Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 60

Tổng truy cập: 1377540

NHÌN THẤY CHÚA

Nhìn thấy Chúa

Một vị vua kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán. Ông nói: "Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những gì mà một con người có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết". Nhà vua tham khảo ý kiến những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực hiện điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.

Thế rồi có một chàng chăn cừu nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói: "Có lẽ hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được". Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo: "Hãy xem kìa". Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá. Ông bảo: "Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!" Người chăn cừu đáp: "Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ còn nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp mắt bất toàn của Bệ Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác".

Nhà vua rất thích ý tưởng ấy, nói: "Ta cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời cho câu hỏi khác của Ta: Thiên Chúa sống ở đâu?" Người chăn cừu lại đưa tay chỉ lên trời: "Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng sống trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta".

Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn cừu nói tiếp: "Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa". Rồi chàng dẫn nhà vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi: "Ai sống dưới đó thế?" Người chăn cừu đáp: "Thiên Chúa". "Ta có thể nhìn thấy Ngài không?" "Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn". Nhà vua chăm chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu trên mặt nước. Ông nói: "Ta chỉ thấy mặt Ta thôi". Người chăn cừu giải thích: "Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ Hạ đó".

Nhà vua nhận ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng ai biết ông có nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều gì đó đã biến đổi trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với mọi người, kể cả người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.

Thiên Chúa ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng ta.

Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM)

 

52. Những hình ảnh của Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

Người Châu Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên Chúa: Một hôm Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này thấy Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.

Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi xem sự việc sau dó diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng: đúng là có Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống vô thần nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã hiện ra thật. Nhưng một người hỏi: "Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu gì?"

- Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.

- Không, Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.

- Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ ba nói thế.

- Tất cả đều điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.

Thế là mọi người cãi nhau chí choé, rồi ấu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ cho rằng họ thấy toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ sung cho cái nhìn của mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về Thiên Chúa.

Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những sự dưới thế chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt được những sự trên trời. Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính Thiên Chúa.

Cần phải có một hình ảnh đúng đắn về Thiên Chúa, nếu không thì mọi sự sẽ lạc hướng cả. Làm sao chúng ta có thể thờ phượng Ngài cho phải đạo hoặc có một liên hệ đúng đắn với Ngài nếu chúng ta có một hình ảnh sai lạc về Ngài?

Muốn biết Thiên Chúa là thế nào, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vì, như Thánh Phaolô nói, "Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình". Vậy, Chúa Giêsu ra sao? Trong mọi hình ảnh Chúa Giêsu, hình ảnh đẹp nhất là Mục Tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã mô tả mình bằng hình ảnh này. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, hiến mạng sống mình cho đàn chiên. Trong hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta thấy được tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta.

Còn Chúa Thánh Thần thì thế nào? Chúa Thánh Thần chính là tình thương giữa Chúa Cha với Chúa Con, và giữa các Đấng với chúng ta.

Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là vấn đề để tranh luận, cũng không phải là vấn đề để học biết, mà là để cầu nguyện và để sống. Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới này không phải là một thế giới ở đâu xa xôi, mà chính là thế giới mà ta sống hằng ngày. Như câu chuyện của Châu Phi vừa kể phía trên, thế giới ấy là thế giới mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. (FM)

 

53. Thiên Chúa Ba Ngôi

Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.

Trước hết là Ngôi Cha.

Trong Cựu ước, dân Do Thái là một gia đình có Thiên Chúa là cha. Ngài là đấng đã tuyển chọn quan phòng và chăm sóc đến những nhu cầu của họ.

Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã nhiều lần mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa Cha. Ngài là Cha của mọi người. Ngài yêu thương chăm sóc và ban thưởng cho những việc lành chúng ta làm. Ngài tha tội và nêu gương thánh thiện. Tương quan của mỗi người đối với Chúa là lòng hiếu thảo rập theo khuôn mẫu của Đức Kitô.

Đức Kitô đã làm việc nhân danh Chúa Cha. Giáo lý của Đức Kitô là bởi Chúa Cha. Đức Kitô vâng theo thánh ý Chúa Cha và hoàn tất mọi việc Chúa Cha trao phó.

Thiên Chúa là Cha. Trong các tôn giáo, liệu có vị thần nào dám mạc khải mình như thế không. Chúng ta có hãnh diện vì được một Thiên Chúa ở gần và yêu thương như một người Cha. Có lẽ nhiều người trong chúng ta chưa kinh nghiệm được tình phụ tử, và chúng ta tự hỏi:

- Tại sao người công chính lại gặp phải tai ương hoạn nạn, còn đứa ác nhân lại gặp nhiều may mắn.

Trước hết, chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, Ngài làm mưa trên người lành cũng như trên kẻ dữ. Ngài muốn tỏ ra nhân hậu với mọi người cho đến khi sự công bằng được tỏ hiện trong ngày sau hết. Còn với người lành gặp nhiều tai ương, Chúa cũng vẫn tỏ lòng từ nhân. Ngài muốn họ vững lòng cậy trông vào Ngài, đồng thời hãy can đảm và kiên trì vì kiên trì trong gian truân sẽ đưa đến hạnh phúc nước trời.

Sống trong những khó khăn thử thách chúng ta cần xét đến một lý do nữa, Thiên Chúa thử thách con cái Ngài để xem họ có bằng lòng vâng phục hay không? Vì vâng lời trọng hơn của lễ. Chúa đặt chúng ta vào trong hoàn cảnh nan giải để xem đức tin của chúng ta đã trưởng thành hay chưa?

Một người cha thật thì phải biết giáo dục và uốn nắn con cái chứ không được nuông chiều. Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi. Gương ông Giob đã chứng tỏ cho thấy một đức tin không nao núng trước nghịch cảnh. Cách giải quyết tốt đẹp nhất là tin tưởng và phó thác cho tình thương của Chúa.

Tiếp đến là Ngôi Con.

Sau khi nguyên tổ phạm tội thì nhân loại sống dưới ách tội lỗi. Con người không thể tự mình giải thoát vì tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, cho nên cần phải có một Đấng cứu thế, đó là chính Ngôi Hai Thiên Chúa mới có đủ thẩm quyền cứu độ chúng ta.

Về Ngôi Hai chúng ta cần biết một vài điểm cốt yếu: Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Ngài là Đấng vô tội đã mặc lấy thân phận tội nhân để cứu chuộc chúng ta. Ngài là đường, là sự thật, là sự sống. Ngài đã thiết lập Giáo hội và trao ban cho Giáo hội các bí tích để tiếp tục công cuộc cứu độ cho đến tận cùng thời gian.

Sau cùng là Chúa Thánh Thần.

Khi sứ mạng Chúa Giêsu hoàn tất, Ngài về trời và sai Chúa Thánh Thần đến trong ngày Hiện xuống để thánh hóa chúng ta và hướng dẫn Giáo hội.

Về những việc làm của Chúa Thánh Thần chúng ta ghi nhận: Ngài thánh hóa chúng ta, hồi sinh những tâm hồn tội lỗi. Ngài ngự trong chúng ta và trong Giáo hội. Giúp Giáo hội đào sâu chân lý và trang điểm Giáo hội bằng muôn ơn sủng để trở thành hiền thê của Đức Kitô.

Ngài nâng đỡ và ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nguy thử thách, giúp đỡ chúng ta chống lại những dục vọng sai trái. Ngài cầu nguyện thay cho chúng ta là những kẻ yếu hèn. Trong những giờ phút u tối, đừng bao giờ mất lòng cậy trông, hãy chạy đến với Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ soi sáng và thêm sức, Ngài làm cho tâm hồn chúng ta dịu lại trước thánh ý Thiên Chúa…

 

54. Lễ Chúa Ba Ngôi – Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Khi nói về Thiên Chúa Ba Ngôi, ta quen thuộc với những hình ảnh Chúa Cha là Đấng tạo dựng, Chúa Con là Đấng cứu chuộc và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Quả thực Ba Ngôi gắn liền với cuộc đời và số phận của ta. Nhưng trong thần học của Tin Mừng Gio-an, Chúa Ba Ngôi thường được diễn tả qua mối liên hệ sống động với ta, đặc biệt trong việc Thiên Chúa tỏ ra những gì Người muốn ta tiếp nhận hoặc lắng nghe. Thánh sử Gio-an gọi tất cả những điều Thiên Chúa muốn cho ta biết qua Chúa Giêsu là sự thật toàn vẹn. Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp ta suy niệm những công việc của Ba Ngôi làm để ta nhận ra được “mọi kích thước dài rộng cao sâu và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt qua sự hiểu biết” (Ep 3:18).

1) “Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1:2)

Giữa Thiên Chúa và con người có một khoảng cách vô biên, ta không thể tự sức mình biết được những gì về Thiên Chúa nếu chính Người không tỏ ra cho ta. Tuy nhiên, Chúa đã nối liền khoảng cách ấy bằng cách sử dụng một số người được tuyển chọn để nói thay cho Người. Họ là các vị ngôn sứ, chuyển đạt cho ta những điều Thiên Chúa muốn mặc khải bằng ngôn ngữ loài người. Nhưng ngôn ngữ loài người có giới hạn, nên mặc dù Thiên Chúa đã “nhiều lần nhiều cách” (Dt 1:1) nói với con người qua các vị ngôn sứ, các vị ấy vẫn không thể diễn đạt được hết những gì Thiên Chúa muốn nói. Kinh Thánh Cựu Ước là sưu tập những điều Thiên Chúa “phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ”, nói về những gì Thiên Chúa làm cho ta và những gì ta phải thực thi để sống xứng đáng là con cái Người. Thế mà kết quả của những lần “nói thay Thiên Chúa” chẳng là bao. Thiên Chúa đã thay đổi đủ kiểu đủ cách để củng cố mối quan hệ mà con người vẫn xa dần.

Chẳng lẽ Thiên Chúa phải thất bại? Không bao giờ. Thiên Chúa còn một cách cuối cùng, Người sử dụng cách ấy “vào thời sau hết này”. Đó là Người dùng chính Ngôi Lời để nói với nhân loại. Không phải nói bằng Lời uy quyền như ta thường nghe trong Cựu Ước: “Chúa phán”, nhưng bằng lời thông thường của con người dùng để nói với nhau. Không phải bằng Lời từ trời cao vọng xuống cõi trần, nhưng là Lời “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Từ đây, Thiên Chúa nói với ta bằng toàn bộ ngôn ngữ loài người, từ tiếng nói bập bẹ của trẻ thơ tới lời lẽ của người lớn, từ những cử chỉ nhỏ nhặt cho tới tất cả lối sống, để cho con người thấy thế nào là kiếp người, thế nào là một người con Thiên Chúa. Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Lời đã trở thành những bài giảng đơn sơ dễ hiểu, nhưng chứa đựng những chân lý ngàn đời, bày tỏ những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nhưng đặc biệt nhất, ngôn ngữ của Chúa Giêsu là ngôn ngữ của yêu thương, diễn tả không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng những nghĩa cử đầy tình yêu, yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân đến chết trên thập giá. Đó là tột đỉnh của ngôn ngữ Thiên Chúa muốn nói với nhân loại: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một.

2) “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”

Cả một đời Chúa Giêsu là để nói lên sự thật toàn vẹn rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Nhưng bây giờ vào lúc Người đang đàm đạo với môn đệ trước khi chịu cuộc Thương Khó, sự thật toàn vẹn vẫn chưa được tỏ lộ. Nó chỉ được tỏ lộ đầy đủ khi Chúa Giêsu chết trên thập giá để minh chứng Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến mức độ nào.

Tất cả những giáo lý và mặc khải Thiên Chúa muốn dạy con người đã được trình bày qua lời giảng và lối sống của Chúa Giêsu. Nhưng Chúa lại nói Người còn nhiều điều phải nói với môn đệ, vậy “nhiều điều” ấy là gì? Là tất cả những gì sẽ xảy ra trong cuộc Thương Khó, cái chết, sự sống lại và vinh hiển của Người. Tóm lại là ý nghĩa của mầu nhiệm Kitô, một mầu nhiệm cần phải được thấm nhập vào ta, biến đổi ta thành “dưỡng tử” của Thiên Chúa và “đồng thừa tự” với Đức Kitô.

Mầu nhiệm Đức Kitô không chỉ là một mầu nhiệm đem ra học hỏi như một môn học thuần lý, nhưng là một mầu nhiệm thực hành để suy niệm, chiêm ngưỡng và sống, như thánh Phao-lô đã nêu gương. “Với tôi, sống là Đức Kitô”, hoặc “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Mầu nhiệm Kitô là lời Thiên Chúa muốn nói với nhân loại và nhân loại có bổn phận phải lắng nghe và đón nhận, giống như “hạt giống rơi nhằm đất tốt nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13:8).

3) “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”

Chúa Cha nói với ta. Chúa Con là tất cả những điều Chúa Cha nói với ta. Nhưng làm sao ta hiểu được những điều Chúa Cha nói, đó là vai trò của Chúa Thánh Thần.

Chúa Cha phán dạy ba môn đệ trên núi Ta-bô-rê: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Hãy vâng nghe lời Người nghĩa là nghe Người dạy dỗ, nhưng nhất là biết nhìn nhận ra sứ mệnh cứu thế của Người và tin vào Người. Chúa Cha cũng đã nhắc nhở điều này: “Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3;16). Các môn đệ đã đi theo Chúa Giêsu một thời gian khá dài. Vậy mà các ông vẫn không nhận rõ thân thế, sự nghiệp và sứ mệnh của Người. Các ông phải đợi tới khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, “xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2:3-4), dần dần các ông mới thấu hiểu được “nhiều điều khác” Chúa Giêsu chưa thể nói vì các ông “không có sức chịu nổi” (Ga 16:12).

Vai trò của Chúa Thánh Thần là giúp ta hiểu Lời của Thiên Chúa, tức là tất cả những điều Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi con người Đức Kitô. Chúa Thánh Thần không chỉ hoạt động khi linh hứng cho các tác giả viết xuống lời Chúa, nhưng vẫn tiếp tục hoạt động nơi ta khi ta đọc và suy niệm lời Chúa. Tuy nhiên, hiểu lời Chúa không chỉ bằng trí óc, mà phải hiểu bằng đời sống của ta. “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như một người khi xây nhà đặt nền móng trên đá” (Lc 6:47-48). Lời Chúa nếu không được Chúa Thánh Thần tác động thì cũng chỉ trơ trơ ra đó, không ích lợi gì cho ta. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần chỉ đưa ta “tới sự thật toàn vẹn” khi ta cộng tác với sự hướng dẫn của Người. Tiếp nhận trong thái độ mở lòng là công việc của ta, còn làm cho Lời sinh hoa kết quả là công việc của Chúa Thánh Thần.

Chỉ bảo dạy dỗ ta là công việc linh hoạt của Ba Ngôi Thiên Chúa, mục đích giúp ta được dần dần biến đổi thành tạo vật mới để “được sống muôn đời”. Chúa Cha nói với ta mọi giây mọi phút trong cuộc đời, Chúa Con hiện diện với ta “mọi ngày cho đến tận thế” và Chúa Thánh Thần đang trên đường dẫn ta “tới sự thật toàn vẹn”. Một cách đặc biệt, Thiên Chúa Ba Ngôi đang sống trong ta, nhưng liệu ta có “sống” mầu nhiệm Ba Ngôi hay không thì lại là vấn đề khác.

4) Suy nghĩ và cầu nguyện

Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Vậy tôi đã tránh né không nghĩ đến vì không thể hiểu, hay vì tôi không nhận ra khía cạnh thực hành?

Tôi có xác tín mình cần “nghe” được tất cả những gì Thiên Chúa muốn “nói” với tôi qua Chúa Kitô và “hiểu/sống” những điều ấy nhờ Chúa Thánh Thần không? Toi sẽ làm gì để nghe và thực hành lời Chúa?

Cầu nguyện

“Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,

xin giúp con quên mình hoàn toàn

để ở lại trong Chúa,

lặng lẽ và an bình

như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.

lạy Đấng thường hằng bất biến,

mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con, hay làm cho con ra khỏi Chúa;

nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con

tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!

Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,

xin biến hồn con thành chốn trời cao,

thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,

nơi Chúa nghỉ ngơi.

Ước chi

con không bao giờ để Chúa ở đó một mình

nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,

với thái độ nhạy bén trong đức tin,

cung kính tôn thờ

và phó mình cho Chúa sáng tạo.”

- Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 31)

 

55. Sống đời sống Thiên Chúa

Năm 1961, sau khi người Cộng sản Liên Xô phóng được lên không gian phi thuyền đầu tiên có người điều khiển và trở về trái đất thì có người đã tuyên bố: Chúng tôi đã lục lọi khắp cùng thượng tầng không gian mà chúng tôi không gặp một ông già nào có tên là Đức Chúa Trời cả.

Người ta phủ nhận Thiên Chúa. Nhưng việc người ta phủ nhận Thiên Chúa không làm chứng vì thế mà Thiên Chúa không có. Cũng như người ta có phủ nhận mặt trời thì mặt trời vẫn là mặt trời, vẫn chói lọi trên đầu chúng ta.

Hôm nay, trong bài đọc I, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng cách đây ba ngàn năm, có một dân Israel, đã khẳng định có Thiên Chúa, “chúng tôi đã gặp Người”. Người đã tuyển chọn dân ấy, đã đưa ra khỏi Ai Cập, làm bao nhiêu sự lạ và hôm nay, giữa chớp lòe sấm vang đã ban Mười Điều Răn, khiến cho toàn dân phải kêu lên: “Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác”.

Thiên Chúa là một! Nhưng Chúa Giêsu xuống thế, Người hé mở cho chúng ta một mầu nhiệm: Thiên Chúa là một nhưng có Ba Ngôi. Ngài mặc khải cho chúng ta chính đời sống thần linh của Thiên Chúa. Người nói cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha. Người và Chúa Thánh Thần là mối giây tình yêu liên kết Người với Cha và liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Vậy những gì chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi là do chính kinh nghiệm và lời giảng của Chúa Giêsu. Người cầu nguyện cùng Chúa Cha, Người nói lời của Chúa Cha cũng như Người hứa ban Thánh Thần. Người hành động với sức mạnh Thánh Thần, rồi Người dạy ai muốn theo Người phải được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phải sống mầu nhiệm Ba Ngôi vì chính đó là sự sống của Thiên Chúa.

Mầu nhiệm ấy chúng ta mừng hôm nay. Vì là mầu nhiệm, trí khôn chúng ta không thể hiểu thấu được. Hình như khi tạo dựng người ta “giống hình ảnh Chúa”, Thiên Chúa đã tạo nên chung quanh chúng ta và trong chúng ta những hình ảnh Chúa là một mà có Ba Ngôi. Ví dụ, con người ta có một nhưng trải qua ba giai đoạn: trẻ, trung niên và già -ba giai đoạn nhưng một cuộc đời. Linh hồn có các cơ năng: trí nhớ, trí hiểu và trí lý luận –ba cơ năng của một linh hồn. Nước là một, nhưng có ba hình thức: mây vi vu trên trời, khối đá đông đặc, nước chảy dưới cầu, đều là nước dưới ba hình thức. Biểu hiệu trên quốc kỳ nước Công giáo Ái Nhĩ Lan là một chiếc lá với ba khía cạnh ám chỉ Thiên Chúa là một nhưng có Ba Ngôi.

Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, vì chính đó là đời sống căn bản thần linh. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, tâm hồn ta trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi và Chúa mời gọi ta sống đời sống của Chúa Ba Ngôi.

 

56. Tôn thờ Chúa Ba Ngôi trong đời sống

(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)

Trong thời Cựu ước, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi không được mạc khải cho dân được chọn. Bị bao vây bởi các dân thờ đa thần, dân Do thái được Thiên Chúa truyền dậy qua Môsê là họ phải tôn thờ một Thiên Chúa là Chúa tể duy nhất, hằng hữu, toàn năng và chân thật, ngoài ra không có chúa nào khác (Đnl 4:39). Đó là điều thiết yếu trong tôn giáo độc thần của họ. Do đó, đề cập đến mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi có thể khiến họ lầm tưởng rằng có ba chúa hay ba thần. Mà ba chúa hay ba thần là điều trái nghịch với nền tôn giáo độc thần của họ, lại còn có thể làm giảm lòng tin của họ vào một Chúa.

Thế nên Thánh kinh Cựu ước không nói gì về mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi. Đôi khi Thánh kinh Cựu ước mới ám chỉ, chứ không nói rõ, về Ba ngôi Thiên Chúa. Chẳng hạn như trong sách Sáng thế, Thiên Chúa dùng số nhiều để nói về mình: Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh chúng ta (St 1:26). Đại danh từ ngôi thứ nhất số nhiều ở đây là chúng ta, ám chỉ rằng có hơn một ngôi vị nơi Thiên Chúa.

Chỉ khi Chúa Giêsu xuống thế làm người chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa và hứa sai Chúa Thánh thần xuống để an ủi, thánh hoá và ban sức mạnh thiêng liêng cho loài người, thì tín điều Ba Ngôi Thiên Chúa mới được tỏ hiện. Khi ông Gioan tiền hô làm phép rửa cho Đức Giêsu ở sông Giođan, thì Chúa Thánh thần và Thiên Chúa Cha cũng được bày tỏ. Khi ra khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán: Đây là Con yêu quí của Ta, Ta hài lòng về Người (Mt 3:16-17). Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu còn bầy tỏ cho các tông đồ về Chúa Thánh thần: Thầy ra đi thì có lợi cho chúng con hơn. Nếu Thầy không đi, Đấng Phù Trợ sẽ không đến với chúng con (Ga 16:7).

Như vậy trong dòng lịch sử cứu độ, Chúa Cha được bầy tỏ trước tiên, rồi đến Chúa Con, rồi đến Chúa Thánh Thần. Ba ngôi trong một Chúa là một Mầu nhiệm. Ta có thể dùng hình tam giác cân để diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong hình tam giác cân và đều, ta thấy ba cạnh và ba góc đều nhau và bằng nhau, nhưng chỉ là một hình tam giác. Thánh Patriciô dùng một lá tam diệp thể (shamrock) để so sánh mầu nhiệm Ba Ngôi Một Chúa. Ngài hỏi dân Ái Nhĩ Lan xem họ thấy bao nhiêu lá tam diệp thể. Họ trả lời một. Rồi Ngài hỏi vậy có bao nhiêu lá. Họ nói có ba. Khi học kinh bổn thời tiền Công đồng Vaticanô II và sau đó một thời gian, ta còn nhớ học bằng cách tự hỏi, rồi tự thưa. Những người sinh trước Công đồng Vaticaanô II hẳn còn nhớ thưa thế nào cho câu hỏi: Hỏi Đức Chuá Trời có mấy ngôi? Rồi người học tự thưa theo sách, hay thưa theo những người đọc thuộc lòng: Thưa Đức Chúa Trời có Ba ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh Thần. Rồi Sách lại hỏi thêm: Hỏi trong Ba Ngôi, có Ngôi nào trước, Ngôi nào sau, Ngôi là hơn, Ngôi nào kém chăng? Họ lại tự thưa theo sách Bổn: Thưa Ba Ngôi cũng bằng nhau. Sở dĩ trước đây giáo dân học kinh bổn thuộc lòng như vậy là vì người ta thiếu sách vở, và có những người lại không biết đọc. Việc học thuộc lòng còn có điểm lợi là ghi tạc vào tâm khảm của họ một niềm tin vững chắc như kiềng ba chân.

Một trong những điều Giáo hội muốn nhắc nhở cho ta về Chúa Ba ngôi là dấu thánh giá. Dấu thánh giá nhắc nhở cho ta về lòng tin vào hai mầu nhiệm quan trọng trong đức tin người công giáo là mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi và mầu nhiệm cứu chuộc. Ta thấy linh mục rửa tội nhân danh Chúa Ba ngôi như lời Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay: Hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần (Mt 28:20). Các bí tích khác cũng được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong phần đầu lễ, linh mục chủ tế dùng lời chúc bình an của thánh Phaolô để chào đón giáo dân tham dự thánh lễ như sau: Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em. Linh mục kêu cầu Chúa Ba Ngôi khi cử hành Bí tích Giải Tội. Linh mục sức dầu bệnh nhân, nhân danh Chúa Ba Ngôi. Đức giám mục cử hành Bí tích Thêm sức trong dấu thánh Chúa Ba Ngôi. Ta bắt đầu và kết thúc kinh đọc bằng dấu thánh giá tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Trước khi ăn, ta cũng làm dấu thánh giá, tạ ơn Chúa Ba ngôi cho ta của ăn hàng ngày.

Biết được có mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi còn làm giàu cho đời sống thiêng liêng của người tín hữu. Biết được có Chúa Cha là Đấng tạo dựng loài người, Chúa Con là Đấng cứu chuộc nhân loại, Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, an ủi, ban sức mạnh thiêng liêng giúp ta dễ dàng cầu nguyện, biết phải xin với Ngôi Vị nào cho thích hợp. Xét về phương diện thần học thì khi ta cầu nguyện với một Ngôi Vị là ta cầu nguyện với Ngôi Vị kia vì Ngôi Cha, Ngôi Con, Ngôi Thánh Thần là một Chúa. Tuy nhiên xét theo tâm lý học, thì để cho ăn chắc, ta có thể cầu nguyện với cả Ba Ngôi Vị cùng lúc như: Lậy Thiên Chúa Ba Ngôi, con thờ lạy, chúc tụng và tạ ơn Ba Đấng. Con xin Ba Đấng ban cho con được thế nọ, thế kia vân vân...

Thiết tưởng hôm nay nhân ngày lễ kính Chúa Ba Ngôi ta cần trả lời vài thắc mắc sau đây: Ta có ý thức được chỗ đứng của Chúa Ba ngôi trong đời sống chưa? Dấu thánh giá ta làm có nhắc nhở cho ta về lòng tin vào Chúa Ba ngôi không? Ta có làm dấu thánh giá cách ý thức và kính cẩn, hay làm một cách cẩu thả, vô ý thức?

Lời cầu nguyện: xin cho được biết tôn thờ Chúa Ba Ngôi.

Lậy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng!

Con thờ lậy, đội ơn và chúc tụng Ba ngôi Thiên Chúa.

Con cảm tạ Chúa đã tạo thành nên con.

Xin Ngôi Hai Thiên Chúa tiếp tục công việc cứu độ nơi con.

Nguyện xin Chúa Thánh Thần thánh hoá đời sống con.

Xin đến phù trợ mỗi khi con làm dấu thánh giá,

kêu cầu đến Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.

 

57. Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA BA NGÔI TRONG TRẦN GIAN

Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng trọng thể mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm mẹ trong tất cả các mầu nhiệm.

Vì thế, mọi cử hành phụng vụ đều hướng về mầu nhiệm này như là điểm quy chiếu, mấu chốt, cốt lõi phát sinh mọi nguồn thiện hảo do lòng xót thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Trong lịch sử cứu độ, mọi diễn biến của vũ trụ và con người từ khi tạo dựng trời đất, muôn vật, đến thời Đức Giêsu xuống thế làm người, chịu chết, sống lại và lên trời cho đến khi Chúa Thánh Thần hiện xuống tới nay, đều có sự hợp nhất trong mọi hoạt động của cả Ba Ngôi.

Tuy nhiên, để cho dễ hiểu, Giáo Hội hướng về Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật, muôn loài. Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa trần gian. Qua đó, chúng ta dễ dàng hiểu về sự hiệp nhất trong đa dạng của Ba Ngôi Thiên Chúa.

1. Lòng thương xót của Chúa Cha trong lịch sử cứu độ

Khởi đi từ công trình tạo dựng: Kinh Thánh diễn tả tình trạng hỗn mang trước khi được Thiên Chúa chúc lành. Sự trật tự chỉ có khi Người can dự, tác tạo cũng như phân chia vai trò và phú bẩm đặc tính cho từng loài.

Đỉnh cao của công trình tạo dựng ấy là việc sáng tạo con người giống hình ảnh Người. Người còn cho con người vinh hạnh cộng tác vào công trình tạo dựng ấy qua việc tác sinh và trông nom, canh tác “Vườn”. Đây là đặc trưng biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa.

Nhưng Tổ tông đã không nghiệm được lòng thương xót ấy, nên đã kiêu ngạo, phản bội, bất trung với Thiên Chúa. Vẫn một dạ thương xót, nên Người đã không bỏ mặc. Ngược lại, ngay lập tức, Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ sẽ đến để chuộc những gì đã mất.

Cứ thế, trong suốt dọc dài lịch sử thời Cựu Ước, Thiên Chúa luôn theo sát dân Người như hình với bóng để xót thương con người cách đặc biệt. Vì thế, Người không màng chi đến những lời than phiền, trách móc, bất trung, vô ơn, phản bội của họ.

Tình thương ấy không phải trong khái niềm trừu tượng, nhưng nó được hiện tại hóa nơi những hành vi của Người như: giải cứu dân thoát khỏi biết bao tai ương, hoạn nạn; đưa dân từ cảnh nô lệ trở về Đất Hứa trong tư cách của người tự do; nuôi sống dân bằng “Bánh Bởi Trời và Nước từ tảng đá vọt ra”. Người đã gửi nhiều vị trung gian đến để giải thoát dân khỏi đau khổ thể xác, bình an tâm hồn, đồng thời dẫn dân đi trong đường lối xót thương để được cứu độ.

Tuy nhiên, khi yêu thương như vậy, lòng dạ Thiên Chúa vẫn chưa thỏa lòng, nên vào thời sau hết, Người đã trao tặng cho nhân loại chính Con Một dấu ái của mình là Đức Giêsu, để Ngài trực tiếp mạc khải trọn vẹn về lòng xót thương của Thiên Chúa cho nhân loại.

2. Lòng thương xót của Đức Giêsu nơi công trình cứu chuộc

Đến lượt Đức Giêsu, Ngài đã đến trần gian như một người nghèo. Nghèo đến độ cha mẹ Ngài không đủ tiền để thuê một phòng trọ cho đàng hoàng nơi đêm vắng hoang vu để Ngài hạ sinh. Cũng chính cái nghèo này mà Ngài phải giáng trần trong hang bò lừa hoang vu giá lạnh. Vì thế, những người biết đến để thờ lạy chẳng ai khác, họ cũng là những mục đồng nghèo và những người xa lạ như ba nhà Chiêm Tinh.

Cuộc đời ấu nhi của Đức Giêsu không được êm ả ngay từ lúc mới chào đời... nên chỉ ít hôm sau khi sinh, Ngài đã phải cùng với cha mẹ mình chạy trốn sự tàn độc của con cáo già Hêrôđê gây nên.

Trong suốt thời gian sống tại gia đình nơi làng quê Nazaretz, Đức Giêsu sống bình thường giản dị như bao người thời đó.

Hết thời gian ấy, Ngài ra đi thi hành sứ vụ. Tuy là Con Thiên Chúa, Ngài cũng không dành cho mình những đặc quyền, đặc lợi, nhưng vẫn sống tinh thần nghèo. Nghèo đến độ: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, con người...”. Ngài cũng không tìm đến với những người mũ mão cân đai, lắm tiền nhiều bạc, quyền cao chức trọng trong dân. Ngược lại, luôn “chạnh lòng thương” đến với những người cùng đinh của xã hội. Họ là những người nghèo về tinh thần lẫn vật chất. Họ cũng là những người thấp cổ bé họng, luôn bị áp bức, bóc lột... nên khi đến, Đức Giêsu đã giải thoát họ cả về tinh thần lẫn thể xác... Vì thế, cái giá phải trả đó chính là sự phản bội của môn đệ, bị bắt bớ, mạ lỵ, vu vạ, đánh đập và giết chết như một tử tội...

Như vậy, cả cuộc đời Đức Giêsu, Ngài luôn làm lộ hiện lòng thương xót của Thiên Chúa trên nhân loại và từng người, để con người hiểu được tâm tư, lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, và chính họ cũng biết thương xót như đã được xót thương...

Con đường ấy không kết thúc khi Ngài trở về trời, nhưng đã được chuyển trao cho Chúa Thánh Thần, để Người tiếp nối con đường thương xót của Thiên Chúa nơi các chứng nhân qua việc bảo trợ và thánh hóa.

3. Lòng thương xót của Chúa Thánh Thần qua việc thánh hóa

Nói về thời của Chúa Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò thánh hóa và bảo trợ Giáo Hội.

Người thánh hóa Giáo Hội, để Giáo Hội như người mẹ, luôn trung thành với sứ mệnh xót thương nhân loại đã được Đức Giêsu ủy thác. Đồng thời, luôn trở thành những sứ giả phản chiếu sự trung thực của lòng thương xót Chúa đến với anh chị em. Ngõ hầu tâm tư của người môn đệ được quyện hòa vào thao thức của Đức Giêsu, để những người tiếp bước không bị rơi vào vòng luẩn quẩn của sự ác nhân, thất đức, cũng như những tiện nghi sang trọng không phù hợp với đường thương xót của Thiên Chúa và những giá trị Tin Mừng.

Bên cạnh đó, Chúa Thánh Thần luôn biến đổi những con người khô khan, nguội lạnh, ác độc..., trở nên những con người sốt sắng, đạo đức và nhân hậu...

Lòng thương xót ấy còn được thể hiện qua việc Người luôn bảo vệ Giáo Hội khỏi biết bao nguy khốn đang ngày đêm tấn công. Vì thế, Người luôn bào chữa, phù trợ, để giúp cho các chứng nhân khôn ngoan trước những chất vấn về niềm tin và hy vọng của con người.

Có lẽ điều quan trọng hơn cả, đó là Chúa Thánh Thần luôn thánh hóa để người muôn nước được hiệp thông với nhau trong đức tin, đức cậy, đức mến. Để dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, Giáo Hội vẫn là một Giáo Hội hiệp nhất trong đa dạng theo khuôn mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Như vậy, Chúa Thánh Thần luôn ở bên chúng ta như hình với bóng, như hơi thở, như ánh sáng..., để giúp chúng ta yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa cho phải đạo. Qua đó, chúng ta được hưởng trọn vẹn lòng thương xót của Thiên Chúa.

4. Tin Thiên Chúa là làm cho lòng thương xót của Người được hiện tại hóa

Mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy yêu mến, cậy trông và tin thờ Chúa Ba Ngôi hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Đồng thời biết quy hướng về Người trong mọi chiều kích như là điểm khởi đầu và cùng đích của chúng ta.

Tuy nhiên, “đức tin không có việc làm là đức tin chết”, vì thế, việc yêu mến, cậy trông và tin thờ ấy không chỉ dừng lại ở việc khấn nguyện, kinh sách, lễ lạy... nhưng thiết nghĩ, trách nhiện của chúng ta là phải làm cho hình ảnh của Thiên Chúa được hiện tại hóa trong cách ăn nết ở, để người ta thấy cách sống của mình, họ nhận ra khuôn mặt và lòng dạ thương xót của Thiên Chúa.

Những biểu hiện đó có thể là: một nghĩa cử hiệp thông với những người bị áp bức, bóc lột, đối xử bất công...; một đôi tai và trái tim nhạy bén với những dấu chỉ thời đại; một đôi tay nhân ái, một đôi chân bước ra khỏi sự an toàn để đến với những trẻ em mồ côi, người tàn tật, neo đơn; một ánh mắt cảm thông với những người tội lỗi, để tìm cách đưa họ về nẻo chính đường ngay...

Khi lựa chọn những hành vi đó, ấy là chúng ta đang làm cho đường thương xót của Thiên Chúa từ trời đến với con người và làm cho con người được đi trong đường thương xót ấy để về trời.

Lạy Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần, xin xót thương và ban ơn cứu độ cho chúng con. Xin cũng ban cho chúng con được trở nên chứng nhân của lòng thương xót Chúa trong cuộc sống hằng ngày nơi xã hội hôm nay. Amen.

 

58. Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần

(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)

Trong đời sống đức tin của chúng ta, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm căn bản, trọng tâm của các mầu nhiệm khác. Nói cách khác, đây chính là mầu nhiệm mẹ của các mầu nhiệm. Đã là mầu nhiệm, với sự hiểu biết của con người, chúng ta không thể biết nếu không được mặc khải. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi - Nhất Thể mà lại Tam Vị quả thật là một mầu nhiệm vượt lên trên trí hiểu của con người. Chúng ta chỉ có thể biết được phần nào qua sự mặc khải của chính Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống, và cũng là một trong Ba Ngôi Vị đó.

1. Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa

Đức Giêsu là "Logos - Lời" của Thiên Chúa Cha. Lời quyền năng của Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa đã được tỏ hiện nơi các mặc khải của Đức Giêsu qua việc cho người mù được sáng mắt; kẻ què được đi; người phong hủi được sạch; và người điếc được nghe cùng kẻ chết sống lại; người nghèo khó được nghe loan báo Tin Mừng (x. Mt 11,4-5; Lc 7,22). Đức Giêsu cũng được ví như hạt giống; cửa sự sống; cây nho; là cử đàn chiên... (x. Mt 7,13-14; Ga 12,24; Ga 10,7-9; 14,6; Ga 15,1-2; Ga 10,11; Lc 15,4-7).

Như vậy, Đức Giêsu chính là "Lời" của Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa. Hiện hữu giữa trần gian là để mặc khải về Nước Thiên Chúa, về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, hầu đưa nhân loại về với Cha trong ý định ban đầu của Người. Nhưng trước hết, không những chỉ biểu lộ chính mình, Đức Giêsu còn biểu lộ Chúa Cha là Đấng Đồng Nhất với Ngài.

2. Đức Giêsu mặc khải về Chúa Cha

Mặc khải đầu tiên được khởi đi qua biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan xong, các tầng trời mở ra và có Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Ngài như chim bồ câu, đồng thời có tiếng Chúa Cha tuyên phán: "Con là Con Ta yêu dấu." (Mt 1,11).

Tiếp theo, Thiên Chúa Cha được mặc khải như là tình Phụ Tử trong sứ điệp của Đức Giêsu: trong các sách Tin Mừng, Thiên Chúa được gọi là Cha trên 170 lần. Điều mới mẻ nơi Đức Giêsu là không những Ngài đã giảng về lòng từ phụ của Thiên Chúa, nhưng Ngài còn gọi Thiên Chúa bằng tiếng "Abba" trong lời kinh của Ngài. Tiếng "Abba" thì chỉ một mình Marcô ghi lại (x. Mc 14,36), nhưng cách gọi Thiên Chúa là Cha thì rất nhiều: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha... vì Cha đã mặc khải cho những người bé mọn."(Mt 11,25). Hay: "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha." (Lc 23,46; x. Ga 17,1.5.11.21.25). Đức Giêsu thường xuyên gọi Thiên Chúa như thế. Sự kiện ấy nói lên tương quan đặc biệt giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa, một kinh nghiệm thân ái độc nhất vô nhị mà Đức Giêsu nhận được trong lời kinh của Ngài. Giữa Ngài và Thiên Chúa có một tương quan đặc biệt đến nỗi "không ai biết được Con trừ phi có Cha, và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con mặc khải ra cho" (Mt 11,27). Mạc khải về Chúa Cha còn phát xuất từ kinh nghiệm, lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha là Chúa trời đất" (Mt 11,25), nghĩa là của toàn vũ trụ. Đức Giêsu cũng đã dạy các môn đệ đọc lời kinh "Lạy Cha" (x. Mt 6,9-13; Lc 11,2-4). Chính tương quan độc đáo ấy đã giúp cho các Tông đồ sau biến cố phục sinh nhận ra Đức Giêsu là Con Một của Thiên Chúa.

Ngoài ra, chúng ta có thể hiểu được mặc khải về Chúa Cha qua hình ảnh của một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân từ (x. Mt 5,45; x. Lc 6,35); là Đấng giàu lòng thương xót (x. Lc 15,7); là Đấng Quan Phòng (x. Mt 6,27). Người theo dõi đến cả số phận những con vật nhỏ bé phải "rơi xuống đất" (x. Mt 6,29).

Kế đến, chúng ta sẽ được biết về Chúa Thánh Thần qua mặc khải của Ngài.

3. Đức Giêsu mặc khải về Chúa Thánh Thần

Khởi đầu Mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Đức Maria (x. Lc 1,35). Tiếp theo sau là vai trò của Chúa Thánh Thần trên cuộc đời của Chúa Giêsu: Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu khi Ngài chịu phép rửa dưới hình chim bồ câu (x. Lc 3,22). Chúa Thánh Thần đã dẫn Đức Giêsu "vào hoang địa bốn mươi ngày" (x. Lc 4,1-2). Rồi chính Đức Giêsu đã nói về sự hiện diện của Thánh Thần trong cuộc đời và sứ mạng của Ngài: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó...". Khi trừ Quỷ, Đức Giêsu đã khẳng định quyền năng của Ngài khi nói: "Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông." (Mt 12,28). Đức Giêsu đã đề cao vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc từ chối hay đón nhận: "Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau." (Mt 12,31-32). Hay nói về Chúa Thánh Thần như một món quà cao quý mà Thiên Chúa trao ban cho con người: "Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người?" (Lc 11,11-13). Và khi nói đến sự liên kết giữa việc yêu mến và giữ lời, Đức Giêsu hứa ban Chúa Thánh Thần: "Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Ðó là Thần Khí sự thật." (Ga 14,15-17). Biết mình sắp từ giã các Tông đồ, Ngài đã mặc khải cho các ông biết về vai trò và sứ mạng của Chúa Thánh Thần: "Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật xuất phát từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy." (Ga 15,26-27; x. 16,13). Khi bị treo trên Thập giá, trước lúc tắt thở, Ngài đã thốt lên: "Thế là đã hoàn tất!". Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí (x. Ga 19,29-30). Sau khi phục sinh, Đức Giêsu đã trao bình an và sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho các Tông đồ, đồng thời cũng ban quyền tha tội cho các ông:"Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.". Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20,22-23).

Tắt một lời, nhờ Đức Giêsu mặc khải, chúng ta biết được Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Thật vậy,"Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài (x. Ep 1,9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 Pr 1,4). Nhờ mặc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như phần rỗi của con người được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Đấng Trung Gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn mạc khải." (x. Dei Verbum, số 1, 2).

4. Sống tinh thần mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi

Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong tương quan cá nhân

Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên thụ tạo mới, được mang danh là người Kitô hữu, được trở nên hình ảnh sống động của Đức Kitô. Nói theo ngôn ngữ của Thánh Tôma Aquinô thì, nhờ Bí tích, chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô; được trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần; chúng ta được Thiên Chúa yêu thương: "Ta sẽ cư ngụ và đi lại giữa họ, sẽ là Thiên Chúa của họ và họ sẽ là dân riêng của Ta." (2 Cr 6,15).

Vì vậy, qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Kể từ đây, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Sống khiêm tốn, thánh thiện là điều kiện để xứng đáng trở nên đền thờ của Thiên Chúa ngự. Đồng thời chúng ta hãy sống thân tình với Chúa như Cha với con. Hãy học lấy tâm tình của Đức Giêsu khi Ngài thưa chuyện với Cha Ngài. Bởi vì Thiên Chúa ở trong cung lòng của ta, Người sẵn sàng nghe lời ta nói.

Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong tương quan gia đình

Đã nói đến gia đình là nói đến sự hiệp nhất. Nếu không hiệp nhất thì không thể nào đón nhận nhau trong cùng một ngôi nhà, cùng một mâm cơm... Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi phải được coi như là mẫu mực tuyệt đối của sự yêu thương và hiệp nhất: Chúa Cha và Chúa Con nên một nhờ Thần Khí (x. Ga,15.26). Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đã làm toát lên điều đó: "Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như Chúng Ta." (Ga 17,11).

Trong đời sống gia đình, mỗi thành viên hãy biết yêu thương nhau. Luôn biết hướng tha để đùm bọc nhau. Hạnh phúc của người khác là điều chúng ta cần quan tâm hơn. Hãy noi theo hành động xuất ngoại của Thiên Chúa khi ngôi này vì ngôi kia và ngược lại nhưng vẫn chỉ là một Chúa duy nhất. Được như thế, thì dù gia đình chúng ta có đông người nhưng cũng chỉ là một. Tuy nhiên duy nhất, nhưng vẫn phải trung thành với những bổn phận riêng biệt của mình trong vai trò là chồng, là vợ, là con cái... Mỗi người phải sống đúng với địa vị và vai trò của mình. Vợ chồng biết tôn trọng lẫn nhau. Cha mẹ sống đúng với vai trò của cha mẹ, luôn làm gương sáng cho con cái bằng chính đời sống tiết độ, công chính của mình. Con cái phải biết vâng phục cha mẹ trong tâm tình yêu mến và thảo hiếu, như Đức Giêsu luôn vâng phục Chúa Cha (x. Ga 4,34; Dt 5,8-9).

Như vậy, mỗi khi mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là mỗi lần chúng ta xác tín vào Chúa Ba Ngôi. Một Thiên Chúa luôn yêu thương, tha thứ và quan phòng. Một Thiên Chúa luôn làm chủ vũ trụ và con người trong vai trò thánh hoá và biến đổi. Đồng thời, mỗi khi mừng lễ, chúng ta hãy xin Chúa cho mỗi chúng ta thêm lòng yêu mến Chúa và sống yêu thương nhau nhiều hơn. Mặt khác, chúng ta hãy hãnh diện tuyên xưng về sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi trong đời sống hằng ngày qua việc thành kính tuyên xưng Chúa Ba Ngôi mỗi khi làm dấu Thánh giá.

Lạy Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con tin Chúa, phó thác, yêu mến Chúa. Xin cũng cho chúng con biết yêu thương nhau và sống đúng vai trò của mình trong cuộc sống hằng ngày theo khuôn mẫu Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.

 

59. Ba Ngôi nhưng là một Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Hôm nay, chúng ta cử hành lễ Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm vĩ đại, thẳm sâu và trung tâm đức tin Đạo Công giáo, trong đó Ba Ngôi phát xuất từ nhau và trở về với nhau. Ba Ngôi Cha, Con, Thánh Thần, nhưng là Một Thiên Chúa, duy nhất trong sự hiệp thông và hiệp thông trong duy nhất, đồng thời, khác biệt nhưng cùng một bản thể và ngang hàng bằng nhau.

Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm chúng ta không thể nào diễn tả được. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cho ta biết được mầu nhiệm ấy khi Ngài tự mạc khải là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa mạc khải rằng Thiên Chúa là Cha từ muôn thuở, và Chúa Con là Đấng đồng bản thể với Chúa Cha, nghĩa là, Chúa Con là Thiên Chúa duy nhất trong Chúa Cha và cùng với Chúa Cha. Sứ vụ của Chúa Thánh Thần, Đấng Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, và Chúa Con sai đến “từ nơi Chúa Cha” (Ga 15,26), mạc khải rằng Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con là một Thiên Chúa duy nhất. “Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con”. “Chúa Thánh Thần chủ yếu xuất phát từ Chúa Cha, mà từ đời đời Chúa Cha ban tặng cho Chúa Con, nên Chúa Thánh Thần xuất phát chung từ Hai Ngôi”. (GLHTCG số 261-262).

Theo thánh Grégoire de Nazianze (329 – 390) : Ba Ngôi có cùng một bản tính, nhưng khác biệt về ngôi vị : Ngôi  Cha  “bất thụ sinh”, Ngôi Con “nhiệm sinh”, Ngôi Thánh Thần “nhiệm xuất”. Thánh Thần, Đấng nhiệm xuất bởi Cha, thì không phải là một thụ tạo ; hơn nữa vì Ngài không được sinh ra, nên Ngài không phải là Con ; nhưng vì Ngài ở giữa Đấng bất thụ sinh và Đấng nhiệm sinh, nên Ngài là Thiên Chúa ...

Theo Grégoire de Nysse (331 ? – 394) : Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa, vì đồng bản tính, nhưng khác biệt nhau vì Ngôi Hai bởi Cha mà ra và chỉ mình Người là Con Một, còn Ngôi Ba bởi Ngôi Cha qua Ngôi Con mà có, nên gọi là Thánh Thần của Chúa Kitô. Chỗ khác ngài khẳng định Tam Vị Nhất Thể, Ngôi Cha là nguyên ủy và Hai Ngôi kia là do nguyên ủy, Ngôi Con mãi mãi là Con, còn Thánh Thần xuất bởi Ngôi Cha qua Ngôi Con.

Theo thánh Augustinô (354 – 430 ): Ba Ngôi là một sự hằng hữu duy nhất, một quyền năng duy nhất : “Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần thuộc về một bản thể duy nhất và đồng nhất, là Thiên Chúa sáng tạo, là Ba Ngôi toàn năng” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, IV, xxi, 30). Do thuộc cùng một bản thể, Ba Ngôi ngang hàng với nhau đến nỗi “Chúa Cha không lớn hơn Chúa Con về thần tính, Chúa Cha và Chúa Con cùng với nhau cũng không lớn hơn Chúa Thánh Thần, từng Ngôi riêng biệt cũng không kém hơn chính Ba Ngôi” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngội, VIII ). Là ba, nhưng không phải là ba Thiên Chúa, mà chỉ là một Thiên Chúa.

Chúa Cha là Thiên Chúa, Chúa Con là Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Tuy nhiên đó không phải là ba Thiên Chúa, nhưng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là chính Ba Ngôi (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, V, viii, 9).

Tương quan giữa Ba Ngôi phân biệt, nhưng không phân chia sự duy nhất. Chúa Cha luôn luôn là Cha và Chúa Con luôn luôn là Con. Nếu có lúc Chúa Con bắt đầu là Con thì một ngày nào đó sẽ thôi là Con. Nếu Chúa Cha có khởi đầu là Cha thì có lúc thôi là Cha. Chúa Cha chỉ được gọi là Cha do Ngài có một người Con, và Chúa Con chỉ được gọi là Con do Ngài có một người Cha. Vì vậy, cho dù có sự khác nhau giữa việc làm Cha và làm Con, bản thể lại không khác nhau, vì các Ngài không được gọi như thế xét về bản thể, nhưng là về tương quan và tương quan này không phải là một tùy thể vì nó không thay đổi” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, V, v, 6).

Lễ Chúa Ba Ngôi là dịp tốt để người Kitô hữu ý thức được sự hiện diện của mầu nhiệm này trong đời sống chúng ta: từ ngày chịu Phép Rửa tội, chúng ta lãnh nhận nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi cho đến ngày chúng ta trước Mình Thánh Chúa, hiện tại hóa vinh quang của Chúa Cha qua Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô nhờ Chúa Thánh Thần. Đó là dấu chỉ để các Kitô hữu sẽ nhận Dấu Thánh Giá, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Nhiệm vụ của Chúa Giêsu Kitô, Chúa Con là mạc khải Chúa Cha, vì Người là hình ảnh hoàn hảo, và trao ban Chúa Thánh Thần, Đấng mà Người cũng đã mạc khải. Tin Mừng mà chúng ta công bố hôm nay cho thấy: Chúa Con nhận lãnh tất cả từ Chúa Cha trong sự hiệp nhất hoàn hảo :  “Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy”, và Chúa Thánh Thần, Đấng từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Chúa Giêsu nói : “Vì thế Thầy đã nói : Người sẽ lãnh nhận từ nới Thầy mà loan truyền cho các con” (Ga 16,15). Và trong một đoạn văn khác, Chúa Giêsu cũng nói tương tự: "Khi Đấng Phù Trợ đến, Đấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con. Người là Thần Chân Lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy"(Ga 15, 26).

Thật là sự an ủi tuyệt vời mà chúng ta có được Thiên Chúa Ba Ngôi, cao vời và không thể tiếp cận, đến với chúng ta, ở trong chúng ta và làm cho chúng ta đối thoại được với Ngài. Và Chúa Thánh Thần, Ngài dẫn dắt chúng ta đến sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,13). Đây là “phẩm giá vô song của người Kitô hữu”, mà thánh Lêô cả Giáo hoàng đã nói nhiều lần : chúng ta có được nơi mình mầu nhiệm Thiên Chúa, và có chỗ ở trên Trời, nơi Chúa Giêsu Vị Cứu Chúa của chúng ta đang đợi những "công dân" Nước Trời (x. Pl 3,20 ), về cư ngụ nơi cung lòng của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Xin tạ ơn Ngài, lạy Chúa, xin tạ ơn Ngài là Một Chúa Ba Ngôi chân thật và chí tôn chí thánh. Chúa Cha là nguồn tình thương, Chúa Con là mạch ân sủng, Chúa Thánh Thần là suối ơn hiệp thông. Amen.

 

60. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Chúa nhật tiếp theo lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta long trọng cử hành và tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh. Giáo hội giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và uy quyền bằng nhau. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới. Đây là Một trong những mầu nhiệm cao cả nhất của đức tin chúng ta. Quả thật, Giáo hội muốn rằng, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chúng ta phải đi loan báo Thiên Chúa thật cho mọi người, không kể là Do thái hay dân ngoại, cho họ biết Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Ba Ngôi hiệp nhất trong Tình Yêu và ca lên: “Chúc tụng Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Người hằng thương xót chúng ta”. (Ca nhập lễ)

Một trong những mầu nhiệm người tín hữu phải tin cho được rỗi linh hồn là mầu nhiệm Một Đức Chúa Trời có Ba Ngôi. Nhưng làm sao chúng ta có thể mô tả đủ hay hiểu biết về Thiên Chúa Ba Ngôi này. Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Tự sức trí khôn con người là không thể. Phải nại đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, qua Ngài mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Ngài mà chúng ta biết có một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.

Thánh Augustinô viết: Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được.

Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, chúng ta không thể nào diễn tả được. Trí tuệ và miệng lưỡi con người không tài nào giải thích được những mối tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu đức tin của người kitô hữu chúng ta, một trong những cách đó là Dấu Thánh Giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu ngày mới cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm...Dấu Thánh Giá bao trùm toàn thân ta, thể xác và linh hồn; tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Dấu Thánh Giá gói ghém lời tuyên xưng đức tin và nền tảng cầu nguyện của chúng ta.

Dấu Thánh Giá là dấu kẻ có Đạo.

Đức Giêsu đến trần gian nhằm cứu chuộc chúng ta, Người đã chết trên Thánh Giá để trao ban sự sống cho chúng ta. Chính nhờ hy tế của Người trên Thánh Giá mà chúng ta là những người “kitô hữu”, nghĩa là thuộc về Đức Kitô. Dấu Thánh Giá là dấu chỉ người kitô hữu. Chính nhờ dấu này mà chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã đến thế gian để cứu chuộc chúng ta.

Trong năm Phụng vụ, có hai thời khắc giúp người kitô hữu ý thức về giá trị của Dấu Thánh Giá.

- Mùa Phục Sinh chỉ cho chúng ta rằng chúng ta được cứu chuộc nhờ cây Thánh Giá.

- Chúa nhật lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi khi làm Dấu Thánh Giá trên mình.

Dấu Thánh Giá là dấu của người chịu phép Rửa tội, người thuộc về Chúa. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được “vẽ” và “ghi” dấu Thánh Giá. Dấu này bề ngoài không thể thấy được, nhưng in trong tâm hồn người kitô hữu. Đồng thời cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.

Hành động Đức Tin

Dấu Thánh Giá là tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo.

1 – Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác người phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.

2 – Dấu Thánh Giá nhặc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta: Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là chiến thắng của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ hy tế của Chúa Giêsu trên Thánh.

3 – Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc: “ Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần “. Chúng ta khẳng định mầu định Thiên Chúa Ba Ngôi.

Hiểu như thế sẽ giúp chúng ta làm dấu Thánh giá nghiêm túc hơn.

Hành động của Đức Cậy.

Niềm hy vọng của chúng ta, chính là về Trời. Như các thánh, đã ái mộ những sự trên Trời. Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta nên chúng ta có thể về Trời. Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chúng ta, Ngài đã mở cửa Trời cho chúng ta.

Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng ta là đi về Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế.

Hành động Đức Mến.

Thánh Giá gốm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta đối với “tha nhân“.

Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây Thánh Giá đỡ lấy thanh ngang: điều đó ngụ ý rằng tình yêu của chúng ta đối với tha nhân được “nâng đỡ” bởi tình yêu Thiên Chúa.

Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh ngang bị bỏ nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Chúng ta muốn nói rằng trong hành động của đức Ái: “yêu tha nhân là yêu chính Chúa“.

Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi rằng có còn là cây Thánh Giá nữa hay không?

Hai điều cần thiết là: “mến Chúa và yêu người”. Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình nhiều lần: "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Amen.

home Mục lục Lưu trữ