sai” không cần phải giữ nữa. Giờ đây cái chết của ông “Vua” thuộc dòng dõi Đavít đã gần kề. Mọi sự hiểu lầm về chính trị đã được gạt bỏ. Đấng Cứu Thế đã được chờ đón như là người “sẽ lập lại vương quyền tại Israel”. Vì Đức Giêsu lên Giêrusalem, mọi người đều nghĩ rằng, Chúa sẽ lên “nắm quyền”. Người là “Vua”, nhưng không phải theo kiểu những quốc gia trần thế (Mc 10,42; Mt 27,11; Ga 18,33-36) Vương miện của Người bằng gai nhọn. Con vua Đavít sinh ở Bê lem như tổ tiên, sẽ trị vì ở Giêrusalem như tiên tổ của Người. Nhưng không phải như đám đông mong đợi. Người sẽ đứng đầu bằng cách làm người sau chót, là nô lệ.
Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”
Thời nào cũng có những người bắt buộc kẻ đáng thương phải im miệng. Luôn luôn có những hạng người khó mà làm cho kẻ khác hiểu mình: đó là những di dân, những người sống ngoài lề xã hội, những kẻ khuyết tật và những nạn nhân đủ loại. Tiếng kêu của người mù Batimê vẫn còn vang lên.
Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!”
Rõ ràng, đó là một chi tiết. Nhưng chúng ta đừng vội lướt qua mà không tìm hiểu ý nghĩa của nó. Đức Giêsu sai các “môn đệ” bắt đầu phục vụ những kẻ nhỏ bé. Người nhờ các ông chuyển lời mời gọi của Người. Thiên Chúa cần con người. Vậy Chúa nói với nhân loại nhờ Giáo Hội của Người. Và Giáo Hội, chính là chúng ta, chúng ta có lắng nghe tiếng kêu luôn vọng lên chung quanh chúng ta không? Chúng ta có dội lại cho người anh em chúng ta tiếng kêu gọi của Chúa hay không? Để dẫn họ đến với Đấng cứu chuộc duy nhất? Người ta bàn cãi rất nhiều lần về “vai trò của Giáo hội”: thì chính là vai trò đó! Bạn hãy lắng nghe tiếng kêu của thế giới. Bạn hãy kêu gọi thế giới, nhân danh Chúa!
Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”
Ở đây có một từ kỹ thuật Hy Lạp đáng lưu ý. “Đứng dậy” (égeiré) mà đáng lẽ người ta phải dịch là “thức dậy” hay “sống lại” (Mc 2,9-11; 3,3; 5,41; 9,27; 10,49). Đó là sứ điệp của Giáo hội, nhân danh Chúa.
Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu
Trong ngôn ngữ Kinh thánh, chiếc “áo ngoài” là biểu tượng cho quyền lực của con người (2V 2,14, R 3,9). Đụng chạm tới áo ngoài của Đức Giêsu cũng đủ để lành bệnh. Việc người mù vứt bỏ áo ngoài của mình, tượng trưng cho một thứ ‘đoạn tuyệt với quá khứ’ của anh. Vào thời Maccô, người vừa được rửa tội, sẽ cởi áo ngoài của mình để mặc áo rửa tội.
Người hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?”
Câu hỏi thật kỳ cục, nếu ta chỉ hiểu câu chuyện cách nông cạn. Chắc hẳn, Đức Giêsu biết rõ người mù đang mong đợi điều gì nơi Người. Nhưng cảnh này được coi như một lễ rửa tội từ đầu đến cuối: Người dự tòng cần phải được “soi sáng” để tự mình “tuyên xưng Đức tin”.
Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được”
Vào thời Maccô, người ta gọi phép rửa là “việc khai sáng”. Đó là bí tích mở mắt.
Lạy Chúa, xin cho con được thấy: Lạy Chúa, xin mở mắt con ra.
Người nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi
Phép rửa đó là bước vượt qua từ bóng tối tiến tới ánh sáng. Đó là công cuộc cứu độ: điều không thể đối với con người, nếu chỉ dựa vào sức riêng của mình, nay đã trở nên có thể và đó là bắt đầu theo Đức Giêsu. Luca sẽ nói về các môn đệ làng Emmau: “Lúc bấy giờ mắt họ mở ra”. Vâng, họ đã mù, dù là với đôi mắt mở rộng.
Về phần anh Batimê, anh sẽ mãi mãi nhớ “khuôn mặt đầu tiên” mà anh đã thấy, khi mắt anh đã được mở ra. Lạy Chúa, khi nào mắt chúng con sẽ được mở ra. Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến!
60. Chú giải mục vụ của William Barclay.
PHÉP LẠ BÊN VỆ ĐƯỜNG (Mc 10,46-52)
Với Chúa Giêsu, điểm cuối cùng là chặng đường không còn bao xa nữa. Giêricô chỉ cách Giêrusalem 15 dặm, chúng ta phải cố gắng hình dung lại quang cảnh này. Con đường chính chạy xuyên qua Giêricô. Chúa Giêsu đang trên đường đi dự lễ Vượt Qua. Khi có một Rabbi được trọng vọng thực hiện một hành trình như vậy, thường thường vị ấy vừa đi, vừa thuyết giảng cho một đám đông người vây quanh, gồm dân chúng, các môn đệ và những người muốn học hỏi đi theo để nghe. Đây là một trong nhiều cách dạy dỗ thông thường nhất. Theo luật, tất cả những người Do Thái thuộc phái nam trên 12 tuổi, ở cách Giêrusalem trong vòng 15 dặm, đều phải lên Giêrusalem để dự lễ Vượt Qua. Dĩ nhiên điều luật này khó có thể tuân hành trọn vẹn và tất cả mọi người đều đổ về Giêrusalem. Số người không thể đi được thường có thói quen đứng dọc dài theo hai bên đường của các thị trấn hay làng mạc để chúc bình an cho khách hành hương đi qua đó. Vậy, bấy giờ chắc phải có nhiều người đứng dọc theo các đường phố Giêricô, có lẽ đông hơn thường lệ nữa, họ rất nôn nóng, hiếu kỳ, muốn xem mặt chàng thanh niên vùng Galilê đã có can đảm đứng lên chống lại sức mạnh tổng hợp của chính thống giáo. Giêricô có một đặc thù. Có trên 20.000 thầy tư tế và một con số đông tương đương người Lêvi trực thuộc Đền Thờ. Họ không thể cùng phục vụ một lúc trong Đền Thờ. Do đó, họ được chia làm 26 phiên ban thay nhau phục vụ. Nhiều thầy tư tế và người Lêvi trong số này thường trú tại Giêricô khi chưa đến phiên phục vụ trong Đền Thờ. Hôm ấy, trong đám đông tại Giêricô hẳn cũng có nhiều người trong số họ. Vào dịp lễ Vượt Qua tất cả những người này đều có mặt phục vụ tại Đền Thờ. Đây là một cơ hội hiếm hoi mà mọi người đều có công tác. Nhưng nhiều người vẫn chưa vội khởi hành. Họ còn nóng lòng gấp đôi dân chúng, mong được trông thấy tận mắt kẻ phản loạn sắp xâm chiếm Giêrusalem. Cho nên hôm ấy, có lẽ trong đám đông đang có nhiề con mắt lãnh đạm, thù địch chăm chú nhìn vào Chúa Giêsu, vì rõ ràng nếu Chúa Giêsu đúng, toàn thể việc thờ phượng trong Đền Thờ trở thành lỗi thời.
Ở cửa phía Bắc thành phố có một người ăn mày mù tên là Batimê. Anh ta nghe nhiều tiếng chân người đi, nên dò hỏi xem có chuyện gì xảy ra, và ai sắp đi ngang qua. Người ta bảo đó là Chúa Giêsu. Lập tức anh ta đứng dậy kêu to lên để khiến Chúa Giêsu phải chú ý đến mình. Với số đông người đang đi theo Chúa Giêsu để lắng nghe những giáo huấn của Ngài, thì tiếng hét to đó là một xúc phạm. Họ cố làm cho Batimê phải im tiếng, nhưng đã không ai lấy được của anh ta cái cơ may duy nhất có thể thoát khỏi thế giới tối tăm, nên anh ta cứ hét thật to đến nỗi đoàn người đông đảo đó phải dừng lại và người ta dẫn anh ta đến với Chúa Giêsu. Đây là câu chuyện có rất nhiều điểm soi sáng, qua đó, chúng ta sẽ thấy được nhiều điều có thể gọi là những điều kiện để một phép lạ có thể xảy ra.
1/ Có sự kiên trì triệt để của Batimê.
Không có gì ngăn cản được tiếng kêu gào của anh ta mong được đối diện với Chúa Giêsu. Anh quyết tâm phải gặp cho bằng được con người mà từ lâu anh trông mong được gặp mặt với tình trạng tật nguyền của mình. Trong trí Batimê ước muốn nhìn thấy Chúa Giêsu không phải là một sự mơ hồ, hoặc do cảm xúc. Đây là một ước muốn thiết tha và chính ước vọng tha thiết đó đã khiến cho mọi sự được thành.
2/ Anh ta đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu ngay tức khắc, hết sức sốt sắng, sốt sắng đến nỗi anh ta đã vứt đi chiếc áo ngoài để chạy đến với Chúa Giêsu cho nhanh hơn.
Nhiều người khi được nghe tiếng gọi đã thực sự tự nhủ “Hãy chờ một chút để tôi làm việc này cho xong đã”. Nhưng khi Batimê nghe tiếng gọi, anh lập tức chạy đến với Chúa ngay. Có nhiều cơ may chỉ xảy đến một lần mà thôi. Do bản năng, Batimê biết rõ điều đó. Lắm khi chúng ta cũng muốn vứt bỏ một thói quen, muốn thanh tẩy đời sống khỏi một vài điều sai quấy, muốn hiến thân cho Chúa Giêsu trọn vẹn hơn, nhưng thường thường chúng ta cũng không chịu hành động ngay, rồi dịp may qua đi và chẳng bao giờ trở lại.
3/ Anh biết đúng nhu cầu của mình đang cần được sáng mắt.
Lắm khi chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu chỉ là sự thu hút mơ hồ. Khi đi bác sĩ, chúng ta muốn bác sĩ giúp điều trị một tình trạng nhất định nào đó. Khi đến nha sĩ chúng ta muốn ông ta nhổ cái răng đang đau chứ không chữa bất kỳ cái răng nào. Giữa chúng ta với Chúa Giêsu cũng vậy. Điều này liên hệ đến một điều mà rất ít người muốn đối diện: tự xét mình. Khi đến với Chúa Giêsu, nếu chúng ta tha thiết mong ước được một điều rõ ràng, dứt khoát như Batimê, sẽ có chuyện lại xảy ra.
4/ Batimê có một quan niệm hết sức thiếu sót về Chúa Giêsu.
Anh ta cứ nằng nặc gọi Ngài là con vua Đavít. Thật vậy, đó là danh hiệu của Đấng Mêsia, nhưng cả tư tưởng đó nói lên một Đấng Mêsia chinh phục thế gian, một vua thuộc dòng dõi Đavít sẽ đưa dân Israel đến chỗ vĩ đại của dân tộc. Đó quả là một ý niệm hết sức khiếm khuyết về Chúa Giêsu. Dầu vậy, Batimê vốn có đức tin ấy đã hàn gắn cho khuyết điểm về thần học của anh. Điều đòi hỏi không phải là chúng ta phải hiểu biết đầy đủ về Chúa Giêsu. Dầu thế nào chúng ta sẽ chẳng bao giờ hội đủ điều kiện đó. Điều đòi hỏi chúng ta là đức tin. Một tác giả khôn ngoan đã viết “Chúng ta phải đòi hỏi người ta suy nghĩ, nhưng không nên trông đợi họ trở thành những nhà thần học trước khi trở thành Kitô hữu”. Kitô giáo bắt đầu qua một phản ứng đối với Chúa Giêsu, phản ứng do tình yêu cảm biết đây là người thỏa mãn nhu cầu của mình. Ngay cả khi chúng ta không thể suy nghĩ nổi mọi sự theo thần học thì chính sự đáp ứng từ tấm lòng được xem là đủ.
5/ Cuối cùng có một mối quan hệ quý báu.
Batimê chỉ là một người ăn mày mù ngồi bên vệ đường, nhưng anh là người biết tri ân. Sau khi được chữa lành, anh ta đã đi theo Chúa Giêsu. Anh không ích kỷ đi theo đường riêng sau khi nhu cầu của mình được đáp ứng. Anh ta bắt đầu với nhu cầu, tiếp tục bằng lòng biết ơn và kết thúc bằng sự trung thành, và đây là phần tóm tắt rất đầy đủ về các giai đoạn trong việc làm môn đệ của Chúa.
61. Con mắt Đức tin – Trầm Thiên Thu
Con mắt là cửa sổ tâm hồn. Nhìn vào mắt người đối diện, người ta có thể “thấy” được những thứ trong tâm hồn người đó. Ánh mắt cũng có một “dòng điện” đặc trưng, người nào “yếu” sẽ chuyển ánh mắt nhìn sang hướng khác, nghĩa là “yếu vía” hơn người kia. Vì thế mà cũng là ánh mắt nhưng có nhiều cách nhìn khác nhau: Nhìn thẳng, nhìn xiên, nhìn ngang, nhìn dọc, nhìn lấm lét, nhìn trộm, nhìn kín đáo, nhìn lộ liễu, nhìn thán phục, nhìn khinh bỉ, nhìn chân thật, nhìn đểu cáng,…
Cũng với một vấn đề, một sự vật hoặc một con người, nhưng mỗi người đều có cách nhìn khác nhau. Cố NS Trịnh Công Sơn có cách nhìn thế này: “Còn hai con mắt, khóc người một con. Còn hai con mắt, một con khóc người” (Con Mắt Còn Lại), và ông còn diễn tả con mắt bằng nhiều kiểu: “Những con mắt tình nhân, Nuôi ta biết nồng nàn, Những con mắt thù hận, Cho ta đời lạnh căm. Những mắt biếc cỏ non, Xanh cây trái địa đàng, Những con mắt bạc tình, Cháy tan ngày thần tiên. Những con mắt trần gian, Xin nguôi vết nhục nhằn, Những con mắt muộn phiền, Xin cấy lại niềm tin, Những con mắt quầng thâm, Xin tươi sáng một lần…” (Những Con Mắt Trần Gian).
Với người Đông phương cổ đại còn có “con mắt thứ ba”, gọi là “thiên nhãn” (*). Với người có niềm tin tôn giáo nói chung, và với người Công giáo nói riêng, còn có “con mắt đức tin” – một loại “thiên nhãn”. Quả thật, chỉ với con mắt mà cũng có thiên hình vạn trạng!
Con mắt nhìn khiến lòng tham trỗi dậy. Lòng tham có thể ẩn núp tinh vi: Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh. Chưa có “cơ hội” chưa biết ai thật thà hay tham lam. Có những tài xế taxi phát hiện khách bỏ quên trên xe vài chục triệu mà vẫn trả lại khổ chủ, đó mới là người trong sạch – sạch từ ánh mắt. Sách Huấn Ca xác định: “Bạc tiền khiến cho bao người sa ngã, thế nào cũng đưa họ đến hư vong. Nó là cái bẫy cho ai say mê nó, hết mọi kẻ ngu si sẽ sa vào” (Hc 31:6-7). Ai cũng cần tiền, nhưng tiền không là tất cả, cần mức nào và có “nặng lòng” với nó hay không lại là chuyện khác. Tiền chỉ là phương tiện, không là mục đích. Tiền là đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu (Tục ngữ Pháp – L’argent est un servant bon mais un maitre mal).
Sách Huấn Ca nói: “Phúc thay ai giàu có mà vô tội, không chạy theo của cải, tiền tài” (Hc 31:6). Đó mới là vấn đề. Đừng tưởng nghèo thì được chúc phúc. Nghèo mà không sạch thì cũng vô ích: Lòng bẩn! Nghèo mà vẫn tham thì không thể vô tội, và tất nhiên không thể biện hộ. Quả thật, không dễ chút nào! Đừng nói hay, có dịp tham mà không tham đó mới là trong sạch. Người đó (giàu hay nghèo) được khen là có phúc, vì trong dân, người đó khiến cho bao người phải tâm phục khẩu phục qua cách sống.
Người có tâm hồn trong sạch như vậy hẳn là người sống trong ơn nghĩa của Thiên Chúa, dù trong nghèo khổ hoặc cơ cực thì họ vẫn một lòng tín trung với Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh, họ vẫn vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” [Tv 125 (126):2]. Quả thật, việc Chúa làm thật vĩ đại và vô song. Chính người đó thấy mình chan chứa một niềm vui, vui vì sống thanh thản trong Ơn Thánh Chúa.
Đời là bể khổ. Không ai lại không khổ. Khổ nhiều cách. Khổ nhiều mức. Sinh ra là bắt đầu khổ. Đôi khi có người còn khổ chồng chất, khổ tới chết vẫn không được một ngày sung sướng. Nhưng vấn đề là ở lòng kiên trung trong niềm tin vào Thiên Chúa ngay trong những nỗi cơ cực nhất, chắc chắn Chúa sẽ thương: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” [Tv 125 (126):5]. Muốn tín trung thì phải dùng đến con mắt đức tin. Vững đức tin trong khốn khổ cùng cực có lẽ chưa ai bằng Thánh Gióp.
Thầy dạy đức tin là Đại sư phụ Giêsu. Chúng ta có đức tin là nhờ Ngài. Vì thế, chúng ta sống đức tin là minh chứng cho Thiên Chúa, không được giữ đức tin đó cho riêng mình mà phải truyền đức tin sang cho người khác. Đó là một nhiệm vụ chung, nhất là trong Năm Đức Tin này với chủ đề Tân Phúc Âm hóa. Truyền đức tin sang người khác cũng là một cách truyền giáo mới trong thế giới ngày nay, vì người ta càng ngày càng không muốn sống đức tin nữa!
Những người được tuyển trạch để lãnh nhận chức tư tế thừa tác càng có trách nhiệm nặng nề hơn trong việc loan truyền đức tin. Thánh Phaolô nói: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Dt 5:1). Đúng vậy, trước khi làm tư tế thì vẫn phải làm con người, với mọi thứ của một con người bình thường. Người đó phải “có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Dt 5:2-3). Và vì thế, “không ai tự gán cho mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi” (Dt 5:4). Thế nhưng trong thực tế lại khác, đúng như người Việt thường nói: “Cờ đến tay ai người đó phất”. Câu nói giản dị và nhẹ nhàng nhưng vô cùng thâm thúy! Thế nên, có khi người ta sống ngược với lời Đức Kitô: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28).
Thánh Phaolô chỉ ra rõ ràng: “Không phải Đức Kitô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5:5-6). Đức Kitô còn chưa tự xưng mình là “ông kia, ông nọ” thì huống gì chúng ta, nhưng phàm nhân đầy tội lỗi, bất trác và bất túc.
Một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Giêrikhô. Khi Ngài cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giêrikhô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Batimê, con ông Timê. Vừa nghe nói đó là Đức Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:47). Thấy vậy, nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10:48).
Chúng ta thấy có hai thái cực rạch ròi: Những người quát nạt Batimê là những người ngăn cản người khác đến với Chúa Giêsu, còn anh mù Batimê đại diện cho những người có niềm tin kiên vững. Có nhiều khi chúng ta cũng đã từng ngăn cản người khác đến với Chúa bằng nhiều cách, dù không nói trực tiếp. Chẳng hạn chúng ta mỉa mai hoặc chê bai khiến người ta ngại đến với Chúa. Chúng ta phải học tập anh Batimê trong việc tín thác vào Chúa, như ca dao Việt Nam nói: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, Lòng tôi vẫn vững như kiềng ba chân”. Và “chiếc kiềng” đó là: Thỉnh cầu, Tín thác, Thực hành. Có thể gọi tắt là 3T cho dễ nhớ.
Nghe Batimê gào to, Đức Giêsu đứng lại và nói: “Gọi anh ta lại đây!” (Mc 10:49a). Người ta gọi anh mù và bảo: “Cứ yên tâm, đứng dậy, Ngài gọi anh đấy!” (Mc 10:49b). Nghe nói vậy, anh quá phấn khởi nên liền vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu. Ngài hỏi: “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (Mc 10:51a). Anh mù đáp: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được” (Mc 10:51b). Ngài nói: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (Mc 10:52).
Sự việc diễn ra nhanh chóng, ngắn gọn. Điều đáng lưu ý là Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh đến LÒNG TIN, nghĩa là “đức tin quan trọng hơn phép lạ”, nhưng người ta lại thường “khoái” phép lạ hơn tầm nhìn của đức tin. Nếu vậy, đó là chứng “mù đức tin”. Chứng mù tâm linh nguy hiểm hơn chứng mù thể lý. Do không hiểu rõ, không biết nhiều hay không chịu hiểu? Đó là điều cần tự xét mình về cách tin và mức độ tin vào Chúa Giêsu: “Quý vị tin thế nào thì được như vậy” (Mt 9:29).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin ban cho chúng con đức tin vững vàng trong mọi hoàn cảnh, xin mở con mắt đức tin để chúng con nhận biết Thánh Ý Ngài và biết chân thành chia sẻ nỗi đau của tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
__________________________________
(*) Hình ảnh con mắt thứ ba được thể hiện trên trán của các vị thần trong các tác phẩm điêu khắc cổ đại ở các đền chùa Phật giáo. Người ta tin rằng, con mắt nhìn thấu mọi điều đã được Thượng đế ban tặng cho các vị thần để họ có những năng lực siêu phàm nhìn thấu những vật vô hình. Theo đạo Cao đài, người tu hành khi đạt được “đạo pháp” sẽ có thêm con mắt thứ ba – gọi là “huệ nhãn”, có thể nhìn thấu cõi vô hình. Trong Yoga, việc luyện tập Marantha để có được một vài năng lực tâm linh thần bí như khai sáng được “con mắt thứ ba” mà người khác không có.
Người Ấn Độ thường chấm một điểm trên trán giữa hai con mắt để diễn tả con mắt thứ ba, đó là “thần nhãn”, có thể thấy những gì mà người trần mắt thịt vẫn nhìn mà không thể thấy được. Nhiều giả thuyết khác cho rằng, ngày xưa Adam và Eva đã phạm “thiên luật” nên tuyến yên (pituitary) và tuyến hạch (pineal, hình trái thông) nằm ở khoảng giữa hai con mắt đã dần bị hạn chế khả năng nhìn nhận ánh sáng.
Theo một số nghiên cứu khoa học, thông thường mỗi sinh vật đều có một “con mắt thứ ba” nằm ở trung tâm não, gọi là “tuyến tùng”. Nó cảm nhận giống như một con mắt vì tuyến tùng phản ứng lại với những thay đổi của ánh sáng. Mới đây người ta khám phá thấy mắt thường cũng có thể sản xuất được chất melatonin, làm cho tuyến tùng càng ít quan trọng hơn.
62. Xin cho được nhìn thấy
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Thánh kinh là một câu chuyện trở về nhà Chúa, Đấng hằng nóng lòng và kiên nhẫn đợi chờ loài người. Thường người ta không đánh giá được, cũng không quí trọng được sự vật mà người ta có, cho tới khi người ta mất đi. Người ta không đánh giá được quê hương, nhà cửa, ruộng vườn cho tới khi người ta phải rời bỏ như trong hoàn cảnh di cư, tị nạn. Bài trích sách ngôn sứ Giêrêmia hôm nay kể lại vị ngôn sứ hướng về ngày mà dân Ítraen sẽ từ cuộc lưu đầy trở về quê hương. Trong ngày giải thoát đó, Giêrêmia loan báo là người mù, người què và người than khóc sẽ tìm thấy niềm an ủi trong tình thương của Thiên Chúa. Bài trích thư gửi tín hữu Do thái là câu chuyện những người tội lỗi được máu con Thiên Chúa đổ ra để được phục hồi trong ơn bình an. Còn bài Phúc âm ghi lại việc Chúa chữa người mù Batimê.
Người mù thành Giêricô biết đã mất nhãn quan. Vì thế anh ta kêu van xin Chúa Giêsu thương xót. Càng bảo anh ta im đi thì anh ta lại càng kêu lớn tiếng: Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi (Mc 10:17). Người mù này xin đặc ân được khỏi bệnh mù trong khi bày tỏ đức tin. Tiếng kêu cấp cứu của anh ta đã khiến Chúa động lòng thương xót và hành động. Và rồi không những anh ta được điều anh ta xin là được phục hồi khỏi bệnh mù, anh ta còn được ân huệ thiêng liêng là trở nên môn đệ Chúa: Tức khắc anh ta thấy được và đi theo Người (Mc 10:52). Đọc Phúc âm ta thấy bất cứ khi nào Chúa Giêsu làm phép lạ, Người đều nhắc đến lòng tin. Tất cả những ai được ơn phép lạ đều có một điểm giống nhau là lòng tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa. Đức tin của người mù Batimê đã cứu chữa anh ta.
Người ta không cần phải mất mát hoàn toàn sự vật gì thiết yếu, mới cảm thấy luyến tiếc. Có ông linh mục kia bị đứt một mạch máu nối vào một phần tư của mắt trái, làm mờ mắt phải. Lúc đầu linh mục đó không trông thấy người qua lại bên phải. Đọc sách rất khó khăn vì mặt chữ bị chói loà khi ẩn khi hiện. Đọc một trang sách phải mất cả nửa giờ đồng hồ. Không lái xe và không dâng thánh lễ được trong cả tháng. Rất xuống tinh thần. Rồi theo định luật bù trừ của Đấng tạo dựng, những phần khác của thần kinh thị giác phải bù đắp lại cho phần đã mất. Với thời gian, linh mục đương sự đã có thể nhìn thấy rõ hơn, lái xe và dâng lễ được trong tâm tình cảm tạ đội ơn.
Từ ngữ mù loà được dùng tới ba mươi ba lần trong các Phúc âm, trong đó có mười hai lần bàn đến mù loà của tâm hồn hay mù loà thiêng liêng. Nếu bị mù loà về phương diện thiêng liêng mà không biết, người ta còn đáng thương hại hơn người mù trong Phúc âm. Người mù trong Phúc âm biết mình mù. Còn ta lại không biết mình đã bị mù quáng về phương diện thiêng liêng. Do đó ta không nhìn thấy ánh sáng chân lý, không nhìn thấy những khuyết điểm và tội lỗi cuả mình và không biết mình đang đi lầm đường lạc lối. Ta tự nhắm mắt lại trước những lời kêu gọi ăn năn sám hối. Ta làm ngơ trước những đau khổ của tha nhân trong nhiều trường hợp trong đời sống. Ta bỏ qua những dấu chỉ của thời đại, những biến cố xẩy ra trong vũ trụ, trong đời sống cá nhân như đau ốm, bệnh tật, tai nạn. Những biến cố đó có thể là những dấu chỉ mà Chúa muốn nói với ta điều gì đó. Phải chăng Chúa muốn ta thu dọn nhà tâm hồn hay Chúa muốn ta sửa sang lại đời sống nội tâm?
Vậy đâu là những căn do của bệnh mù loà thiêng liêng? Ghen tuông, kiêu căng, tự phụ, tham lam, nóng giận, hay những đam mê khác nhau, có thể khiến người ta bị mù quáng về phương diện thiêng liêng, hoặc bị mù quáng toàn diện hay bị mù phần nào đó. Nếu hướng chiều về đàng trái về một vài phương diện nào, khiến ngưởi ta bị mù về một vài phương diện đó mặc dù về phương diện khác, họ không bị mù.
Hôm nay ta cầu xin Chúa cho những người mù, xin Chúa làm giầu trí tưởng tượng và những giác quan khác của họ để họ có thể cảm nghiệm được những vẻ đẹp của công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Ta cũng xin Chúa tiếp tục soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia để họ có thể sáng chế ra những máy móc giúp cho người mù tự sinh tồn trong đời sống hằng ngày như hệ thống in và viết chữ Braille nổi cho họ đọc, như gậy điện tử giúp họ đi lại, máy quang tuyến giúp họ thấy được phần nào ánh sáng. Ta cũng cầu xin Chúa mở mắt thiêng liêng để ta có thể nhìn thấy ánh sáng chân lí. Nếu ta bị mù về phương diện nào đó trong đời sống, ta cầu xin Chúa chữa trị để ta có thể nhìn thấy những điều sai quấy của chính mình.
Lời cầu nguyện cho người mù loà:
Lạy Chúa Kitô là ánh sáng thế gian.
Xin tha thứ những lần
con coi nhãn quan thấy được là ngẫu nhiên.
Xin soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia
tìm ra phương thế giúp người mù được thấy.
Nếu bị bệnh mù loà thiêng liêng,
xin cho con được biết mình:
tạ ơn về những ưu điểm Chúa ban
và sửa đổi những khuyết điểm của con. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam