Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 62
Tổng truy cập: 1377093
NGUYỆN GIÚP CẦU THAY
Nguyện giúp cầu thay
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Cứ sự thường, bài đọc I Chúa nhật được chọn để chuẩn bị cho bài Tin Mừng. Nếu bài đọc I Chúa nhật XVII thường niên C, giới thiệu Abraham, con người của cầu nguyện, ông nài xin Thiên Chúa cách kiên trì, ông xin cho đến bao giờ được mới thôi (x. St 18,20-32), thì bài Tin mừng (Lc 11, 1-13) cho thấy Chúa Giêsu đang cầu nguyện cùng Chúa Cha, liền sau đó Người dạy các môn đệ cầu nguyện thể theo lời họ xin (x. Lc 11,5-8), và khuyên họ kiên trì cầu nguyện với niềm xác tín đầy tình con thảo với Cha trên trời: "Vì ai xin thì được, ai tìm thì gặp và ai gõ thì sẽ mở cho." (x. Lc 11,10)
Abraham được phụng vụ trình bày như là gương sáng về sự nguyện giúp cầu thay, ngay cả khi hành vi của ông có vấn đề. Với lòng hiếu khách, ông đã mời ba vị khách vào trại của ông. Một trong ba vị lặp đi lặp lại với Abraham và Sara lời Thiên Chúa hứa ban cho ông bà có con nối dõi tông đường, điều mà ông bà hằng khao khát (x. St 18, 1.10).
Họ là ba, tuy nhiên, trong khung cảnh của Chúa nhật tuần trước, đúng hơn Abraham nói với họ như thể họ là một: vì thiên thần của Chúa (theo Kinh Thánh là những sứ giả được Thiên Chúa ủy thác cho một sứ vụ qua tên riêng của họ), có lúc nhiều, có khi lại chỉ là một.
Hôm nay chúng ta tiếp tục sự kiện này khi hai người trong số họ quyết định đi đến Sôđôma trong lúc Abraham đang ở trước mặt người thứ ba, là Thiên Chúa. Các cuộc thương lượng giữa Thiên Chúa với Abraham liên quan đến dân thành Sôđôma, có Lót, cháu trai của ông và gia đình ông. "Khi những người Sôđôma độc ác và tội lỗi chống lại Thiên Chúa." (St 13,13) Bạo lực của họ "kêu thấu" tới Chúa và Chúa nhìn họ với cái nhìn: tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu, vì Thiên Chúa đầy lòng từ bi và hay thương xót.
Trong cuộc thương lượng, Abraham đặt mình vào vị trí của người công chính và Thiên Chúa là người đáng trách: "Há Ðấng phán xét tất cả gian trần lại không theo đường công lý?" (St 18, 25). Thiên Chúa vẫn giữ một thái độ mà Abraham cho là bất công. Con người có thể lượng giá theo cái biết phiến diện của mình. Thiên Chúa thì không như thế, Ngài phán xét cách công minh.
Vì thiếu lòng tin nên Abraham đã mặc cả với Chúa đến mười người công chính (St 18,31). Nếu như Thiên Chúa quyết định kết án chín người vô tội, chín người công chính trong số các cư dân thành Sôđôma.... Kinh Thánh do miệng các tiên tri cho chúng ta câu trả lời: không, Thiên Chúa không hành động như vậy. "Rảo khắp các phố phường Giêrusalem mà nhìn cho tỏ, hãy tìm nơi các công trường xem có kiếm được một người, một người mà thôi biết giữ công lý, biết tìm sự thật, để Ta tha tội cho thành, sấm của Đức Chúa."(Gr 5, 1)
Bấy giờ ở Sôđôma đã có một người công chính là ông Lót. Nhưng sự hiện diện của ông không ngăn cản được án phạt giáng xuống cả thành. Thậm chí nếu cứu vớt cá nhân ông, và cả gia đình ông, thì người công chính này cũng không cứu được toàn dân trong thành. Lý do ông chỉ là khách ngoại kiều. Nhưng Thiên Chúa là Đấng hay tha thứ, Ngài sẵn sàng tha thứ tội chết cho toàn dân nếu ăn năn hối cải.
Tin tưởng vào Thiên Chúa và tha thiết nguyện cầu. Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta, nên Người dạy chúng ta. Người đã thực hành điều Người dạy. Vào những thời điểm quan trọng trong đời như: chịu phép rửa (Lc 3,21), biến hình (Lc 9,29), hấp hối trong vườn cây dầu (Lc 22, 41), Chúa thường cầu nguyện. Người không đặt vấn nạn, cũng không phát biểu những công thức cao siêu huyền bí, nhưng Người đã nói cách đơn sơ: "Cha ơi..." và tiếp đó Người dạy kinh Lạy Cha (x. Lc 11,2-4). Người bảo chúng ta khi xin cùng Thiên Chúa, phải đặt mình vào hoàn cảnh của một người cha phải đáp ứng các nhu cầu của con cái mình, chúng đang đói, chúng cần bánh ăn, cho dù phải năn nỉ, nài van, thậm trí bị từ chối: " Xin đừng quấy rầy tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi". Nhưng khi đã nghe rõ tiếng van nài của người cha vì còn cái mình, ông bạn ấy sẽ trỗi dậy đáp lời!
Chúng ta là những kẻ xấu còn đối xử với nhau như thế, phương chi Thiên Chúa là Đấng tốt lành, chúng ta phải tin tưởng vào Ngài, vì Ngài hằng yêu thương, nâng đỡ chúng ta và làm cho chúng ta lớn mạnh khi chúng ta cầu xin. Thiên Chúa đã ngưng trừng phạt Sođôma nhờ số ít những người công chính vì Abraham nài xin (x. St 18,23-32).
Thế giới ngày hôm nay rất cần đến lòng thương xót, thứ tha, nhất là để cứu độ của Thiên Chúa. Ơn cứu độ được thực hiện nơi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Người là Đấng công chính duy nhất giữa muôn người tội lỗi: "Người đã ân xá cho ta mọi điều sa ngã, thủ tiêu văn khế tội nợ của ta dựa trên lệnh chỉ cáo tội ta, và Người hủy bỏ đi, đóng đinh nó vào thập giá." (Col 2. 14)
Ơn cứu độ là có thể vì Đức Giêsu Kitô không phải là người xa lạ. Người trở nên nguyên nhân ơn cứu độ đời đời cho chúng ta. Thánh Têrêxa đã mời gọi các chị em của mình như thế này: "Chúng ta cần phải van xin Chúa giải thoát chúng ta mãi mãi khỏi hết mọi hiểm nguy và xin cất đi mọi sự dữ. Và cho dù lòng ước ao của chúng ta còn bất toàn đi nữa, chúng ta cũng hãy kiên trì nhắc đi nhắc lại lời van xin đó. Ðừng lo sẽ xin xỏ quá đáng, xét vì chúng ta đang ngỏ lời với Ðấng Toàn năng mà? (Camino 60).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã dạy chúng con cầu nguyện và cho chúng ta tham dự vào lời cầu nguyện của Người. Abba, lạy Cha, lạy Chúa Thánh Thần, xin cầu thay nguyện giúp chúng con và toàn thế giới. Amen.
56. Hãy xin thì sẽ được
Gp Vĩnh Long
1. Hướng về Đấng Tối Cao, xin những ơn cần thiết trong cuộc sống đó là điều chúng ta thường gặp nơi tín đồ các tôn giáo, và ngay cả những người cho rằng mình là vô thần nhưng họ cũng có những biểu hiện như thế. Tuy nhiên, chỉ nơi Kitô giáo, qua lời dạy cầu nguyện của Đức Giêsu, kinh Lạy Cha (Mt 6,9-13// Lc 11,1-3), cho chúng ta thấy Thiên Chúa chính là Đấng Tối Cao, nhưng lại rất yêu thương, gần gũi với con người và qua lời kinh nầy, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta phải cầu xin như thế nào để có thể đẹp lòng Thiên Chúa.
2. Lời kinh “Lạy Cha”, theo thánh Mátthêu thì được ghi đầy đủ hơn, đó là lời kinh mà chúng ta vẫn thường đọc, còn trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe theo thánh Luca, ngài cũng ghi lại, tuy ngắn gọn hơn nhưng vẫn giữ được những nét cơ bản của lời kinh.
“Lạy Cha”, “Abba”, tên của lời kinh cũng là cụm từ mở đầu cho lời kinh. “Abba”, nguyên ngữ Do thái (Aram) là tiếng của đứa bé gọi cha của nó, giống như tiếng Việt: Baba, một lời gọi rất thân mật. Không có lời nguyện nào trong Cựu Ước dám gọi Thiên Chúa là Cha, Thiên Chúa dường như rất xa cách với con người. Thời Tân Ước, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha và dạy chúng ta cũng kêu xin như thế. Như vậy, đây là lời dạy, mạc khải quan trọng, tuy Thiên Chúa là Đấng cao sang, quyền phép, nhưng Ngài rất yêu thương rất gần gũi với con người.
3. Chắc hẳn người Cha luôn biết nhu cầu của người con, nhưng Cha cũng muốn con có một tương quan mật thiết với Cha qua lời cầu xin. Lời cầu xin càng tha thiết chừng nào thì ơn được lãnh nhận càng được trân trọng chừng ấy. Theo Luca lời kinh rất ngắn gọn cho nên những điều được trình bầy trong đó có thể nói là những điều mà Kitô hữu quan tâm nhất:
Đối với Chúa, làm sao cho người ta được biết Chúa “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển “; làm sao cho nhiều người gia nhập Nước Chúa “triều đại Cha mau đến “.
Đối với chính bản thân mình: có lương thực hằng ngày tiêu biểu cho những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, được Cha tha thứ tội lỗi và mình cũng biết tha thứ cho người khác, đồng thời cũng xin đừng để sa chước cám dỗ.
Chúng ta thường cầu nguyện cho những nhu cầu của bản thân mình, điều nầy đúng chứ không sai, nhưng chưa đủ. Người con hiếu thảo cần phải cầu xin sao cho đẹp lòng Cha của mình trước, rồi mới đến những nhu cầu của mình. Chính Đức Giêsu cũng đã dạy “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
4. Một điều mà chúng ta cũng có thể nhận thấy qua lời kinh nầy đó là tâm tình rộng mở, đón nhận tất cả những ai là con cái Thiên Chúa thì cũng là anh em với nhau. Mátthêu ghi rõ “Lạy Cha chúng con” (Mt 6,9). Và cả Matthêu cũng như Luca đều ghi trong những lời xin là “cho chúng con”, chứ không là “cho con”. Cầu xin trong tâm tình Thiên Chúa là Cha chung và tất cả mọi người đều là anh em với nhau.
5. Lời Chúa hôm nay cũng dạy chúng ta cách cầu nguyện sao để được Thiên Chúa nhận lời. Đó là cầu nguyện cách kiên trì. Để minh hoạ, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn về người bạn quấy rầy. Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do: cho để khỏi bị quấy rầy nữa; cho vì tình bạn. Theo cách diễn tả của dụ ngôn thì người đó đã làm vì lý do thứ nhất. Nếu làm vì lý do thứ hai thì việc cho sẽ có ý nghĩa hơn. Nhưng dù sao thì cuối cùng anh bạn đứng ngoài đã đạt được điều mình xin, và lý do là nhờ anh kiên trì.
Lắm khi trong cuộc sống của chúng ta thấy mình cầu nguyện mãi mà Chúa chưa ban. Có khi Chúa đã ban bằng một phương thức khác, có khi thấy việc ban không có lợi cho chúng ta, có khi Ngài muốn thử thách lòng tin của chúng ta… Nếu lời cầu xin đó đẹp lòng Thiên Chúa, chắc hẳn Ngài sẽ ban cho ta như lời Ngài hứa “hãy xin thì sẽ được”. Nhưng trước khi ban, có khi Ngài xem ta có kiên trì, tha thiết với điều mình xin hay không? Hạnh các thánh có ghi lại, Bà Mônica đã cầu nguyện khóc lóc cách liên lỉ mười sáu năm trời, kết quả Augustinô, con bà được ơn trở lại và Augustinô lại là một vị thánh lớn của Giáo Hội.
6. Là người con hiếu thảo của Cha trên trời, chúng ta phải coi việc cầu nguyện là một vấn đề không thể thiếu trong đời sống. Cầu nguyện để tạo một liên hệ Cha – con, để múc lấy sức sống từ Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng lời cầu xin của ta sẽ được Thiên Chúa nhậm lời nếu ta biết kiên trì, tin tưởng “hãy xin thì sẽ được”; nhưng trên hết xin cho mọi người chúng ta biết vâng theo thánh ý Thiên Chúa, biết ước muốn điều đẹp lòng Ngài.
57. Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện
(Suy niệm của Lm Uyen Nguyen)
1. Cầu nguyện là hiện tượng ‘tâm linh’.
Nét đặc trưng làm người, dễ thấy bộc lộ và phát hiện. ‘Tâm linh’ quy hướng con người về thế giới huyền linh vượt ngoài khả năng vũ trụ. Tâm linh được phú bẩm, là nguyên si như hạt giống hay như lời Đức Giêsu nói về nén bạc,‘mỗi người một nén’ (x.Lc.19,13). Có kẻ mang chôn giấu, có kẻ đem đi sinh lợi. Tâm linh thể hiện không gì đặc thù hơn là cầu nguyện. Cầu nguyện, với tư thế trang nghiêm, biểu lộ trong tưởng nghĩ hay bằng môi miệng thầm thĩ, có khi nói lớn tiếng.
Nay có môn đệ cả dám xin Thầy dạy cầu nguyện ‘như Gioan tiền hô đã dạy môn đệ ông’. Dạy cầu nguyện ư? Có thể là giúp tâm linh thức tỉnh. Có mà chưa sử dụng xem là chưa thông hoặc chưa đánh thức. Đón nhận lời xin, Đức Giêsu dạy họ cầu nguyện với những lời khúc chiết, đủ, gọn, tự phát đã trở nên nguyên mẫu bất biến: kinh Lạy Cha.
2. Đức Giêsu dạy ‘kinh Lạy Cha’.
Kinh Lạy Cha, mà Đức Giêsu dạy môn đệ Người, bộc lộ tâm tình cả hai thành phần, tâm tình của TC như của Đức Giêsu vị Thầy trên đường lên Giêrusalem thực hiện cứu độ, kế đến là của con người đáp lại.
Những tâm tình ấy được biểu lộ ngay khởi đầu trong hai tiếng xưng hô: Lay Cha. Lạy Cha, lối xưng hô rất quen thuộc, rất đời thường và cũng rất mật thiết. Lạy Cha trước hết bày tỏ sự hiểu biết Đấng sinh thành, còn là sự nhìn nhận, đồng thời bộc lộ tình Thiên Chúa với đàn con do mình tác thành. Vì tiếng Lạy Cha, là cách xưng hô thông dụng và gần gủi giữa con người trần thế trong mối quan hệ huyết thống gia đình. Âm vang nghe tình thấm đậm giữa kẻ sinh thành và những người được sinh thành. Lời đâu tiên trên môi miệng em bé tập nói bi bô ‘Cha, Cha’! Với người sinh ra, khi nghe âm vang ấy, không khỏi thích thú vui mừng. Với người được sinh ra, thốt lên âm vang ấy, để diễn tả đầu đời sự cảm nhận Đấng sinh thành, tuy còn sơ đẳng mờ mịt. Điều đó vẫn nhận chân được mối quan hệ hữu cơ giữa nguyên lý và hệ quả.
Với Đức Giêsu, khi dạy cho các môn đệ kinh Lạy Cha, Người cũng muốn thực tâm dạy cho họ biết họ thật là những người được Người sinh thành như Kinh Tin Kinh đã tuyên tín: “Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.
3. Năm điều ‘uớc-nguyện-xin’ kinh Lạy Cha.
Năm điều để xin gồm hai nhóm đối tượng: Thiên Chúa và toàn thể nhân loại anh em.
Những điều dành cho Thiên Chúa trước hết và ưu tiên! Với Luca chỉ cần hai nội dung quy về Thiên Chúa: Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến (c.2). Hai ý cũng đủ diễn tả tâm tình ngoan ngùy của những người con thảo hiếu đã nhậnbiết, trên hết và trước hết, đâu là Đấng sinh dựng. Bằng lý trí dần dà đàu sâu rông rải hiểu biết trong sáng hơn. Với con tim, bày tỏ tâm tình sâu sắc trọng kính mến yêu. Với tình cảm ý chí đưa tâm quyết đền đền ơn đáp nghĩa.
Thế nên, là con, để diễn đạt thảo hiếu tốt nhất, tiên thiên mong ước những điều cao cả hướng về Cha mỗi dịp cầu nguyện. Đối lại những điều ấy cũng mang lại hữu ích cho chính mình. Vì hai điều ước ấy cũng chinh là những điều mà Thiên Chúa mong ước cho chính mình vì con người trần. Biết rằng Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối vô song, hơn hẳn cha mẹ cõi đời, Ngài không thể quên ai, để mặc bất cứ gì Ngài sinh dựng. Cũng như cõi trần, không một người cha nào có thể quên bất kỳ đứa con nào do mình sinh ra. Với Thiên Chúa nỗi nhớ của Ngài phải tuyệt đối. Tuy nhiên, phần con người trong thế giới vật chất xa cách, không hẳn tất cả đều có thể dễ dàng và trực giác quy về nhìn biết Thiên Chúa và phận vụ mình để chu toàn.
Thứ đến là ba điều cầu xin cho chung toàn thể, cũng bao gồm cho mỗi người. Ở đây cũng vậy, với Luca, xin ba điều ước là đủ: cho hết mọi người ai cũng đủ của ăn hằng ngày, được tha thứ lỗi lầm trót phạm bởi hành vi ám muội trong các mối tương quan, sau hết được gìn giữ bênh vực khỏi cám dỗ ác thần.
Những điều ước xin như thế chia hai nhóm, duy một điều dành cho phần xác, hai điều dành cho tâm linh. Phần xác để hoàn tất cuộc lữ hành. Tâm linh để đạt được mong ước hạnh phúc bất diệt. ‘Lối-xin’ như vậy xem ra coi trọng và đặt nặng phần tâm linh hơn thể xác. Vậy đây dạy các điều chỉ phải xin ít oi như thế thấy có giống với những gì mà lệnh truyền giữ cho các môn đệ được sai đi rao giảng trước đây một khoảng: không mang gì, ai dọn cho gì dùng thứ đó, không lựa chọn thay đổi nơi ăn chốn ở!? Có phải bởi tại các môn đệ Đức Giêsu là những người phải nên giống Người, giống tinh thần từ bỏ, giống hình ảnh là những người phản ảnh đời sống nước trời ngay hôm nay và thực thụ ngày mai? Thực tế, không sao quên được hình ảnh trải nghiệm từ cuộc đời của những người đã sống trong trần gian, nay thăng lên vinh quang mai giáng hạ tồi tệ. Như cuộc đời vị quan cũng là nhà thơ lỗi lạc Nguyễn Công Trứ chẳng hạn! Ông trải nghiệm thật thấm thía đời, đã viết nên những vần thơ đính kèm nguyên tắc sống bất hủ, như chủ trương sướng khổ là tùy vào: “Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc”, hay vang danh với bài thơ ‘Hàn nho phong vị phú’, rời quan sang về hưu làng, cảm nghiệm cảnh hàn vi, chán chê thời huy hoàng thu nhặt, trở về thích thú với cảnh thanh bần:“Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch... Đêm năm canh an giấc ngáy pho pho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ”.
Biết rằng, dù dạy cho môn đệ xin những điều ít oi thế, Đức Giêsu không hề muốn có sự nghèo mạc cho bất cứ ai! mà chủ đích con người làm sao để chiếm hữu cuộc sống là hình ành bất tận trong cõi trường sinh và hạnh phúc Nước Trời.
4. Lời dạy chí tình ‘hãy xin’.
Sau cùng, khi truyền dạy ‘biểu thức’ dành cho ‘mỗi khi’ cầu nguyện, Đức Giêsu nhắc nhớ việc hãy xin: ‘Anh em cứ xin’ (c.9). Là thế nào? Cầu xin với vài phong cách cần thiết.
- Năng cầu xin và can đảm cầu xin! Bởi ngay các tông đồ và môn đệ xưa, không thấy họ đã có thói quen thực hiện như vậy, thường thấy tán gẫu, tranh cải hoặc mê ngủ. Hãy xin để biết Thiên Chúa là Cha trên trời đã muốn ban ơn thế nào vì yêu thương dào dạt?
- Kiên trì và nhẫn nại xin! vì ‘điếu được ban’ còn liên quan quan đến bao hệ lụy khác. Đã xin mà chưa gặp được không có nghĩa là không cho! Vì có biết bao điều, để hiểu được, còn phải nhờ vào ơn mạc khải soi sáng? Chẳng hạng, lắm khi điều xin chưa có lại có được điều chẳng hề xin. Khi này cần đón nhận trong khiêm tốn đợi chờ.
- Khi cầu xin, cầu xin với tâm ý chân thật, khiêm nhường và tin tưởng phó thác! Đây có là những yếu tố đầy mặc cả cho sự thành bại khi cầu xin?
Chắc rằng Thiên Chúa hằng muốn và kêu gọi con người cùng Ngài hưởng phúc trường sinh nước trời. Dù con người không hề có ai xin, Ngài vẫn trường cữu mong ước. Ý muốn này được bộc lộ qua dấu chỉ, biểu lộ các dấu chỉ ấy cách minh nhiên không che dấu dù quá khứ hay hiện tại. Thế, vì Ngài luôn là Đấng quang minh chính đại và là Thiên Chúa tình yêu trung tín.
Nhìn lại. Với kinh Lạy Cha, Đức Giêsu trao cho các môn đệ ‘biểu thức’ cầu nguyện thích hợp cho cộng đoàn vào thời buổi Tân Ước. Biểu thức có cấu trúc định thức sẵn. Những điều xin mang đến hạnh phúc vừa ý đôi đàng, không thừa không thiếu. Tâm tình cầu xin là cần thiết. Vậy mỗi khi cầu xin, cầu xin với hay ngoài khinh Lạy Cha, tâm tình cầu xin cần được gắn kết mật thiết với tâm tình Đức Giêsu. Khi đó việc cầu xin sẽ mang lại cho người điều không thể không thỏa đáng hy vọng.
Lạy Thầy, trước thánh nhan Thầy, con dâng lời cầu xin. Điều gì chưa phù hợp, xin hãy tha thứ, Vì Danh Cha cả sáng, xin cho con luôn bình an sống thuận theo thánh ý Người.
58. Lời kinh tuyệt vời…
Gp Vĩnh Long
Anh chị em thân mến,
Một người bên lương, hiền lành tử tế nữa, lại rất thích đạo Công giáo, anh ta nói: tôi rất thích đạo Công giáo, nhưng…tôi sợ đạo Công giáo cái vụ…đọc kinh quá! Bên Phật giáo, thì ớn… vụ tụng kinh; nhưng bên Công giáo, lại sợ…sợ vụ đọc kinh nữa. Xem ra cũng đúng, nhưng đàng khác cũng đúng nữa đó là: anh ta chưa hiểu gì về đạo Công giáo cả…. Người Tin Lành cũng chê trách người Công giáo về chuyện đọc kinh, vì họ chỉ chú trọng đọc và học hỏi Kinh Thánh mà thôi. Ta phải hiểu Lời kinh, hay việc cầu nguyện như thế nào? Bài TM hôm nay muốn ta chia sẻ về chủ đề này…
a/. Kinh nguyện (hay đọc kinh) là hành vi sáng suốt và cần thiết của con người: Chúa nói: “ai trong anh em nhờ lo lắng mà có thể kéo dài đời mình thêm ra được một gang một tấc không?” (Mt 6, 27) “không có Thầy, chúng con không thể làm được điều gì.” Đúng như lời Chúa nói: trên đời này, con người không tự mình lo cho mình được; luôn luôn con người cần ơn sủng của Thiên Chúa, vì Người là sự sống, là hạnh phúc của nhân loại… Nếu con người không cầu xin Thiên Chúa, làm sao Thiên Chúa có thể ban ơn, có thể yểm trợ cho con người? Có người nói: Nếu Thiên Chúa biết nhu cầu đời sống của chúng ta, tại sao chúng ta phải cầu nguyện? – Tại vì chính Chúa dạy chúng ta cầu nguyện, như lời Chúa nói: Ai xin thì sẽ được, ai gõ cửa sẽ mở cho..(Lc 11, 9)
b/. Kinh nguyện là thể hiện tấm lòng của người con:
Thiên Chúa là Cha tình thương, thực ra nếu ta không cầu xin, Thiên Chúa vẫn ban ơn cần thiết cho ta. Hình ảnh một người con trong gia đình mà tôi muốn gợi lên: đứa con nào trong các con, sẽ làm đẹp lòng cha mẹ hơn, có phải là đứa con luôn nhớ đến cha mẹ, luôn nài xin, luôn quấn quít bên cha mẹ không? Có phải đứa con tự thấy mình không lo cho mình được, chỉ biết trông cậy nơi cha mẹ không? Có phải là đứa con luôn nhận ra, trên đời này không ai đáng tin hơn chính cha mình không? Tình yêu sẽ là điều chính yếu thể hiện tình cảm của người con. Thật vậy, nếu chúng ta luôn sống trong tâm tình của một người con luôn muốn nói lên tình hiếu thảo với Thiên Chúa là cha của mình, thì còn gì hơn? Tâm tình đó chính là kinh nguyện đó…
c/. Kinh nguyện chính là hình thức, là phương tiện dẫn người kitô hữu đến gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của mình. Đến một lúc nào đó trong cuộc sống của người kitô hữu, kinh đọc bên ngoài không còn là phương tiện tốt nữa, nó sẽ được thay thế bằng tâm nguyện, hoặc bằng việc chiêm nguyện. Đó là những phương tiện, là lời kinh tối hảo của người kitô hữu, của các thánh. Trên cơ bản, tất cả những mẫu kinh đó vẫn được gọi là kinh nguyện Kitô giáo. Người ta thường hiểu lầm kinh nguyện Kitô giáo chỉ thu hẹp ở một số lời kinh được in ra trên giấy, hay trong sách vở. Thực tế, đó chỉ là số ít và cũng không phong phú. Ngoài ra, chúng ta cũng chưa từng thấy vị thánh nào coi thường việc cầu nguyện cả; mà phải nói ngược lại, các ngài còn đề cao và còn kêu gọi mọi người đi đến với những lời kinh đích thật, những lời kinh phong phú phát xuất tự đáy tâm hồn mình nữa muốn dâng lên TC.
d/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện với Chúa Cha, để xin cho mọi nhu cầu của con người. Lâu nay ta hiểu thế nào? Ta có xem cầu nguyện là điều không thể thiếu cho linh hồn, như cơm bánh cần cho thân xác không? Ta có xem cầu nguyện là phương tiện dẫn đưa ta tới với Chúa Cha như lời Chúa Giêsu dạy? Ta có xem cầu nguyện là cách tỏ tình rất chân thật với Thiên Chúa là Người Cha dạt dào tình cảm, dù Người Cha đó là Vua trời đất, đầy uy quyền, là Chúa mọi loài, nhưng lại sẵn sàng lắng nghe để yêu thương chúng ta không?
59. Chú giải của Lm Vũ Phan Long
LỜI KINH CỦA CHÚA - HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA
Bởi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa hơn bất cứ ai trước Người.
1.- Ngữ cảnh
Trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem, tác giả Luca ghép vào một giai thoại trong đó Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện, vì các ông xin Người.
Hình thức của Kinh Lạy Cha ăn khớp với ngữ cảnh này, vì bản văn được đặt sau lời kinh Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha (10,21-22), cũng như sau “ví dụ” của Người về tình thương đối với người thân cận (10,29-37) và việc Người nhấn mạnh trên việc lắng nghe Lời như điều cần thiết duy nhất (10,38-42). Toàn khối các giai thoại này giới thiệu cho biết thái độ và những tâm tình người Kitô hữu phải có đối với Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh (11,1);
2) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (11,2-4);
3) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (11,5-13):
- Dụ ngôn Người bạn quấy rầy (cc. 5-8),
- Sáu khẳng định (cc. 9-10),
- Dụ ngôn Người cha và đứa con (cc. 11-13).
3.- Vài điểm chú giải
- Lạy Cha (2): Tác giả chỉ dùng hô-cách Hy-lạp đơn giản: pater (x. 10,21), tương đương với từ A-ram ’abbâ’. Do chỗ từ này được lưu giữ trong Mc 14,36 (x. Gl 4,6; Rm 8,15), có thể cho rằng kiểu thưa gửi trong bản văn Lc thì “gốc” hơn kiểu trong Mt (với công thức “Lạy Cha chúng con, Đấng ngự trên trời”).
Một số tác giả như Kittel, Jeremias và Marchel nghĩ rằng đây rất có thể là một từ ngữ của các em bé (G. Kittel, VAbba/, GLNT, vol. I, col. 15-18; J. Jeremias, Abba. Studien zu neutestamentlichen Theologie und Zeitgeschichte (Gưttingen 1966) 15-67; W. Marchel, Abba, Père (Roma 1963, 1971). Còn Pitta thì cho rằng không phải chỉ có các em bé mới dùng từ này mà thưa với cha, nhưng cả người lớn cũng dùng để ngỏ lời với cha (A. Pitta, Lettera ai Romani. Nuova versione, introduzione e commento (I Libri biblici – Nuovo Testamento 6; Figlie di San Paolo; Milano 2001) 298.). Dù sao, vào thế kỷ I, từ này không chỉ được dành cho trẻ em.
Gọi Thiên Chúa là “Cha” không phải là chuyện lạ lùng. Danh xưng “cha” đã có nơi các tôn giáo rất khác nhau, từ dạng thô sơ nhất đến dạng phát triển nhất, của người Hy-lạp, Rô-ma và Sê-mít. Nhưng điều lạ là sử dụng một danh xưng thân mật để thưa với Thiên Chúa. Theo các nghiên cứu của Jeremias và Marchel, ’abbâ’ là một danh xưng thân mật, nên không bao giờ được người Do-thái dùng mà thưa với Thiên Chúa. Đôi khi, cũng rất hiếm, từ này được dùng để nói về Thiên Chúa, chứ không bao giờ để thưa với Thiên Chúa. Và ngay cả nói về Thiên Chúa, các bản Targumim (= Bản dịch và diễn giải) cũng rất ngại áp dụng danh hiệu “cha” cho Ngài. Ngược lại, theo chứng từ của Mc 14,36, được củng cố gián tiếp bởi Gl 4,6, Đức Giêsu là người đầu tiên thưa với Thiên Chúa bằng tiếng gọi thân mật Abba, và như thế Người tỏ cho thấy quan hệ thân tình như là người con với Thiên Chúa, một thứ quan hệ kiểu mới mẻ và duy nhất, vô song (Cf. Jeremias, Abba, 58-67). Quan hệ này được diễn tả rõ ràng trong một vài bản văn Tin Mừng, đặc biệt trong Mt 11,27 // Lc 10,22. Tin Mừng IV triển khai các phương diện khác nhau của quan hệ hỗ tương này, một quan hệ được vén mở cho thấy không những bằng các lời nói, mà hơn nữa còn bằng công trình chung giữa Chúa Cha và Chúa Con; và công trình chung này đạt tới đỉnh cao khi Đức Giêsu hiến mình trên Núi Sọ. Tin Mừng làm chứng về hai điều: 1) Quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa là quan hệ có một không hai, không thể so sánh với bất cứ kiểu tương quan nào; quan hệ này hoàn hảo, thâm sâu, hỗ tương; theo nghĩa này, quan hệ này chuyên nhất (x. Ga 10,30); 2) Tuy nhiên, theo một nghĩa khác, quan hệ này không độc chiếm, nhưng lại có khả năng thông ban, thông dự vào (x. Ga 6,57; 10,27-28). Đức Giêsu đến chỉ nhắm một mục tiêu là đưa loài người vào trong tương quan cha con với Thiên Chúa. Và bởi vì quan hệ này không phải là một tương quan bên ngoài như một liên hệ pháp lý, mà là một thực tại thâm sâu, người ta không thể thông dự vào đó nếu không được một sự thông truyền tinh thần. Vậy toàn thể cuộc sống của Đức Giêsu, sứ vụ, cái chết, sự sống lại của Người chỉ có một mục đích là thông ban Thánh Thần trong tư cách là Thần Khí của Con (x. Gl 4,6). Quả thật, Đức Giêsu là người đầu tiên cầu nguyện với Thiên Chúa bằng danh hiệu này. Nhưng bây giờ, nhờ Thần Khí của Con, mỗi tín hữu cũng có thể làm như thế: là con (x. Gl 3,26; 4,6.7), người tín hữu thông dự vào lời cầu nguyện của Chúa Con.
- xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển (2): dịch sát là “Ước gì Danh Cha được hiển thánh”. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, câu này không có nghĩa là Thiên Chúa phải bận tâm làm cho loài người coi Danh của Ngài là thánh và không làm ô nhục Danh Ngài. Câu này có nghĩa là chính Thiên Chúa phải thánh hoá Danh Ngài; chính Ngài phải hành động cách nào để loài người nhận biết và tuyên xưng đúng như Tên Ngài, tức là như Thiên Chúa và như Cha. Như thế, là xin Thiên Chúa mạc khải bản thân Ngài ra vĩnh viễn và cho người ta được thấy Ngài và đến được với Ngài cách chắc chắn.
-[xin làm cho] Triều Đại Cha mau đến (2): Đây là nội dung chính của lời Đức Giêsu loan báo. Người loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa, về quyền chúa tể của Thiên Chúa (4,43; 8,1; 10,9.11): Thiên Chúa là Chúa Tể duy nhất và tốt lành, sẽ thực hiện công khai vương quyền của Ngài. Lời xin này cầu mong mau đến lúc Thiên Chúa sẽ hiển trị trên tất cả mọi sự cách công khai và hữu hình; Đấng là Cha sẽ là Chúa Tể duy nhất.
- ngày nào có lương thực ngày ấy (3): dịch sát là “Xin ban cho chúng con mỗi ngày (to kath’ hêmeran)”, hiểu theo nghĩa phân phối.
- xin tha tội (4): Tác giả Lc đã thay từ opheilêmata, “các món nợ”, bằng hamartias, “các tội”, có lẽ để cho độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại dễ hiểu lời xin này hơn.
- bạn (5): Từ ngữ philos được dùng nhiều lần khiến chúng ta nhớ đến bối cảnh là lòng hiếu khách của người dân Cận Đông. “Bạn” vừa có nghĩa là người láng giềng và người khách.
- anh ta cứ lì ra đó (8): Anaideia, “sự trâng tráo, lì lợm”. Có tác giả nghĩ rằng từ này áp dụng cho người bạn bị quấy rầy, nên phải dịch là “thể diện” (Xem Bản dịch Kinh Thánh Tân Ước của Nhóm Phiên Dịch CGKPV 1995). Nhưng giải thích như thế không đúng, vì: cả câu 8 dịch sát là: “dẫu anh không dậy để cho người này (autô) vì là bạn của người này (autou), thì cũng vì sự lì lợm của người này (autou), anh sẽ dậy để cho người này (autô) tất cả những gì người này cần”. Bởi vì đại từ sở hữu autô và tính từ sở hữu autou (Ở chủ-cách là autos) được dùng để chỉ người đến quấy rầy, nên phải hiểu anaideia áp dụng cho người quấy rầy.
- tất cả những gì anh ta cần (8): nghĩa là không phải chỉ cho những gì anh ta xin mà thôi.
- anh em cứ xin thì sẽ được (9): Đây là một thái bị động thay tên Thiên Chúa, nên có nghĩa là: “Anh em cứ xin, thì sẽ được Thiên Chúa ban cho”.
- cứ tìm thì sẽ thấy (9): Do câu này song song với câu trên, ta hiểu là “sẽ thấy, với sự trợ giúp của Thiên Chúa”.
- thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó (11): Hiểu là có sự giống nhau về bề ngoài giữa con cá và con rắn. Thỉnh thoảng các ngư phủ trên Hồ Ghennêxarét dùng cá nhỏ mà câu rắn nước.
- xin trứng lại cho nó bò cạp (12): Một con bò cạp cuộn càng và đuôi lại thì giống với một quả trứng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh (1)
Trước mắt các môn đệ, hẳn là Đức Giêsu xuất hiện ra như là vị thầy về cầu nguyện. Còn trước mặt Người, các ông quả là những người đang chập chững tập cầu nguyện. Do đó, các ông đã xin Người dạy cầu nguyện. Đàng khác, vào thời Đức Giêsu, các nhóm tôn giáo được phân biệt nhờ có một kiểu cầu nguyện riêng. Lời xin của các môn đệ Đức Giêsu cho thấy các ông ý thức mình là một cộng đoàn.
* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (2-4)
Đức Giêsu đã ban cho các ông bản văn một kiểu mẫu cầu nguyện. Điều này không có nghĩa là các ông phải luôn luôn dùng những lời này mà thôi. Nhưng với người nào dùng lời kinh này, người ấy được xác định cho biết bầu khí phải quan tâm khi cầu nguyện và được nhắc đến những lời thỉnh cầu phải coi là quan trọng nhất.
Trong lời kinh, chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa và trình cho Ngài các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thấy Ngài và tự mình không thể biết là Ngài đang tương quan với chúng ta thế nào. Ngài vô hình, xa cách, rất lạ với ta, ta không thể hiểu Ngài và khám phá Ngài cặn kẽ. Trong cầu nguyện, quan trọng nhất là biết bản chất của tương quan giữa Thiên Chúa và loài người. Phải chăng Thiên Chúa là một Chúa tể quyền lực, có thể nhậm lời ta cầu xin, nhưng Ngài không hề quan tâm đến ta? Lời xin đầu tiên và căn bản nhận được câu trả lời nơi lời đầu tiên của Đức Giêsu: chúng ta phải ngỏ lời với Thiên Chúa như với một “Người Cha”. Thiên Chúa không phải là một Chúa tể xa cách, xa lạ, quyền lực, không muốn biết gì về chúng ta. Ngài đã giao tiếp với chúng ta với mối quan tâm, tình yêu và sự chăm sóc, như một người cha đích thực.
Đức Giêsu đã phác ra những nét chính để dạy chúng ta biết phải cầu nguyện với Thiên Chúa thế nào. Theo kiểu mẫu của Người, chúng ta thấy có hai khối lời cầu xin. Khối thứ nhất liên hệ trực tiếp đến Thiên Chúa, khối thứ hai liên hệ đến chúng ta và các nhu cầu của chúng ta. Lời cầu “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”, là xin Thiên Chúa cho chúng ta được đi từ hoàn cảnh đức tin sang hoàn cảnh hưởng kiến. Lời cầu thứ hai xin Thiên Chúa là Cha tỏ quyền Chúa Tể trên mọi sự. Nói chung, hai lầu cầu đầu tiên xin cho có cuộc đảo lộn các tương quan hiện hữu, trong đó Thiên Chúa dường như vắng mặt hoặc ẩn mình. Chúng ta xin Ngài trở nên hữu hình và tỏ ra là Chúa Tể duy nhất mãi mãi.
Khối lời thỉnh cầu thứ hai liên hệ đến các nhu cầu cấp bách nhất của chúng ta: các nhu cầu vật chất (cái ăn cái uống, y phục, nhà cửa). Bên cạnh các nhu cầu vật chất, là các nhu cầu thiêng liêng: “xin tha tội cho chúng con”. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trách nhiệm, nhưng chúng ta thường xuyên sống vô trách nhiệm, trở thành có lỗi trước mạt Thiên Chúa, chúng ta phạm những thiếu sót đối với người thân cận. Chúng ta không thể tự mình tha các lỗi cho mình. Chúng ta lệ thuộc sự tha thứ của Thiên Chúa nên phải xin Ngài ban cho. Thêm vào lời cầu xin này, Đức Giêsu nối câu: “vì chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Người nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta không thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa nếu chúng ta có một tâm hồn đầy cay đắng và hiềm khích (x. Mt 18,23-35).
Cuối cùng, chúng ta xin Thiên Chúa chiếu cố đến sự yếu đuối và mỏng dòn của chúng ta. Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta nhìn nhận mình không có sức để đứng vững trong thử thách để trung thành với Ngài. Do đó, chúng ta khiêm tốn xin Ngài trợ giúp, đồng thời diễn tả ước muốn được mãi mãi liên kết với Ngài.
* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (5-13)
Sau đó, bằng hai dụ ngôn và sáu khẳng định, Đức Giêsu còn muốn thuyết phục các môn đệ rằng họ có thể cậy dựa vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, tức là tin rằng Ngài sẽ nhận lời họ cầu xin. Với hai dụ ngôn, Đức Giêsu vận dụng các hoàn cảnh và kinh nghiệm của loài người để dạy dỗ.
Dụ ngôn thứ nhất vận dụng những tương quan hàng xóm láng giềng ở miền quê: Nếu một người hàng xóm bị quấy rầy còn sẵn sàng giúp đỡ người bạn, chẳng lẽ Thiên Chúa vô cùng tốt lành và không hề có giờ nào không thuận tiện lại không nghe lời con cái Ngài kêu xin?
Trong dụ ngôn thứ hai, Đức Giêsu vận dụng cách thức xử sự của người cha trần thế với con cái: Nếu ngay trong lãnh vực con người, một người cha, tuy có những khiếm khuyết, còn biết cho con cái những của tốt lành, chẳng lẽ Thiên Chúa là “Cha”, Đấng có mọi tình phụ tử, lại không xử sự hơn thế sao?
Cách thức Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện cho hiểu rằng Người biết và luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Dựa trên cái nhìn này, Đức Giêsu mời chúng ta cầu nguyện tha thiết, Người hứa với chúng ta rằng chắc chắn chúng ta sẽ được nhận lời (cc. 9-10). Cho tất cả những ai xin bất cứ điều gì, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần. Ân ban này độc lập với nội dung của từng lời cầu nguyện. Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Ngài là Thần Khí làm cho chúng ta thành con Thiên Chúa và giúp chúng ta có thể kêu lên “Cha ơi!”.
+ Kết luận
Bởi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa hơn bất cứ ai trước Người. Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cung cấp cho chúng ta không những một bản văn kinh nguyện, mà còn cho một kiểu mẫu về các nội dung của lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Cha”: tương quan của Thiên Chúa với chúng ta là như tương quan của một người cha với các con mình. Và chúng ta hoàn toàn có thể tin cậy vào lòng nhân lành của Thiên Chúa. Trong lời cầu nguyện, chúng ta chứng tỏ mình có một hình ảnh về Thiên Chúa và cảm nghiệm thế nào về Ngài. Trong lời cầu nguyện, chúng ta thể hiện tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Trong khi cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là “Cha” (10,21; 22,42; 23,34-46), bởi vì Người biết Cha như thế. Lời dạy về cầu nguyện cũng đồng thời là một lời dạy về đức tin. Chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa là Cha chúng ta và Ngài quan hệ với chúng ta với tất cả sự quan tâm và yêu thương. Chúng ta phải ngỏ lời với Ngài và dâng lên Ngài những lời thỉnh cầu với đức tin này. Nếu chúng ta có một ý tưởng đúng về Ngài, chúng ta sẽ trình với Ngài những lời thỉnh cầu đầy tin tưởng và hy vọng và cậy vào sự giúp đỡ của Ngài.
2. Đức Giêsu dạy chúng ta phải và có thể cầu xin cho có những nhu cầu vật chất. Người không bảo chúng ta xin cho có dư thừa. Lời cầu nguyện Người dạy cũng không thu hẹp lại theo kiểu ích kỷ, Người dạy xin cho “chúng con”, tức là tất cả những ai đang cầu nguyện.
3. Thiên Chúa không đẩy chúng ta vào cám dỗ với mục đích làm cho chúng ta rơi vào tội lỗi. Nhưng Ngài có thể thử thách chúng ta, có thể thử sự bền vững và chắc chắn của chúng ta. Với lời xin cuối cùng, chúng ta được mời gọi loại trừ mọi cao ngạo và tự phụ.
4. Như người bạn đến xin người láng giềng giúp cho một nhu cầu, chúng ta cũng phải ngỏ lời với Thiên Chúa không phải vì những chuyện phù phiếm, nhưng là để trình bày với Ngài những nhu cầu thực tế của chúng ta và của người khác. Đứng trước Thiên Chúa, chúng ta không cần phải tìm kiếm hoặc tính toán so đo về các lời lẽ, nhưng chúng ta có thể nói thẳng ra với Ngài. Và khi cầu nguyện, chúng ta không được mệt mỏi hoặc nản chí. Chúng ta không được bỏ Ngài, không mong được Ngài giúp đỡ, để rồi đi theo đường mình cách cam chịu hoặc tự phụ. Chúng ta cứ phải liên kết với Ngài bằng một lời cầu nguyện kiên nhẫn, đầy niềm tin tưởng và đơn sơ, lặp đi lặp lại và không mỏi mệt.
5. Đức Giêsu cam kết rằng nếu chúng ta tha thiết cầu nguyện, chúng ta sẽ được Thiên Chúa nhận lời. Tuy nhiên, dường như điều này không đúng với kinh nghiệm chúng ta? Thật ra Đức Giêsu bảo đảm rằng Thiên Chúa chỉ ban những của tốt lành, nhưng Người không hề bảo đảm là lời cầu nguyện của chúng ta luôn luôn có nội dung là những ân ban mà chúng ta thấy là tốt lành. Người cha không đưa con rắn cho đứa con xin cá. Nhưng nếu người con xin một con rắn mà nghĩ rằng đó là điều tốt, thì người cha, chính vì ông tốt, ông sẽ không nhận lời xin này. Vậy chính Thiên Chúa phán đoán về các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thể qui định cho Ngài cách thức Ngài phải theo mà nhận lời chúng ta. Chỉ có một điều là chúng ta chắc chắn rằng Ngài sẽ nhận lời vào lúc tốt nhất cho chúng ta.
6. Không có gì lạ nếu khi dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là “Cha”, Đức Giêsu lại hứa là những ai ngỏ lời với Thiên Chúa sẽ được Ngài ban Thánh Thần. Nếu chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa trong đức tin, chúng ta đã đang cầu nguyện trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần rồi. Và khi cầu nguyện như thế, chúng ta đã sẵn sàng để cho mình được thấm nhuần sâu xa hơn bởi Thần Khí này, để cho Ngài trở nên sống động trong ta, và càng ngỏ lời với Thiên Chúa như là Cha chúng ta trong niềm tin tưởng trọn vẹn hơn. Điều quan trọng hơn mỗi lời xin và mỗi sự nhận lời, đó là tương quan chúng ta thiết lập với Thiên Chúa trong cầu nguyện. Lời kinh dâng lên với đức tin đã là một sự nhận lời rồi, bởi vì khi đó dây liên kết chúng ta với Thiên Chúa được đào sâu thêm và tăng trưởng hơn: Thiên Chúa ban Thánh Thần cho những ai cầu nguyện và đón tiếp họ vào trong sự hiệp thông ngày càng sống động và thân tình hơn với Ngài.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam