Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 52
Tổng truy cập: 1379595
NHIỀU CƠN ĐÓI
Nhiều cơn đói.
Năm 1885, Vincent Van Gogh đã đến thăm một viện bảo tàng ở Amsterdam để xem một bức tranh nổi tiếng của Rembrandt, bức “Cô dâu người Do thái”. Sau khi nhìn ngắm bức tranh ông nói “Tôi sẵn sàng đổi mười năm của đời mình để được ngồi trước bức tranh này trong hai tuần, với lương thực là vụn bánh mì khô. Cơn đói đầu tiên của tôi không phải là đói thức ăn, dù tôi thường nhịn đói nhiều ngày. Lòng khao khát hội họa của tôi còn mạnh hơn nhiều, đến nỗi khi tôi có được ít tiền, tôi lập tức đi săn lùng những mẫu tranh cho đến khi tiền hết sạch”.
Không chỉ có thể xác làm người ta đói, tâm hồn và tinh thần cũng làm người ta đói. Bánh làm bằng vật chất không bao giờ có thể thỏa mãn tâm hồn con người. Nuôi dưỡng một con người không giống như việc vỗ béo gia súc. Chúng ta là những thụ tạo không chỉ có một cơn đói nhưng có hàng trăm cơn đói. Ngoài cơm bánh, chúng ta còn đói nhiều thứ.
Không phải mọi khao khát của chúng ta cần được thỏa mãn. Một số là dục vọng nếu được thỏa mãn, cơn đói và sự đòi hỏi càng lớn hơn. Chúng ta phải nhận thấy rằng những dục vọng ấy tồn tại trong chúng ta. Nhưng chúng ta hãy giữ lại những khao khát cần được thỏa mãn nếu chúng ta muốn nuôi dưỡng xứng đáng như những con người và như những con cái của Thiên Chúa.
Chúng ta khao khát được cảm thấy mình quan trọng. Không ai muốn mình chẳng là gì cả. Chúng ta đều muốn mình trở nên quan trọng, dù chỉ quan trọng đối với một người.
Chúng ta khao khát được chấp nhận. Nếu chúng ta không được chấp nhận, chúng ta hầu như mất khả năng nhận thức chính mình.
Chúng ta khao khát những mối quan hệ. Không có các mối quan hệ, chúng ta tha hồ bị những cơn gió rét của đau khổ và cô đơn rung chuyển. Chúng ta giống như một cây trơ trọi trên đỉnh đồi.
Chúng ta khao khát đức tin – vì chấp nhận những niềm tin tích cực hướng dẫn chúng ta. Nếu không thì chúng ta giống như chiếc tàu không có hải đồ và hải bàn.
Chúng ta khao khát niềm hy vọng. Gạt bỏ niềm hy vọng là tiếp tục đình chỉ sự khao khát tinh thần.
Chúng ta khao khát tình yêu. Nếu niềm khao khát này được no thỏa thì hầu hết mọi khao khát khác của chúng ta sẽ biến mất.
Tuy nhiên, có thêm một cơn đói nữa, một khao khát sâu xa hơn và là nền tảng cho mọi khát vọng khác của chúng ta, bao gồm khát vọng tình yêu. Đó là khát vọng sự sống đời đời. Nói cách khác, đó là khao khát Thiên Chúa. Cảm nghiệm được khao khát này không phải là một bất hạnh mà là sự chúc lành. Nó cứu chúng ta khỏi sự trì trệ và giữ cho dòng sông chảy ra biển cả.
Hàng ngày chúng ta thấy người ta xuất hiện trong các siêu thị với những xe đẩy hàng đầy thức ăn và đồ uống. Nhưng chúng ta không tìm thấy thứ lương thực khác đó trong các siêu thị. Nếu có thể, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng tốt. Chỉ Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta lương thực ấy. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thỏa mãn những khao khát sâu xa nhất của chúng ta.
Bánh Manna đã nâng đỡ đời sống trần gian. Lương thực của Đức Giêsu nâng đỡ đời sống trường tồn. Đối với chúng ta – những người du hành trên con đường thời gian – đều được một khát vọng không thể cưỡng lại được hướng dẫn đến trường sinh. Đức Giêsu đến với một lời hứa: “Ai ăn bánh mà tôi ban cho sẽ được sống muôn đời”. Ai lại không muốn ăn bánh ấy?
49. Trông cậy.
Việc Thiên Chúa nuôi dân trong sa mạc bằng Manna được xem như ví dụ cổ điển về sự chăm sóc của Thiên Chúa đối với dân Người. Cho dù manna là một hiện tượng tự nhiên thì sự xuất hiện của manna vẫn là một quà tặng mà Thiên Chúa ban cho dân. Có thể có một thứ lương thực ngọt và dẻo như nhựa do một loại cây nào đó trong sa mạc tiết ra ban đêm và đông lại khi gặp cái lạnh. Người ta phải nhặt chúng vào sáng sớm trước khi nó tan chảy trong sức nóng ban ngày. Chim cút cũng thế: chúng di cư từ Bắc Au đến Châu Phi, và bắt buộc phải đáp xuống nghỉ đêm trong sa mạc, ở đó chúng dễ dàng bị bắt. Thiên Chúa nói với Môsê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời như mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày ấy; Ta muốn thử lòng chúng như vậy, xem chúng có tuân theo luật của Ta hay không”. Chúng ta phải giải thích những lời ấy như thế nào?
Nếu chúng ta hỏi một tín hữu bình thường xem người ấy có tin Chúa là Thiên Chúa duy nhất của thế gian không, người ấy sẽ không ngần ngại trả lời: “Dĩ nhiên rồi”. Nhưng nếu bạn hỏi người ấy có phải Thiên Chúa sẽ thấy hết mọi nhu cầu của người ấy để người ấy phó thác mọi sự cho Người thì người ấy sẽ lùi lại như muốn nói: “Vâng tôi chưa đạt đến trình độ đó”.
Chúng ta phải phân biệt giữa đức tin và phó thác hay tín thác. Dù chúng liên kết nhau chặt chẽ nhưng chúng không đồng nghĩa. Người nào tin tưởng vững vàng thì phó thác trọn vẹn. Nhưng nếu một người nào đó không phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa, thì niềm tin của họ rất yếu. Kinh nghiệm sa mạc là một cơ hội cho dân Do thái gần gũi với Thiên Chúa. Kinh nghiệm ấy dạy họ trông cậy vào Thiên Chúa, tín thác vào Đấng Quan Phòng mỗi ngày. Vì thế, Thiên Chúa bảo họ không được tích trữ bánh manna và bảo đảm họ sẽ có phần của ngày mai. Họ chỉ được lượm đủ nhu cầu của ngày hôm nay. Ngày mai, Thiên Chúa sẽ lại cung cấp cho họ.
Đức Giêsu cũng giảng dạy cùng một chân lý. Người nói chúng ta phải cầu nguyện “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Giáo huấn này nghe có vẻ lạ lùng, nếu không nói là điên rồ đối với những người hoàn toàn tín nhiệm vào các tài khoản tiết kiệm, các chính sách bảo hiểm. Chúng ta không dành đủ chỗ cho Thiên Chúa. Đó là đi ngược lại với cách sống đức tin.
Qua mọi lời nói và hành động, không phải bánh manna đã nâng đỡ dân Do thái trong suốt thời gian ở sa mạc. Chính đức tin và sự tín thác vào Thiên Chúa đã nâng đỡ họ. Đây là lương thực có giá trị với chúng ta – Đức tin và sự tín thác vào Thiên Chúa sẽ nuôi dưỡng chúng ta trong mọi lúc nhưng đặc biệt trong những khi bị thử thách. Không phải chính chúng ta gìn giữ đức tin mà chính đức tin gìn giữ chúng ta. Dù đời sống có khó khăn như thế nào đối với những người tín thác vào Thiên Chúa và sống mỗi ngày, mỗi lúc thì việc bánh manna rơi xuống mỗi ngày không có gì là ghê gớm lắm.
50. Hãy tìm Bánh Hằng Sống Giêsu
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Phúc Âm chương 6 Tin Mừng Gioan được đưa vào giữa năm phụng vụ, làm gián đoạn Tin Mừng Marcô đang được đọc trong mùa thường niên B. Khởi đi từ việc thấy dân chúng theo mình rất đông, Chúa Giêsu đã “chạnh lòng thương”, làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Họ theo Chúa vì cái bụng, Chúa không hài lòng nên trách móc: “Các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26). Chúa gợi lên cho họ lòng khát vọng tìm kiếm thay lương thực trường tồn là chính Chúa là tin vào Người (x. Ga 6).
Manna của ăn trong sa mạc
Nếu như vào một buổi sáng nọ, con cái Israel thấy có một thứ gì nho nhỏ mịn màng như sương muối phủ mặt đất, họ liền hỏi nhau: “Man hu? ” Nghĩa là: “Cái gì đây? ” (Xh 16, 14) Ngày hôm nay chúng ta cũng hỏi nhau Manna là cái gì?
Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân mà Ngài đã cưu mang và dẫn ra khỏi Ai cập. Trên hành trình về Đất Hứa để chứng tỏ tình thương và lòng thành tín của Chúa đối với dân giữa xa mạc khô cằn, Ngài đã ban cho họ Manna, theo Môsê, “Đó là bánh Thiên Chúa ban… làm của ăn” (Xh 16, 16), không chỉ làm lương thực đi đường mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Chúa. Dân Israel vẫn quan niệm ông Môsê là người đã cho họ ăn bánh bởi trời, nhưng Chúa Giêsu đã chỉnh sửa lại là chính Thiên Chúa chứ không phải ông Môsê là Đấng cho họ của ăn trong sa mạc, đồng thời mời gọi họ nhìn nhận và tin vào chính Người là Bánh đích thực do Thiên Chúa của cha ông họ gửi đến lúc này đây.
Bánh Giêsu
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng được no nê tùy thích, tưởng rằng thời Mêssia đã đến, họ muốn tôn Chúa làm vua, nên tìm theo Chúa. Gặp họ, Chúa muốn họ đi xa hơn, đã mất công tìm kiếm, thì hãy “ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời” (Ga 6, 27). Chúa gợi lên nơi họ lòng khát vọng trường tồn, khiến họ đặt câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” (Ga 6, 28) Câu hỏi xem ra không có gì liên quan đến Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vẫn có một tương quan, đó là “công việc”. Chúa chỉ cho họ: “Công việc của Thiên Chúa là các người hãy tin vào Đấng mà Ngài sai đến”(Ga 6, 29).
Đức tin là điều căn bản. Đây không phải là theo một ý tưởng, một dự án, mà là gặp gỡ Chúa Giêsu, một người sống động, để cho mình được Chúa và Tin Mừng của Chúa lôi cuốn. Chúa Giêsu mời gọi dân chúng không dừng lại ở chân trời thuần túy nhân loại, nhưng mở rộng tới chân trời của Thiên Chúa, chân trời của niềm tin. Người chỉ đòi hỏi một công việc duy nhất là: tiếp nhận chương trình của Thiên Chúa, nghĩa là “tin nơi Đấng Thiên Chúa đã sai đến” (Ga 6, 29). Chúa Giêsu đã tự hiến chính mình, trở nên bánh đích thật, “bánh từ trời xuống”, chính Người là Lời hằng sống của Chúa Cha. Gặp gỡ Người là chúng ta gặp gỡ Một Thiên Chúa hằng sống.
Thật không phải dễ để dân chúng tin vào Người, họ đòi dấu lạ, gợi nhớ manna, bánh mà cha ông họ đã ăn trong sa mạc. Để giúp họ hiểu ý nghĩa sâu xa của phép lạ Chúa Giêsu đã làm thỏa mãn một cách lạ lùng cái đói thể lý của họ, Người mời gọi họ đón nhận lời loan báo chính Người là bánh từ trời xuống (x. Ga 6, 41) làm cho họ thỏa mãn một cách vĩnh viễn. Nếu như cha ông họ trong hành trình dài trong sa mạc đã sống kinh nghiệm về thứ bánh từ trời xuống là manna dưỡng nuôi họ cho tới khi vào Đất Hứa. Giờ đây Chúa Giêsu nói về chính Người là “bánh từ trời xuống”, có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống vĩnh cửu, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở trong lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, và đưa con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Chúa Giêsu khẳng định với họ rằng: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6, 35). Người là bánh từ trời xuống làm no thỏa cái đói tinh thần con người. Người là Lời của Thiên Chúa nhập thể làm no thỏa cái đói khát của linh hồn con người một cách vĩnh viễn.
Theo thánh Agustinô: “Chúa Giêsu khẳng định Người là bánh từ trời xuống, và mời gọi dân chúng tin vào Người. Thật ra, ăn bánh hằng sống có nghĩa là tin vào Chúa, ai ăn thì tin và ai tin thì ăn. Trong một cách vô hình họ được no thỏa, cũng như trong một cách vô hình họ tái sinh vào một cuộc sống sâu xa hơn, đích thật hơn; họ tái sinh từ bên trong, trong nơi sâu thẳm của họ, và họ trở nên một con người mới” (Omelie su Vangelo di Giovanni, 26,1).
Thánh Thể thần lương vượt thế trần
Nếu như trong sa mạc, manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót ấy là Đức Giêsu Kitô Con Một Chúa, Đấng tự hiến mình làm Thần Lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Manna xưa chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời vinh phúc. Trong sa mạc, manna chứng tỏ Chúa không bỏ dân của Chúa, ngày nay Chúa ở giữa Hội Thánh và trong thế giới bằng chính mình trong bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi ; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ ; người đau yếu tìm được sự chữa lành ; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần ; người hấp hối tìm được sự đỡ nâng ; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa rất quan trọng, manna ngày xưa của ăn trong sa mạc, Thánh Thể thần lương vượt thế trần.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết quy tụ mọi sự về Chúa, biết tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và đón rước Chúa hầu được sống muôn đời. Amen.
51. Tự do.
Sau mỗi lúc cao cả lại đến một lúc phản ứng lại và chính trong sự phản ứng lại này, nguy hiểm đang nằm chờ sẵn. Dường như có một qui luật của đời sống là ngay sau khi sức mạnh đề kháng lên điểm cao nhất, thì nó chúi xuống điểm thấp nhất.
Viết về kinh nghiệm Auschwitz, nhà văn Ý, Primo Levi nói: “Trong đa số các trường hợp, giờ giải phóng không phải là lúc vui tươi, phấn khởi. Nhiều vụ tự tử đã xảy ra ngay sau lúc giải phóng. Trái lại, các vụ tự tử hiếm khi xảy ra trong suốt thời kỳ bị giam cầm. Trong trường hợp của riêng tôi, được thả ra là một giây phút nguy kịch, nó trùng khớp với một cơn lũ của việc suy nghĩ lại và chán nản”.
Và Elie Wiesel, một người sống sót từ Auschwitz trở về nói: “Trong suốt thời kỳ thử thách, tôi đã sống trong sự chờ đợi… một phép lạ, hoặc cái chết. Chỉ sau này, sau khi cơn ác mộng đi qua tôi mới bị một cơn khủng hoảng đau đớn và thống khổ, tra hỏi mọi niềm tin của tôi”.
Về lý thuyết, khi họ đã được thả ra thì sau đó họ phải sống một cách hạnh phúc. Tuy nhiên, thường xảy ra việc những người trở về hầu như đã chết ngay sau khi họ “trở lại sự sống”. Người ta giải thích điều đó như thế nào? Trong lúc họ còn ở trong địa ngục thì giấc mơ được giải thoát đã cho họ sức mạnh để sống còn. Nhưng tự do không luôn luôn thực hiện những mong đợi của họ. Nhiều người trong số họ không có chỗ để về. Sự tàn bạo của nhà tù bắt đầu khi bạn ra khỏi nơi đó. (Oscar Wilde).
Dân Do thái đã có một kinh nghiệm tương tự. Họ rời bỏ ách nô lệ ở Ai cập trong niềm vui, và bắt đầu lên đường đi vào một tương lai mà họ tin là tươi sáng. Thế là một thời gian ngắn sau đó họ muốn trở về Ai cập. Họ muốn trở lại thân phận nô lệ. Điều này đã xảy ra?
Trong một ý nghĩa, những bối rối thật sự của họ đã bắt đầu sau khi được ra đi. Tự do không làm cho có điều họ nghĩ phải có. Họ thấy mình ở trong sa mạc và thiếu lương thực. Họ đã khám phá rằng tự do bao gồm một cuộc hành trình đến miền đất hứa xa xăm và mơ hồ. Còn lúc này họ phải đương đầu với khó khăn, thử thách và nguy hiểm.
Thật ra, dân Do thái thời Mosê không sẵn sàng đón nhận tự do, và Kinh Thánh đã trung thành thuật lại những cãi cọ và bối rối của họ. Cần có một thế hệ mới để sẵn sàng vượt qua sông Giocđan và vào miền đất hứa. Cho nên có câu nói: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.
Tự do đưa ra những thách đố của nó. Nó có nghĩa là nhận trách nhiệm về cuộc đời mình. Nó không là việc dễ dàng đặc biệt đối với những người quen để cho người khác quyết định mọi việc cho mình. Tự do đòi hỏi một kỷ luật cho bản thân. Để cho người khác đưa ra kỷ luật cho mình thì dễ dàng hơn mình đặt kỷ luật cho chính mình. Biến đổi một con người thành nô lệ dễ hơn một nô lệ trở thành con người.
Dân Do thái đã nhìn lại đàng sau và nghĩ: “Có lẽ chúng ta đã tốt hơn khi ở lại Ai cập; ít nhất ở đó chúng ta có đủ ăn?”. Và thế là họ bắt đầu càu nhàu Môsê. Giá mà họ đã đem theo những phẩm chất làm họ có thể chịu đựng cảnh nô lệ. Nhưng họ không dùng những phẩm chất ấy để sống tự do như khi họ sống trong cảnh nô lệ.
Chúng ta cảm thấy có thiện cảm với họ. Họ không thể tiên đoán rằng giấc mơ tự do của họ, một khi đã được thực hiện đưa đến những thách đố mới và những nguy cơ mới. Thái độ ù lỳ của họ thật đáng buồn khi nghĩ đến việc họ sẵn sàng từ bỏ tự do để được nhét vào bụng những món ăn ngày trước họ đã ăn ở Ai cập. Tuy nhiên, Thiên Chúa động lòng thương họ và đã cho họ bánh manna để nâng đỡ họ trong cuộc lữ hành băng qua sa mạc.
Điều này có quan hệ rất lớn đối với chúng ta. Là dân mới của Thiên Chúa, chúng ta hành trình trong đức tin hướng về miền đất hứa của sự sống đời đời. Bởi phép Rửa tội, chúng ta được mời gọi ra khỏi sự nô lệ – nô lệ cho tội, nô lệ cho tiện nghi và an toàn v.v… (Xem bài đọc 2). Chúng ta được hướng dẫn không phải bởi Môsê nhưng bởi Đức Giêsu. Chúng ta phải sống bởi đức tin chứ không phải bởi thị kiến.
Và chúng ta gắn bó với kinh nghiệm sa mạc của thử thách và khó khăn. Có lúc, chúng ta có thể cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Và vì thế, chúng ta khao khát sự xa hoa của thế gian này. Chúng ta bị cám dỗ rơi trở lại tình trạng nô lệ của tội lỗi hơn là sống trong tự do của con cái Thiên Chúa.
Nhưng vì Thiên Chúa đã nâng đỡ dân Do thái nên Người đã nâng đỡ chúng ta qua đức tin vào Đức Giêsu và Bánh là chính Người ban cho chúng ta trong Thánh Thể. Không phải chúng ta gìn giữ đức tin, mà là đức tin gìn giữ chúng ta. Dù cuộc đời có khó khăn đến mấy, đối với những người tín thác vào Thiên Chúa, và sống mỗi ngày trong mỗi lúc, bánh manna vẫn rơi xuống mỗi ngày.
52. Đức Giêsu là Bánh trường sinh – JKN
Câu hỏi gợi ý:
- Con người khác và hơn con vật ở những khả năng nào? Con người giống với Thiên Chúa ở chỗ nào? Vậy con người phải đặc biệt quan tâm phát triển những khả năng nào?
- Con người thường tìm hạnh phúc nơi những gì? Khi đạt được những thứ ấy, con người đã thỏa mãn chưa? hay họ lại khao khát những thứ khác? Như vậy, tìm hạnh phúc nơi những thứ ấy có phải là cách khôn ngoan không? Tìm hạnh phúc ở đâu mới là khôn ngoan?
- Đức Giêsu là «bánh trường sinh». Vậy ta phải làm gì với Đức Giêsu để đạt được «bánh trường sinh» ấy? Có phải là rước lễ? Những người rước lễ có ai đạt được «bánh trường sinh» chưa?
Suy tư gợi ý:
- Đời sống tâm linh, cấp độ sống cao nhất của con người
Tất cả mọi sinh vật đều có sự sống. Nhưng sự sống ấy có nhiều cấp độ khác nhau, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự sống càng cao thì càng có những khả năng đặc biệt mà sự sống ở bậc thấp hơn không có, hay có rất ít. Cùng là sống, nhưng cái sống của một cây cổ thụ khác với cái sống của một cây cỏ, của một bụi gai; cái sống của con sư tử, một con cá heo khác với cái sống của con chó, con heo, và càng khác với cái sống của con giun, con dế. Cao hơn nữa là cái sống của con người. Và cao hơn cái sống của con người là cái sống của thiên thần, và cao nhất là cái sống của Thiên Chúa, nguồn phát sinh mọi sự sống.
Loài thực vật có khả năng tự dinh dưỡng, tự thích ứng, tự lớn lên, tự sinh sản, nhưng khả năng cảm giác rất ít. Loài động vật có đủ mọi khả năng của loài thực vật, nhưng khả năng cảm giác cao hơn rất nhiều, và còn có khả năng tự di chuyển. Nhưng các loài thú có rất ít trí tuệ, khả năng ý thức, không có khả năng tự quyết định hay sự tự do, chỉ biết làm theo bản năng. Còn con người có nhiều khả năng vượt rất xa loài động vật. Con người có đời sống tinh thần, trí thức, tình cảm, có khả năng tự do và tự quyết định, và nhất là có đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh càng phát triển thì con người càng khác xa con vật và càng giống Thiên Chúa hơn.
- Đời sống tâm linh phát triển và hạnh phúc đích thực
Con người chỉ được hạnh phúc tràn đầy khi đạt được sự phát triển cao nhất của mình. Con người có đời sống tâm linh mà các loài động vật khác không có. Khi phát triển những khả năng cao cấp của mình như tinh thần, tình cảm, trí tuệ, thì con người có khả năng hạnh phúc cao hơn tất cả mọi loài, nhưng hạnh phúc ấy chưa tràn đầy, chưa đạt tới viên mãn. Chỉ khi nào phát triển tâm linh đầy đủ, con người mới đạt được giá trị cao nhất của mình, và mới được hạnh phúc một cách viên mãn.
Chưa được hạnh phúc viên mãn, con người sẽ không bao giờ thỏa mãn. Khi chưa đạt được hạnh phúc viên mãn, thì dù có đạt được những điều mình đang mong ước, con người cũng chỉ tạm hạnh phúc trong chốc lát, để rồi sau đó lại khao khát một cái khác cao hơn; nếu không đạt được cái cao hơn đó thì con người lại rơi vào đau khổ. Những khao khát bình thường ấy chỉ giống như những ly nước, những chén thức ăn. Uống xong ly nước ấy tuy đã khát, ăn hết thức ăn ấy tuy no và hết đói, nhưng rồi sẽ lại khát, lại đói nữa: «Ai uống nước này, sẽ lại khát» (Ga 4,13). Cứ thế, chẳng bao giờ con người hết đói và hết khát với những thức ăn thức uống bình thường ấy. Và con người cứ phải kiếm nước kiếm thức ăn mãi. Còn đói khát những ước vọng bình thường ấy, con người còn phải gặp biết bao đau khổ.
Những hạnh phúc do sự thỏa mãn những ước vọng ấy chỉ giống như một người bị bệnh ngứa, khi ngứa lên thì gãi hay hơ nóng chỗ ngứa, tuy đã ngứa nhưng chỉ được một thời gian rất ngắn, để rồi sau đó sẽ còn ngứa dài dài nữa. Chỉ khi nào chữa cho hết bệnh ngứa, thì con người mới thật sự thoải mái. Cũng vậy, chỉ khi nào hết ích kỷ, biết sống vị tha, có đời sống tâm linh phát triển, con người mới thật sự hết đau khổ và được hạnh phúc đích thật, thứ hạnh phúc không ai lấy mất được.
- Con người mải mê tìm những hạnh phúc chóng qua
Khi con người chưa cảm nghiệm được hạnh phúc đích thực của một tâm linh phát triển, thì họ chỉ mải miết tìm kiếm những hạnh phúc chóng qua, nơi của cải, nhà cửa, địa vị, quyền lực… Đạt được hạnh phúc này thì lại khao khát hạnh phúc khác. Khi phải đi bộ thì họ mong có chiếc xe đạp, tưởng rằng có xe đạp thì sẽ hạnh phúc lắm. Nhưng khi có xe đạp thì họ chẳng hạnh phúc, vì họ lại mong ước chiếc xe máy… rồi xe hơi… rồi nhà cao cửa rộng… rồi địa vị quyền lực… Nhưng dẫu có trở thành một ông vua hay bà hoàng, họ vẫn cảm thấy đau khổ, và chẳng hạnh phúc.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu khuyên người ta không nên tìm thứ «lương thực mau hư nát» là những cái chỉ đem lại những hạnh phúc thoáng qua, mà hãy tìm loại «lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh». «Lương thực thường tồn» ấy chính là những gì nuôi sống đời sống tâm linh, làm cho sự sống ấy phát triển. Khi đời sống tâm linh phát triển, con người sẽ hạnh phúc mãi, và không gì trong cuộc đời có thể làm họ đau khổ hay mất hạnh phúc. Đó chính là thứ «nước» mà Đức Giêsu hứa ban cho ta: «Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14).
- Lương thực trường sinh ấy chính là Đức Giêsu
Để có đời sống tâm linh phát triển, nghĩa là để có hạnh phúc đích thực và lâu bền, Đức Giêsu giới thiệu cho chúng ta thứ «lương thực thường tồn» hay «bánh trường sinh», khiến chúng ta một khi đã «ăn» vào thì sẽ được thỏa mãn, hạnh phúc, không còn khao khát gì hơn nữa. «Lương thực» này khác với thứ «lương thực mau hư nát», >«ăn» vào rồi là chán ngay, và muốn «ăn» thứ khác. Lương thực thường tồn ấy chính là Đức Giêsu. Ngài nói: «Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!». Rất nhiều Kitô hữu hiểu câu này một cách rất vật chất rằng để đạt được đời sống trường sinh, ta chỉ việc rước lễ, tức rước Mình Máu Đức Giêsu vào bụng là xong. Nhưng trong đời tôi, tôi thấy biết bao Kitô hữu rước lễ hằng ngày và suốt đời mà có biến đổi hay cảm thấy hạnh phúc đích thực và lâu dài bao giờ đâu! Điều đó khiến tôi phải hiểu câu nói trên theo cách khác. Tôi đã sống và áp dụng theo cách hiểu mới ấy, và tôi cảm thấy đời tôi ngày càng thấy mình hạnh phúc hơn.
Chúng ta chỉ «ăn» được «bánh trường sinh» là chính Đức Giêsu bằng cách làm cho tâm linh ta được cấu tạo bởi những gì đã làm nên con người Đức Giêsu. Ăn thức ăn nào là nhận chất bổ, năng lực từ thức ăn ấy. Đức Giêsu là năng lực thần linh, nên «ăn» Đức Giêsu là đón nhận vào mình năng lực thần linh của Ngài. Đương nhiên «ăn» Đức Giêsu không phải là «ăn» bằng miệng, bằng thể xác, mà bằng ý thức và tâm linh của ta. Thể xác không thể nào ăn được của ăn tâm linh. Muốn «ăn» Đức Giêsu, tức «bánh trường sinh», ta phải ý thức sự hiện diện đích thực và thường hằng của Đức Giêsu trong tâm hồn ta. Ngài luôn hiện diện trong ta, nhưng ta thường không ý thức sự hiện diện ấy. «Ăn» Ngài là ý thức rằng Ngài là một nguồn năng lực vô tận về tình yêu, trí tuệ, sức mạnh, can đảm, hạnh phúc… luôn hiện diện trong ta, sẵn sàng thể hiện tràn đầy qua con người của ta, qua tư tưởng, lời nói và hành động của ta. «Ăn» Ngài thật sự sẽ làm cho đời sống của ta trở nên hạnh phúc và khởi sắc hơn bao giờ hết. Đó cũng chính là kinh nghiệm của tôi, người viết bài này, xin chia sẻ với mọi người.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu chính là một lương thực bổ dưỡng hữu hiệu cho tâm linh con người. Nhưng «ăn» Ngài không phải là ăn theo kiểu vật chất, mà là ăn theo kiểu tâm linh. Xin Cha dạy cho con cách thức «ăn» Ngài, để con được sống trường sinh và hạnh phúc, thứ hạnh phúc đích thực và không bao giờ mất đi được. Đó là hạnh phúc đời đời. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam