Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 52
Tổng truy cập: 1364351
NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ BƯỚC THEO ĐỨC KITÔ
Những điều kiện để bước theo Đức Giêsu
(Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Được đặt vào trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem, cuộc nói chuyện của Đức Giêsu trong bữa ăn tại nhà một thủ lãnh người Pharisêu (Lc 14,1) nay đã đến lúc kết thúc. Tác giả Tin Mừng III lại giúp độc giả để ý đến bước tiến của Đức Giêsu lên Giêrusalem cũng như đến đám đông đang cùng đi với Người. Tác giả cho thấy Đức Giêsu nói về những điều kiện để làm người môn đệ đích thực (14,25-33). Khi tìm lại văn cảnh trước đó, ta gặp một lời mời gửi đến mọi người trên mọi nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ dậu, đến dự tiệc vương quốc, để “người ta vào đầy nhà cho ta” (c. 23). Nay Đức Giêsu thêm một nhận định mới: điều kiện phải giữ để được làm môn đệ trong Vương quốc. Để được vào Vương quốc, phải đáp ứng những điều kiện riêng, và phân đoạn 14,25-33 ở trong thế song đối đối nghĩa với phân đoạn 14,15-24. Nếu đặt vào trong ngữ cảnh rộng lớn hơn, là bài tường thuật về hành trình, phân đoạn này với nhiều chi tiết nói về việc bước theo Đức Giêsu, bước đi đàng sau Người, lên kế hoạch chuẩn bị cho một công trình, … cung cấp cho tác giả những chi tiết để ngài phác ra đời môn đệ của Đức Kitô.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Mở đầu (14,25);
2) Điều kiện để đi theo Đức Giêsu (14,26-27);
3) Hai dụ ngôn (14,28-32):
- a) Dụ ngôn Người xây tháp (cc. 28-30),
- b) Dụ ngôn Vị vua ra trận (cc. 31-32);
4) Kết (14,33).
3.- Vài điểm chú giải
– dứt bỏ (26): dịch sát là “ghét” (miseô), ngược lại với agapaô, “yêu thương”. Động từ miseôđã được dùng ở Lc 6,22.27 để mô tả thái độ của những người ở ngoài đối với các môn đệ Đức Giêsu. Bây giờ động từ này lại được dùng để nói về tình yêu ưu tiên người ta phải dành cho Đức Giêsu.
– môn đệ tôi (27): Các môn đệ Đức Giêsu đã được nhắc đến ở Lc 5,30; 6,1.13.17.20; 8,9.22; 9,14.16.18.40.43b.54; 10,23;12,1.22. Sau đó họ lại được nhắc đến ở 16,1; 17,1.22; 18,15; 19,29.37.39; 20,45; 22,11.39.45. Trong sách Cv, từ ngữ mathêtai, “các môn đệ”, trở thành từ quen thuộc để gọi các Kitô hữu (6,1.2.7; 9,1.10.19.26.38; 11,26.29; 13,52; 14,20.22.28; 15,10; 16,1; 18,23.27; 19,1.9.30; 20,1.30; 21,4.26 (2x).
– một cây tháp (28): Đây là một tháp canh để bảo vê một ngôi nhà, một mảnh đất, một vườn nho.
– từ bỏ (33): Động từ Hy Lạp apotassomai, như ở 9,61, có nghĩa là “kiếu từ, từ giã” (say good-bye, say farewell). Lời khuyên này làm vọng lại lời khuyên ở 12,33, và sẽ được nhắc lại ở 18,22.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở đầu (25)
Điểm nổi bật nơi Đức Giêsu là sự cương quyết chấp nhận số phận bằng cách nhất định tiến về Giêrusalem. Trên đường đi, có rất nhiều người đi theo Người. Họ muốn ở với Người. Họ tưởng rằng Người có điều gì đó chắc chắn mà nói với họ và có điều gì đó bền vững mà ban cho họ. Họ bị Người thu hút. Đức Giêsu không xua đuổi họ. Nhưng Người cũng không muốn họ đi theo Người với những nỗi niềm chờ mong sai lạc. Người nói với họ rõ ràng.
Chúng ta thấy Đức Giêsu đã ba lần nêu lên những yêu cầu cho những ai muốn đi theo Người, và mỗi lần Người đều kết luận như nhau, “… thì không thể làm môn đệ tôi được” (cc. 26.27.33). Người khiến chúng ta có ấn tượng là Người muốn họ bỏ Người thay vì lôi kéo họ đến với Người.
* Điều kiện để đi theo Đức Giêsu (26-27)
Ai gắn bó với Đức Giêsu, thì cần biết mình phải đáp ứng những yêu cầu nào. Các điều kiện Người nêu ra không chỉ được đề nghị riêng cho một ít người tuyển chọn, nhưng cho tất cả những ai đang đi với Người.
Trước tiên, Người yêu cầu phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Chẳng phải là điều răn yêu thương người thân cận đã bị đảo lộn rồi sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự ghét bỏ đối với họ? Nhưng ý nghĩa của từ “ghét” ở đây được làm sáng tỏ nhờ Mt 10,37: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”. Điều này có nghĩa là ai muốn đi theo Đức Giêsu thì phải yêu mến Người hơn tất cả những người khác, kể cả những người gần gũi với mình nhất. Người ấy lại còn phải yêu mến Người hơn cả chính bản thân mình. Đức Giêsu yêu cầu người ta dành cho Người một vị trí đặc biệt và duy nhất. Vì thế, “ghét” đây cũng có thể phải hiểu là “dứt khoát” với những quan hệ nào đó nếu can, để có thể trung thành với Tin Mừng. Chính tương quan duy nhất với Đức Giêsu sẽ điều hành mọi tương quan của ta với những người khác.
Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, mà là cái tôi, là tính ích kỷ, là tình yêu đối với chính mình. Cả cái tôi và sự sống của ta cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Đức Giêsu. Ai muốn đi theo Đức Giêsu, thì phải vác thập giá của chính mình, phải đi theo Người trên con đường thập giá. Đức Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Người thích. Nhưng Người vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa.
* Hai dụ ngôn (28-32)
Rất có thể Đức Giêsu nhận thấy rằng nhiều thính giả bắt đầu nghĩ rằng Người phóng đại. Để giúp họ hiểu Người muốn nói gì, Người kể cho họ nghe hai dụ ngôn ngắn, đơn giản. Dụ ngôn thứ nhất nói về một người muốn bảo vệ hoa mầu khỏi trộm cướp và dã thú phá phách. Ông đã quyết định xây một cái tháp trong cánh đồng của mình. Trước khi bắt đầu công việc, ông đã tính toán phí tổn, để xem ông có đủ tiền mà thực hiện chăng (cc. 28-30). Dụ ngôn thứ hai nói về một vị vua quyết định ra trận. Tuy nhiên, ngay lúc đầu, ông phải lượng định về sức mạnh của đoàn quân của ông (cc. 31-32). Vào thời của Đức Giêsu, có một câu tục ngữ: “Nếu bạn muốn săn sư tử, hãy phóng cái lao của bạn xuống đất. Nếu bạn không thể phóng cái lao thật sâu, thì đừng đi săn sư tử!”. Bài học rất rõ: đừng tự lừa dối chính mình; bạn không phải là môn đệ Đức Giêsu chỉ nhờ nghe Tin Mừng của Người và cảm thấy hứng thú đối với Tin Mừng ấy. Bạn phải xem bạn có thể làm chăng những điều Người yêu cầu bạn.
Qua hai dụ ngôn, Đức Giêsu khuyên những người đang đi theo Người đừng quyết định làm môn đệ, nếu trước đó không cân nhắc kỹ càng trước. Người ta phải cứu xét đến không những các đòi hỏi phải thực hiện, nhưng cả những hậu quả của chuyện mới bắt đầu thì đã bỏ dở dang vì không có sức đi tới cùng. Các môn đệ phải xem lại là mình có những sức mạnh và tài nguyên nào.
Sau hai dụ ngôn, Đức Giêsu nêu ra điều kiện thứ ba: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (c. 33). Vấn đề không chỉ là bỏ ra một ít tiền để làm việc bác ái, mà là phải bỏ hết mọi sự.
* Kết (33)
Sau hai điều kiện (cc. 26.27), câu kết này là điều kiện thứ ba (c. 33), một đòi hỏi triệt để. Đức Giêsu kêu mời người ta từ bỏ tất cả các của cải vật chất, để có thể làm môn đệ Người.
Có những người đã giải quyết khó khăn này bằng cách chia các Kitô hữu thành “những người hoàn thiện” (linh mục, tu sĩ) một bên, còn bên kia là tất cả các Kitô hữu còn lại, những người có thể giữ tất cả những gì họ có và chấp nhận làm “Kitô hữu bất toàn”. Cách làm này đã chia họ các môn đệ Đức Giêsu thành hai, đánh mất sự hợp nhất thiêng liêng của họ. Nhưng lệnh đó được ban cho tất cả những ai muốn nên “xứng đáng” với Đức Giêsu. Để không một ai hiểu sai ý Người, Đức Giêsu đã nhắc lại giáo huấn này nhiều lần (Lc 12,33; 18,22; x. 5,11.28).
+ Kết luận
Ai muốn đi theo Đức Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vì trân trọng ý muốn của Ngài, người ta phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, bị khinh bỉ và tất cả những gì đối lập lại với một cuộc đời thú vị, thậm chí đến chỗ mất mạng sống mình. Hẳn là chúng ta muốn tạo ra một hình thái Kitô giáo vừa tầm với chúng ta, làm chúng ta vui thích. Đức Giêsu nói với người ta rằng họ chỉ có thể bước theo Người theo những điều kiện của Người. Ai muốn thuộc về Đức Giêsu, thì phải quyết định theo Đức Giêsu toàn thể, với trọn con đường của Người.
Đức Giêsu không nói rằng nếu ai muốn đi theo Người mà không từ bỏ những người than, mạng sống và mọi của cải, thì không thuận lợi bao nhiêu, mà nói là hoàn toàn vô ích, như muối không còn vị mặn nữa (x. Lc 14,34-35).
5.- Gợi ý suy niệm
- Ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu, muốn thực sự làm Kitô hữu, thì cần phải biết các điều kiện được đề ra, và phải suy nghĩ xem mình có khả năng đáp ứng chăng. Nếu dừng lại giữa đường rồi bỏ cuộc, thì chẳng nghĩa lý gì. Đức Giêsu muốn người ta đi theo Người cách ý thức và có cân nhắc. Các điều kiện được nêu ra không chỉ có giá trị cho một thiểu số ưu tuyển, nhưng cho mọi người. Bước theo Đức Giêsu có nghĩa là tuyệt đối không bám víu vào các của cải vật chất, và phải sử dụng chúng tùy theo dây liên kết chúng ta với Đức Giêsu.
- Dây liên kết người ta với Đức Giêsu phải có quyền ưu tiên hơn mọi liên hệ khác. Tình yêu đối với Người không loại trừ tình yêu đối với loài người, trái lại là đàng khác. Đức Giêsu muốn chúng ta yêu thương người thân cận. Và tình yêu đối với Người đòi hỏi chúng ta chu toàn ý muốn của Người. Nhưng tương quan với người thân cận phải được qui định bởi tương quan với Đức Giêsu và phải được tháp nhập vào trong tương quan này. Nếu phải chọn lựa giữa Đức Giêsu và một người gần gũi với ta, ta phải chọn Đức Giêsu. Đàng khác, ta phải đào luyện tương quan của mình với người thân cận thế nào để không gây rối cho tương quan của ta với Đức Giêsu. Tiêu chuẩn tối hậu của đời sống chúng ta không phải là nguyện vọng hoặc ý muốn của người thân cận, hoặc sở thích của người ấy, hay là sự hòa hợp với người ấy, nhưng là ý muốn của Đức Giêsu và con đường trên đó Người đang đi mà dẫn dắt chúng ta. Người Kitô hữu không được tìm cách sống hài hòa với người thân cận ngược lại với ý muốn của Đức Giêsu, nhưng là với và trong sự lệ thuộc ý muốn đó.
- Bước theo Đức Giêsu: hoặc là một cuộc bước theo trọn vẹn, hoặc chẳng phải là mộtcuộc bước theo. Người ta không được chỉ chọn ra một vài nét thuộc về hành trình của Đức Giêsu mà người ta thích. Hoặc là người ta sẵn sàng đi với Người trọn chuyến đi, hoặc có bắt đầu cũng chẳng ích gì. Thập giá của Đức Giêsu là dấu chỉ cụ thể về sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha, với định mệnh của Người và với sứ mạng của Người. Đối với Người, sự trung thành này còn quý giá hơn chính mạng sống Người.
- Cộng đoàn Giêrusalem đã góp mọi sự lại, nên không còn có ai bị nghèo túng ở giữa họ (Cv 2,44-45; 4,32-35). Hẳn là các Kitô hữu hôm nay cũng có thể thứ những nẻo đường mới. Chắc chắn nếu chúng ta chọn bước theo Đức Kitô, chúng ta phải thay đổi thái độ của chúng ta đối với của cải của thế gian này.
81. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin.
MỜI GỌI TỪ BỎ
Hoạt cảnh hoàn toàn thay đổi. Cuộc hành trình tiếp tục. Các địch thủ tạm khuất dạng một chốc lát; nói với đám đông người cùng đi đường với Ngài, Chúa Giêsu dạy cho họ một bài giáo lý về điều kiện phải có để làm người môn đệ. Những lời dạy của Ngài tương phản với dụ ngôn ở trên, bởi vì chúng nêu lên trước một đề tài lúc đó được hiểu ngầm: những ai đón nhận lời mời đi vào Vương Quốc phải tuân thủ một số đòi hỏi.
Giáo huấn được mở đầu bằng hai lời liệt kê những điều kiện để trở thành môn đệ; thực thế, đến với Chúa Giêsu chưa đủ (cc.26-27). Điều thứ nhất đòi hỏi người ta ghét gia đình và cả đến mạng sống mình nữa (c.26). Chắc hẳn trong Do Thái giáo có nhiều trường hợp những người đã cưới vợ bỏ tất cả để theo phục vụ một ông thầy và học hỏi Lề Luật với ông, mà một trong những việc phục vụ là đi theo Thầy khắp nơi (x. đã có Êlisê đi theo và phục vụ Êlia, 1V 19-21). Tính cách độc đáo của lời Tin Mừng gồm có hai điểm. Trước hết, với một ngôn ngữ triệt để (“ghét”) người ta được yêu cầu phải từ bỏ, theo gương Chúa Giêsu (8,19-21; 11,27-28), mọi quyến luyến với gia đình là thứ gây cản trở (trường hợp người vợ mới cưới, x. 14,20). Mọi liên hệ hoàn toàn chính đáng này cũng như tình yêu hợp lý đối với chính mạng sống mình, không được chiếm chỗ ưu tiên. Điều mới mẻ thứ hai: rời bỏ gia đình không có mục đích là học luật nhưng để gắn bó với chính bản thân Chúa Giêsu và theo Ngài lên Giêrusalem để chia sẻ số mệnh của Ngài. Chỉ là môn đệ đích thực những ai có khả năng có được quyết định triệt để và khó khăn này: loại bỏ tất cả những gì ngăn cản họ bắt chước Chúa Kitô. Tiếp theo đó là giáo huấn về con đường khổ giá, giáo huấn này đưa ra hai điều kiện: vác thập giá mình và đi theo Chúa Giêsu. Như trong giáo huấn song song ở 9,23, có một ám chỉ đến cách thức mà Chúa Giêsu sẽ phải chết. Không có một chỗ nào khác trong Luca, Chúa Giêsu nói về việc Ngài bị đóng đinh.
Hai dụ ngôn, được gắn liền với những gì đi trước bằng một từ kiên quyết”quả thế”, mời gọi suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh: không có vấn đề dấn thân một cách nhẹ dạ theo Chúa Giêsu hay làm việc nửa vời, phải đảm bảo có thể tiếp tục công trình cho đến hoàn thành (cc.28-32). Các hình ảnh rút từ cùng môt lĩnh vực: vấn đề về xây cất (một cây tháp) và về lực lượng vũ trang; trở thành môn đệ cũng gần như gia nhập một đạo binh trong thời chiến…
Khi nói về việc áp dụng dụ ngôn, có một lời giáo huấn đưa ra một điều kiện mới rất được Luca yêu thích: người môn đệ phải từ bỏ hết những gì mình có (cc.26.27.33). Ai không quyết định từ bỏ mọi sự, kể cả chính mạng sống mình, sẽ thất bại một cách nhục nhã. Tính toán đến tài nguyên và sức lực của mình chính là, một cách nghịch lý, vất bỏ tất cả những gì gây trở ngại.
Bài diễn từ kết thúc bằng một câu châm ngôn bình dân (cc.34-35). Trong thời thượng cổ muối vừa được dùng để bảo tồn thức ăn vừa là gia vị. Vì có thể giữ thức ăn khỏi bị hư thối, nó tượng trưng cho sự bền vững; bởi vậy nó rất cần thiết cho việc hy tế (Lv 2,13). Ở Palestin người ta thường dùng muối có phẩm chất kém, pha trộn nhiều tạp chất, nên nó thường bị mất mặn đi sau một thời gian. Mà muối, dùng để ướp thức ăn cũng như của lễ chẳng hạn, thì chính nó không thể được ướp bằng thứ muối nào nữa, nếu nó mất khả năng ướp măn thì chẳng có muối nào làm nó mặn lại được. Vậy mà, giáo huấn về muối này lại được nói ở phần cuối của một bài giáo lý về điều kiện phải có của người môn đệ. Do bởi ý nghĩa kép của từ Aram tiềm ẩn, câu của Luca có nghĩa”nếu chính muối đã điên rồ” (nhưng”nhạt” ở Mc 9,50) và màu sắc tâm lý này làm cho việc áp dụng giáo huấn được dễ dàng. Nếu những liên hệ giữa môn đệ và Chúa của mình lỏng lẻo, thậm chí bị cắt đứt, thì làm sao tái lập được? Người tín hữu lạt lẽo là kẻ điên rồ; kẻ vô tích sự này bị quẳng đi bởi vì họ bị mắng không thể là môn đệ (c.33). như thế đừng theo Thầy thì tốt hơn là theo cách lừng khừng hay ngừng lại giữa đường (xc. 28-32). Như Chúa Kitô nói trong sách Khải huyền:”Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi ‘lạnh hẳn hay nóng hẳn’, nhưng vì ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,15-16).
82. Chú giải của Noel Quesson.
Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Người quay lại bảo họ
Chúng ta vẫn đang trên con đường lên Giêrusalem, ở đó Luca đã tập hợp các tài liệu gốc mà ngài đã thu thập bởi các nguồn thông tin của riêng ngài. Người ta có thể nói rằng đây không chỉ là một bài tường thuật cụ thể mà hơn thế nữa là lịch sử cao cả của Đức Giêsu Kitô trong mọi thời đại. Những “đám đông người” cùng đi với Đức Giêsu không chỉ là vài trăm người ở Palestine trong thời đại đó, mà là vô số người, đàn ông có, đàn bà có đã bắt đầu đi theo Đức Giêsu qua bao thế kỷ. Vậy ngày hôm nay, Đức Giêsu hướng về phía chúng ta để đặt cho chúng ta một vài câu hỏi: “Anh em nói rằng anh em là những môn đệ của Thầy nhưng anh em có biết điều đó có nghĩa gì không? Anh em có biết đi theo Thầy sẽ dẫn anh em đi tới đâu không?”.
Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được
Yêu sách đầu tiên của Đức Giêsu đúng là làm người ta phải hốt hoảng và nếu cần một lần nữa minh chứng rằng Giêsu Na-da-rét có ý thức Người không phải là “một người bất kỳ nào đó”. Vậy thì Người là ai, nếu không phải là một người điên, lại yêu cầu toàn thể nhân loại phải dứt bỏ tình cảm đến như thế, để gắn bó với bản thân của Người?
Ai có thể hiểu được ngôn ngữ của các vì sao,
Ai có thể nhận ra âm nhạc của các linh hồn,
Ai với trái tim có đủ tự do
Sẽ biết yêu mến Thầy trên hết và đi theo sau Đấng, Lời của sự sống?
Tấm lòng cần phải rất tinh tế để hiểu biết Đức Giêsu.
Dĩ nhiên Đức Giêsu là ngôn sứ của tình yêu chứ không phải của lòng thù hận. Công thức gay gắt của Người không có nghĩa chúng ta bỏ rơi những mối liên hệ gia đình. Không nhằm biện minh cho thói ích kỷ, trái lại Đức Giêsu kêu gọi một sự từ bỏ triệt để bản thân mình. Vả lại, cần phải yêu mến Đức Giêsu hơn cả mạng sống mình. Như thế, thay vì phá vỡ một cách ích kỷ mọi quan hệ nhân bản thiêng liêng nhất của chúng ta (tình yêu phụ tử, hôn nhân, bằng hữu), Đức Kitô mời gọi chúng ta, mỗi người phải làm cho tình cảm ấy được sinh động và xuyên suốt bởi tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa… Và trong trường hợp hạn chế, thật vậy, vẫn phải là: “bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa” (Lc 18,29). Và chính Đức Giêsu đã buộc mình phải dứt bỏ gia đình riêng trước khi yêu cầu điều đó với chúng ta, khi Người hiến dâng cả hồn và xác cho việc rao giảng Tin Mừng (Lc 8,19-21; 11,27-28).
Mỗi Người, tùy theo hoàn cảnh và ơn gọi của mình, phải vui lòng đón nhận yêu sách phi thường ấy trong đời sống cụ thể. Những từ bỏ tuyệt đối nào được đặt ra cho tôi để phục vụ Nước Thiên Chúa?
Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được
Ở đây có hai công thức: Vác thập giá và đi theo Đức Giêsu. Vậy vấn đề trước tiên không phải là từ bỏ mà là tình yêu. Người nào đã thật sự tìm thấy Đức Giêsu, Người ấy đã tìm thấy giá trị phát triển nhất trong mọi trường hợp. Tất cả những gì làm chúng ta đau khổ, có thể trở thành “sự hiệp thông của tình yêu”. Mọi người vác thập giá đi theo Đức Giêsu là đi theo Đấng đã vác thập giá đi đầu. Nếu chúng ta suy nghĩ thấu đáo, khi chúng ta lảo đảo dưới sự thử thách thì Đức Giêsu đã ở đó, kề bên chúng ta, đi trước chúng ta, chính Người cũng đang lảo đảo trên con đường thập giá dẫn Người đến niềm hoan lạc của sự sống lại! Simon, gốc Kyrênê, được đặt thập giá lên vai vác theo sau Đức Giêsu là hình ảnh của người môn đệ chân chính (Lc 23,26). Ai đã khám phá điều đó, đã tìm ta một bí mật; bí mật của một hạnh phúc mà không gì có thể phá hủy được. Không gì. Phúc cho người nào có cái nhìn xuyên thấu điều vô hình để tìm kiếm khuôn mặt của Người!
Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: “Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc!”.
Dụ ngôn này là của riêng Thánh Luca: “Bổn phận phải ngồi xuống!” Dụ ngôn này nói lên khó khăn to lớn mà người ta phải chấp nhận khi cồ quyết định bắt đầu đi theo Đức Giêsu. Đây là một cuộc phiêu lưu dài ngày; và phải có thể đi đến cùng!
Đức Giêsu đã không bao giờ tìm cách quảng cáo, khi tạo ra tâm lý thành công giả tạo ở xung quanh Người. Thay vì che giấu những nguy cơ của công việc, Người nhấn mạnh chúng như để làm nản lòng ngay tức khắc những nhiệt tình bồng bột và chóng qua; như thể sự rút lui dọc đường còn tệ hơn là chưa bao giờ khởi sự? Điều này phải làm chúng ta suy nghĩ một cách thật nghiêm túc tính chất trầm trọng của việc từ bỏ đức tin khi việc từ bỏ này cố tình và có ý thức. Thôi không theo “Đức Giêsu nữa, khi người ta đã bắt đầu đi theo Người…” phải chăng trầm trọng hơn việc chưa từng biết Người? Trách nhiệm vô cùng của việc Tuyên xưng Đức Tin là thế. Nếu không nghiêm túc thì đừng làm? Trước khi tuyên hứa phải ngồi xuống, dùng thời gian mà suy nghĩ.
“Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa”.
Hai dụ ngôn này “xây tháp” và “chiến đấu để thắng trận” là thành phần của các bản văn mà Luca đã có chủ ý tập hợp trong “đường lên Giêrusalem”. Hai câu chuyện này đặt song song, dễ nhớ, với văn phong nói và lặp lại. Cùng một bài học được làm nổi rõ, được gấp đôi để không ai quên: Đời sống Kitô hữu chính là “xây dựng” và “chiến đấu”. Hai công việc gian nan đòi hỏi phải suy nghi và kiên trì. Chúng cũng yêu sách sự tiên liệu và tổ chức. Anh em phải ngồi xuống để suy tính!
Một đôi khi tôi có hoàn thành lời yêu cầu này của Đức Giêsu không?
Tôi có dùng thời gian để suy nghĩ cuộc đời tôi về những cam kết của tôi? Chúng ta đều biết làm các bảng tổng kết, tính toán, tiên liệu cho các công việc của con người vậy có khi nào chúng ta dừng lại một mình hay trong nhóm với những người khác để nhận định xem chúng ta đã thật sự sống những công việc của con Người trong đường lối của Đức Kitô? Đó là mục đích của việc “xét lại đời sống”: Hãy nhìn, phán đoán, hành động, cầu nguyện trong ánh sáng của Tin Mừng.
Đi nghỉ hè về, lời mời gọi của Đức Giêsu đến đúng lúc. Một năm mới đây rồi, trước mặt chúng ta. Tất cả sẽ lại tiếp tục: Nghề nghiệp, trường học, tập đoàn, hiệp hội. Để không sống hời hợt với mình và với mọi việc, nguyện gẫm là bí quyết cửa đời sống sâu sắc và thật sự hiệu quả. Ngày hôm nay Đức Giêsu yêu cầu chúng ta không nên sống một cách hời hợt nông cạn.
Lạy Chúa, người nào mà Thần Khí Chúa cư ngụ, người ấy sẽ tiếp nhận những bí mật của Chúa Cha.
Trong ba năm của đời sống hoạt động, Đức Giêsu hầu như đã làm nhiều hơn mọi người hoạt động của thế gian.
Một bà mẹ trẻ trong gia đình, bề bộn công việc, một ngày nọ nói với tôi: “Những ngày nào con càng phải làm nhiều việc thì con càng cảm thấy nhu cầu phải ngừng lại, phải ngồi xuống mười phút để nguyện gẫm: và con được lời thời gian!”
“Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”.
Vậy đây là lần thứ ba trong ít dòng trở lại cùng một điệp khúc sắc bén như dao thái thịt: “Không thể làm môn đệ của tôi được”.
Và đối với Luca, điệp khúc như là kết luận của hai dụ ngôn nói trên. Cũng chính vì thế mà cần phải “ngồi xuống”. Người ta không theo Đức Giêsu trong sự dễ dãi. Ai không sẵn sàng đi đến cùng tốt hơn đừng nên khởi sự: Hãy từ bỏ tìm kiếm chính mình trong tình cảm, từ bỏ đời sống của riêng mình, từ bỏ của cải… bởi tình yêu. Lời mời gọi sự lột bỏ triệt để này, để sống nghèo khó, không phải là một “lời khuyên” dành riêng cho những Kitô hữu thượng hạng, các tu sĩ nam nữ như đôi khi Người ta thường hiểu như thế… Sự từ bỏ chính là điều kiện của mọi đời sống Kitô hữu như Đức Giêsu đã nói. Phải như thế để trở thành một “môn đệ đơn sơ”. “Anh em không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền bạc” (Lc 16,13). Một lần nữa, thay vì phải quan niệm những lời ấy của Đức Kitô như những lời quá đáng, hãy dùng thời gian để cảm nhận chúng như những lời thật sự giải phóng và làm triển nở. “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà cho em trở nên giàu có” (2Cr 8,9).
Nhưng để hiểu được điều đó, dĩ nhiên Thiên Chúa phải tràn ngập trong một tâm hồn. Chúng ta có tiếp tục hướng về “cái có” một cách tham lam hay không? Chúng ta có khám phá và nghĩ ra một cách sống sung sướng trong tình bạn, sự chia sẻ và tính đơn sơ không?
“Xã hội tiêu thụ không làm cho con người hạnh phúc”.
Đức Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ ở Công viên các Hoàng Tử. Họ đã vỗ tay tán thưởng. Họ đã đồng ý. Nhưng thế thì sẽ có những kết luận thực hành nào về phương diện mua sắm, nhịp độ của đời sống và sử dụng tiền bạc… để được tự do hơn. Và thật đơn giản, để “đi theo Đức Giêsu”, để giống Người đôi chút.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Anh Nghèo, vinh quang đời đời của Thiên Chúa ở nơi Ngài!
83. Chú giải của R. Gutzwiller
KÊU GỌI và LỰA CHỌN (14, 15-24)
Dụ ngôn sau cùng về bữa tiệc hiển nhiên ám chỉ cuộc sống vĩnh cửu. Người ta hiểu được như vậy căn cứ vào lời một thực khách: ‘phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong Nước Thiên Chúa’. Đức Giêsu soi sáng vấn đề những kẻ được chọn trong Nước trời đã thành hình khi Ngài kể dụ ngôn các thực khách dự tiệc cưới.
- Mời gọi.
Trong tất cả các dân tộc, Israel là dân tộc được mời dự tiệc cưới trước tiên. Câu ‘xin mời đến vì mọi sự đã dọn sẵn’, hàm chứa lời mời của Chúa khi Ngài đến nhập thể làm người. Những gì có trước đó chỉ là chuẩn bị. Giai đoạn chuẩn bị đã chấm dứt, bữa tiệc đã sẵn sàng. Thời chuẩn bị đó chính là việc xuất hành khỏi Ai cập để về Canaan và chinh phục đất hứa; là giao ước trên núi Sinai, là toàn bộ lề luật, là sấm ngôn quan trọng của các tiên tri, là đền thờ. Ngoài ra còn là hình ảnh của những vị vua tiêu biểu, là những khổ nhục thời lưu đầy, rồi là vị Tiền Hô, sau cùng là những lời giảng thuyết và phép lạ của chính Đức Giêsu.
Giờ đây, mọi sự đã sẵn sàng. Đức Giêsu tiến về Giêrusalem để nhận quyền làm chủ thành thánh. Ngài tự hỏi: không biết với những cái chuẩn bị đó, dân của Ngài đã thực sẵn sàng chưa?
Giáo Hội với công việc của mình, cũng là một sự chuẩn bị. Dĩ nhiên, đây là giai đoạn hoàn tất giao ước cũ, những vẫn là chuẩn bị đối với sự ứng nghiệm dứt khoát. Phép rửa, một cuộc tái sinh, chuẩn bị cho đời sống mới bắt nguồn từ biến cố Phục sinh. Tiệc Thánh Thể chuẩn bị cho tiệc vĩnh cửu trên trời.
Cho nên, chúng ta cử hành tiệc Thánh Thể cho tới khi ‘Chúa lại đến’. Bí tích Hôn phối chuẩn bị đi đến một cộng đồng vĩ đại, sống và yêu thương dưới quyền quản trị của Thiên Chúa. Bí tích Thống hối chuẩn bị việc Chúa đến, ân sủng chuẩn bị cho vinh quang. Sau cùng, đau khổ chuẩn bị cho cuộc khải hoàn thêm vĩ đại và cái chết chuẩn bị cuộc sống chân thực.
Giáo Hội chuẩn bị cho Nước Thiên Chúa, hay đúng hơn Giáo Hội là Nước Thiên Chúa còn phôi thai.
- Những người kiếu từ.
Trong dụ ngôn, các thực khách được mời không sẵn sàng. Vì cho rằng còn có những việc còn quan trọng hơn, họ đã khước từ việc thiết yếu. Họ lo lắng đến những điều phụ thuộc và vì thế bỏ qua việc chủ chốt.
Lời thoái thác của người thứ nhất biểu hiệu não trạng duy vật. Một miếng đất mới tậu đối với y còn giá trị hơn một lời mời danh dự. Israel muốn có một vị Thiên Sai đem lại cho họ của cải vật chất. Đối với dân chúng, cơm bánh và vui chơi quan yếu hơn cả Tôn giáo. Trong Giáo Hội cũng có rất nhiều người lấy việc thủ đắc đất đai quan hệ hơn thủ đắc Nước Thiên Chúa. Đất đáng giá hơn trời, tiền bạc hơn tinh thần, tạm bợ hơn vĩnh cửu.
Người thứ hai viện cớ bận việc. Họ phải thử mấy cặp bò mới tậu. Đúng ra, họ có thể nhận lời nhưng phải là lúc khác. Bây giờ, họ rất bận bịu. Chúng ta thấy hạng người này ở nhiều nơi, nhiều lúc. Họ bị nô lệ cho công việc; tâm hồn không có lúc nào thư thái.
Bị lôi cuốn vào guồng máy hoạt động họ không còn thì giờ và thảnh thơi để lo đến việc trọng đại đời đời và nghĩ đến vận mệnh đích thực của mình.
Sau cùng, những nhu cầu của tình yêu và xác thể được người thứ ba đưa ra để kiếu từ. Nơi nhiều người, tình dục thắng lướt cả những nhu cầu thiêng liêng, và bản năng đã ràng buộc họ. Họ hoàn toàn chìm đắm trong dục tình và không còn gì là linh thiêng nữa. Với họ, tôn giáo hình như là một vùng đất xa xăm, một thực tại lạ lùng.
- Những người được tuyển chọn
Tuy nhiên, Nước Thiên Chúa cuối cùng cũng phải thành hình. Điều mà Đức Giêsu đòi hỏi gia chủ trong đoạn trên thì chính Ngài sẽ thực hiện. Những người ‘ăn xin, què quặt, mù loà và bất toại được mời vào dự tiệc’. Hạng người đáng thương bị các luật sĩ khinh bỉ có cơ hội ở trong Nước Thiên Chúa. Những người bị các biệt phái bài bác, thực tế lại là những kẻ được chọn.
Lời mời được tống đạt một lần nữa, dọc theo đường đi và các bờ rào mà đến với những người không quen, những người ở xa, những người chẳng có liên hệ gì cả. Trường hợp của Israel đã đưa đến biện pháp hoạt động sứ vụ nơi dân ngoại. Họ gia nhập từng đoàn. Trong thư gửi tín hữu Rôma, th. Phaolô bình luận mầu nhiệm này:
Theo lối so sánh của thánh nhân thì: ngành cây Israel đã bị chặt khỏi thân cây Ô-liu (tượng trưng cho Đức Kitô). Nhưng gốc cây không mất sinh lực. Ngành cây dân ngoại được tháp vào đó và như thế cây Ô-liu đã sinh hoa kết trái không ngờ. Ở đây, mầu nhiệm Thiên Chúa chọn lựa được bày tỏ rõ ràng.
Đó cũng là điều khích lệ các Kitô hữu. Trong tiệc cưới trên Nước trời, người ta sẽ thấy có những người vắng mặt: giáo hoàng, giám mục, linh mục, đan sĩ, tu sĩ, giám đốc hội đoàn, các chức sắc trong Giáo Hội, những người nhiệt tâm hoạt động; việc họ không có mặt khiến người ta ngạc nhiên, nhưng có tìm cũng vô ích thôi.
Bù lại, người ta thấy có những kẻ không ngờ, họ không gia nhập Giáo Hội hữu hình, nhưng nối kết với Đức Kitô trong tâm hồn mà không ý thức, như vậy cũng là thuộc về Giáo Hội. Trong Giáo Hội, có những người bề ngoài chưa được tốt, nhưng vì có ý thức tội lỗi của mình nên đã tìm được con đường về với Thiên Chúa nhờ hối cải và sám hối.
Cũng có những người đơn sơ, ngây thơ, sống âm thầm mà vác thánh giá, đồng thời cố gắng chu toàn bổn phận của mình trong cuộc sống thường nhật. Những kẻ được chọn thực sự lại khác với những người thiên hạ thường nghĩ. Và nhà của Chúa cũng sẽ đầy người…
Trong khi Chúa tiến về Giêrusalem, và cảm thấy sức đề kháng của quần chúng. Lời huấn dụ của Ngài ngày càng có tính chất trang trọng và nghiêm khắc, tuy nhiên vẫn có mầu sắc lạc quan. Vì căn nhà Chúa đến để xây dựng thì Ngài sẽ dành cho những người biết đền đáp tình thương của Ngài.
TỪ BỎ (14, 25-33)
Nếu trong đoạn trước, khung cảnh bên ngoài của bữa tiệc khiến đoạn văn được thống nhất, thì ở đây, mọi lời Chúa nói đều quy về một ý niệm sâu xa là sự thoát ly và từ bỏ.
Nhiều đám đông dân chứng dấn bước theo Thày. Họ tưởng là noi gương Thày cũng dễ thôi, và trong lúc hăng say nhất thời, mọi chuyện họ đều coi là thường. Chính vì lẽ đó, Chúa Kitô, một cách từ tốn nhưng không kém phần nghiêm trọng, đã đặt ra cho thính giả đang nghe Ngài, là các môn đệ, một điều kiện gắt gao.
- Yêu sách
Người nào muốn theo Ngài hẳn phải cởi bỏ mình khỏi những gì ràng buộc mình nhất. Người đó phải cắt đứt liên hệ với gia đình,, tức là những liên hệ huyết nhục: ‘cha mẹ, vợ con, anh chị em’. Tình gia tộc huyết thống đã được ghi khắc trong bản tính loài người, và thêm đậm đà thắm thiết nhờ những tháng dài chung sống với nhau.
Thế nhưng Thiên Chúa còn quí giá hơn gấp bội, và hết thảy mọi quyền lời phàm nhân đều phải nhường bước trước những quyền lợi Thiên Chúa. Quyền lợi của Thiên Chúa ràng buộc con người đến độ mọi thứ liên hệ khác hoá ra vô hiệu.
Theo kiểu diễn tả lạ kỳ của Kinh Thánh, thì Chúa là Thiên Chúa hay ghen. Tình yêu mà Ngài đòi hỏi phải toàn diện và tuyệt đối, để về phần Ngài, tình yêu của Ngài cũng làm mãn nguyện những kẻ được tuyển chọn. Người ta chỉ có thể hiểu được bí nhiệm trọng đại đó, chỉ có thể tiến sâu vào ngôi thánh điện này một khi hoàn toàn thoát ly khỏi tạo vật. Người ta chỉ vào phòng loan với Chúa một thân một mình mà thôi.
Còn hơn thế nữa: con người đó lại phải từ bỏ ‘chính bản thân mình’. Thân phận con người hoàn toàn tự nhiên, với những ước muốn, những nhớ nhung, bản năng tự cao tự đại, lòng ham sinh uý tử, địa vị của mình trong xã hội và đồng loại, tất cả những cái đó phải được từ bỏ hoàn toàn.
Như cánh bướm kia thoát thân từ caí kén, con người mới sẽ một lần nữa rời bỏ cung lòng người mẹ để tái sinh trong cuộc sống mới. Đức Kitô còn đòi hỏi hơn nữa: con người đó phải ‘ghét’ tha nhân cũng như chính mình vậy. Như thế không chỉ có ý nói đến sự xa cách về không gian, sự chấp nhận những thua thiệt, sự từ bỏ tiệm tiến và hầu như không cảm thấy, nhưng đây là một sự từ khức mãnh liệt, có ý thức, đớn đau ở mọi nơi mọi thời.
Khi gặp phải chống đối hoặc ngay cả khi Thiên Chúa hay những nhu cầu linh thiêng coi như dửng dưng xa cách, lúc đó con người sẽ phải lựa chọn, phải quyết định trước một ngã ba đường nan giải.
Còn phải đi xa hơn nữa: ‘Ai không vác khổ giá mình, ắt không thể là môn đệ Ta’. Bị đóng đinh có nghĩa như bị xã hội coi như là nguy hiểm và đại ác. Thập giá đem lại cái gì? Thưa, bị bạo lực nghiền nát, bị hành hạ, xua đuổi, chết chóc, một cuộc đời kết thúc ô nhục và đẫm máu.
Trên tất cả, có một lời soi sáng và biện minh cho yêu sách tiệm tiến đó: ‘Kẻ nào theo Ta, kẻ nào muốn làm môn đệ của Ta’. ‘Ta’ và ‘của Ta’ ở đây ám chỉ Chúa Kitô. Theo Ngài là bước đi trong con đường của Ngài, là được làm môn đệ của Ngài, là được dõi bước theo Ngài. Ngài là một vị Thày thật cao cả, tình yêu thương của Ngài quá mạnh mẽ,những điều Ngài đòi hỏi quả chính đáng, uy thế của Ngài mãnh liệt đến độ mọi cái khác đều phải lùi bước.
Khi đã tận hiến hoàn toàn cho Chúa, không thể nào sống dễ dãi, tiện nghi nữa, mà chỉ còn Thiên Chúa độc quyền đòi hỏi và tình yêu hướng về đối tượng độc nhất.
- Soi sáng
Giáo huấn này thật là quan trọng, khiến Chúa Giêsu phải soi sáng bằng ba ví dụ. Thứ nhất: việc xây tháp. Cũng như không thể xây một cái tháp mà không có một đồng xu dính túi, thì người ta chẳng thể xây dựng đời sống theo Đức Kitô một cách tươi vui khi không có sự từ bỏ hoàn toàn. Sự hy sinh phải được coi là điều kiện tiên quyết, một giả thuyết nền tảng.
Thí dụ thứ hai là cuộc chiến. Ông vua cần có binh lính mới chinh phục được chỗ này chỗ nọ; người môn đệ cũng cần phải có sự từ bỏ để chiến đấu chống lại thù địch của Thiên Chúa. Trong trận chiến trần gian, binh giáp là điều kiện tiên quyết thì hy sinh cũng là điều kiện rất cốt thiết cho cuộc chiến đấu thiêng liêng: ‘Ai trong anh chị em không từ bỏ hết thảy của cải mình đi thì không thể làm môn đệ của Ta’. Trong hai thí dụ trên đây có một sự đảo lộn giá trị. Tiền bạc là một động lực hữu hiệu để xây tháp cũng như muốn chiến tranh cần phải có ba quân chiến sĩ.
Ta cũng phải kết luận rằng: muốn phục vụ Đức Kitô, con người cần phải có những giá trị tích cực. Nhưng hai hình ảnh lại có ý nghĩa trái ngược. Đối với thế gian, chiếm hữu là cơ bản; còn trong việc theo gương Chúa Kitô, sự không-chiếm-hữu, sự từ bỏ mới chính là điều quan trọng hơn hết. Chúa Kitô là và phải là tất cả. Từ bỏ đối với Đức Kitô không nghĩa là một tặng phẩm với hậu ý được đền đáp.
84. Chú giải của Fiches Dominicales
NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỂ ĐI THEO ĐỨC GIÊSU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Để đi đến cùng.
“Trên đường lên Giêrusalem” (l3,22), bằng một động tác có tính biểu tượng, Đức Giêsu “quay lại” phía “đám đông cùng đi đường” với Người, để dạy cho họ bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ của Người.
Chỉ “đến với” Đức Giêsu thôi không đủ. Đi theo Người bao gồm việc phải chấp nhận để chó những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng khuấy động lối sống của chúng ta: cách riêng trong phạm vi những mối liên hệ gia đình và sử dụng của cải vật chất, là đề tài quen thuộc của Luca.
Những “liên hệ gia đình”:
Đức Giêsu tuyên bố không úp mở “ai đến với tôi, mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Ở đây, Luca dùng động từ Hy Lạp có nghĩa “là ghét bỏ” để diễn tả lối nói nguyên thuỷ bằng tiếng Aram, một thứ ngôn ngữ vốn không có từ so sánh. Một kiểu nói mạnh mà soạn giả Tin Mừng dịch là ‘dứt bỏ’ hay “tai ương ít hơn”, “không thương hơn.”: Tất cả những mối liên hệ nhân loại, dù chính đáng và thâm sâu đến đâu ngay cả đến “mạng sống” con người đi nữa, đều phải phụ thuộc vào mối liên hệ của họ với Đức Kitô. N. Quesson giải thích ngay. “Lẽ dĩ nhiên Đức Giêsu là một vị Ngôn sứ của tình thương chứ không phải của thù ghét.
Lối nói thẳng thừng của Người ở đây không có nghĩa là cho chúng ta được phép xem nhẹ những liên hệ gia đình. Thay vì biện minh cho tính ích kỷ Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải có một sự từ bỏ mình triệt để. Hơn nữa, còn phải mến yêu Đức Giêsu hơn cả chính mạng sống mình. Cho nên không hề dạy người ta phải đoạn tuyệt một cách ích kỷ với mọi liên hệ nhân loại thiêng liêng nhất (như lòng hiếu thảo, nghĩa vợ chồng, tình bằng hữu…), Đức Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta phải nuôi dưỡng và đến với tất cả những tình cảm trên xuyên qua tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa. Quả thực, có những trường hợp người ta đành “phải” bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái “vì Nước Thiên Chúa” (Lc 18,29). Đó là sự từ bỏ của Đức Giêsu đối với chính gia đình của Người. Người đã tự nguyện làm thế trước khi đòi hỏi chúng ta, lúc Người hiến trọn thân xác và linh hồn cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng. (“Parole de Dieu pour chaque dimanche. Năm C, Droguet Ardant, trg 268).
Ngay sau đó, Đức Giêsu nói tiếp: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Vấn đề là người môn đệ phải đi theo con đường của Đức Giêsu, dẫn đến Giêrusalem và dẫn đến thập giá, dù phải bỏ mạng ở đó. Bởi vì điều thiết yếu là phải đồng số phận với Thầy mình. Và đó chính là thân phận của người môn đệ.
Đối với các Kitô hữu thời thánh Luca, cũng như đối với chúng ta hôm nay sau 20 thế kỷ, lời dạy của Đức Giêsu vẫn là tiếng gọi thiết tha hãy đi theo người trên con đường Canvê, hãy đích thân chia sẻ mọi đau đớn, khổ nạn là cái chết của Người (J Seynave, “Assemblées du Seigneur”, số 54, trg 70-71).
Những của cải vật chất:
Đức Giêsu kết luận: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được “. Từ chối không tôn thờ của cải vật chất, bằng cách sẵn sàng chấp nhận mất tất cả để trung thành với đức tin, đó chính là một đòi hỏi của Tin Mừng cho ai muốn đi theo Đức Giêsu.
- Meynet chú thích, “Để đến với Đức Giêsu là vui sướng bước theo Người, phải tận dụng mọi phương tiện và dẹp bỏ mọi hành lý cồng kềnh vô ích. Noi gương Chúa, con người phải giải phóng mình khỏi tất cả những gì cản trữ bước chân. Chỉ có thập giá là cái phải mang theo để đi theo Người” (L’Evangile selon Saint Luc. Analyse rhétorique”, tập 2, Cerf, trg 157).
- Trước tiên phải ngồi xuống tính toán:
Sau đó, để tránh mọi hàm hồ, Đức Giêsu ngỏ với những người đang nghe hai dụ ngôn nhỏ, nhằm cảnh giác họ phải coi chừng một kiểu dấn thân hời hợt: dụ ngôn người đàn ông nọ định xây một cái tháp và dụ ngôn vị vua kia sắp đi giao chiến với một vua khác. Cả hai đều sử dụng dạng câu hỏi: Ai trong anh em muốn xây một cái tháp?… Có vua nào đi giao chiến…?, để kêu gọi người ta phải trước tiên ngồi xuống suy tính đã, rồi mới dấn thân và chấp nhận mạo hiểm bước theo Đức Giêsu.
Theo tạp chí ’Célébrer’ số 251, trang 42, chắc đây là hai dụ ngôn nhỏ vốn nằm riêng rẽ, nay được Luca xếp chung lại với nhau trong bài viết của Ngài. Trong bối cảnh quãng đời công khai của Chúa, cũng giống như một số dụ ngôn khác tương tự có thể gọi chung là “những dụ ngôn về sự quyết định”, chúng là công cụ được Đức Giêsu sử dụng để giúp cho các thính giả của người có dịp suy nghĩ, mời gọi họ cởi mở tâm hồn với Người, sẵn sàng sám hối trở về. Luca đã lấy lại hai dụ ngôn này là hướng ý nghĩa của chúng về mối bận tâm chính của ngài: phải dứt khoát rõ ràng, để làm môn đệ Đức Giêsu ở đây và lúc này. Có hai phạm vị áp dụng chính: tiền bạc và liên hệ gia đình. Cần phải suy tính đo lường giá phải trả, đừng liều lĩnh nhắm mắt đưa chân.
BÀI ĐỌC THÊM
- Động lực duy nhất hướng đến sự sống.
“Trước lúc lên đường làm một chuyến leo núi, bạn phải ngồi tính toán xem nên mang theo những gì trong bị: lương khô kẹo bánh, đường,.. Tóm lại, tất cả những gì là cần thiết, tuy nhiên chỉ những gì phải có để leo tới đỉnh núi rồi xuống. Chẳng ai dại gì ôm đồm nhiều cho nặng hay vướng vít khó đi, bỏi vì vấn đề là làm sao đi đến nơi về đến chốn an toàn. Muốn bước theo Đức Giêsu, cũng thế bạn đừng để mình vương vấn bất cứ cái gì? “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa…”. Đúng là một danh sách dài! Chuyện này có khả thi hay không? Lẽ nào Đức Giêsu, một con người rất mực nhân lành, dịu dàng, lại có thể đòi hỏi một chuyện như thế? Ngộ nhận, gây vấp phạm? Không thiếu kẻ đã bị dội trước những lời yêu sách quá đáng này. Một số môn đệ và ngay cả các tông đồ đã không đi theo Người đến tận đỉnh Gôngôtha. Họ run sợ khi thấy chính quyền và dân chúng lồng lên chống lại Người. Họ nhát. Họ chẳng dám liều mạng. Phải chăng họ có lý? Hy sinh, chết để mà chết, có ích gì?
Phải đợi đến sau biến cố Phục sinh họ mới sẵn sàng đón nhận cái chết. Khi đó, họ mới hiểu rõ rằng chết không phải là uổng đời, và cái biện chứng “chết – sống” chính là động lực duy nhất đưa đến sự sống. Sống cho tình yêu phải chăng là chết đi liên lỉ mỗi ngày trong suốt cuộc đời? Yêu mến Đức Giêsu hơn cả cha mẹ, vợ con, đâu phải là chê bỏ lòng hiếu thảo, nghĩa vợ chồng? nhưng là yêu thương bằng một tình yêu mãnh liệt hơn và bao la hơn, nhân danh Đức Giêsu Kitô.
Đi theo Đức Giêsu chính là bước vào quỹ đạo của tình yêu tự trao ban đến cùng”.
- Thiên Chúa, Đấng duy nhất tuyệt đối:
Đức Giêsu đã đảo lộn tất cả mọi ý niệm về giá trị và tình cảm của chúng ta khi Người truyền phải yêu mến Người hơn cả cha mẹ, vợ con… Chúng ta vốn nhạy cảm với cái nghĩa thiêng liêng của gia đình nên không dễ gì hiểu ngay được lời mời gọi của Tin Mừng. Đối với chúng ta, cũng như đối với mọi định chế trong xã hội, có gì hiển nhiên cho bằng trước hết phải thương yêu vợ con mình? phải làm tất cả cho người thân trong gia đình mình?
Dường như Đức Giêsu đang có ý thách thức chúng ta. Người đề nghị cho chúng ta một lối đi đầy ngỡ ngàng, đòi phải có niềm tin lẫn quyết tâm. Người như muốn nói với chúng ta rằng chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối mà thôi. Trước đòi hỏi gắt gao của Đức tin, chúng ta thường có xu hướng biện minh: mình phải lo cho gia đình, công việc, cửa nhà, ruộng đất… đã chứ!
Đi theo Đức Giêsu là phải dám đảo lộn lại trật tự mọi sự và mọi việc. Phải có can đảm đặt Thiên Chúa ở hàng đầu, ở trung tâm cuộc sống. Đúng chỗ của Người. Khi đó, chúng ta sẽ thấy mình yêu thương người thân cách chân thực hơn. Chu toàn mọi công việc có kết quả đích thật hơn. Lo lắng cho gia đình đúng nghĩa hơn.
Những gì chúng ta có thể làm cho mái ấm của mình, cho sự tôn trọng quyền con người, cho việc bảo vệ sự sống, cho sự nhìn nhận kẻ khác với lòng bao dung, cho cuộc đấu tranh chống lại mọi hình thức ngược đãi, cho tự do và dân chủ… chúng ta hãy qui tất cả một cách trọn vẹn vào mối tương quan với Thiên Chúa. Trong thái độ của Đức tin, chúng ta đặt Người vào trọng tâm của tất cả, ở nguồn mạch tất cả, nơi tận cùng của tất cả. Như là Đấng Tuyệt đối.
Nhận ra Thiên Chúa là cái “nền” của toàn thể nhân loại, chúng ta mới gặp gỡ được ý định của Người. Khi đó chúng ta mới phục vụ và làm thăng tiến nhân loại.
85. Suy niệm của William Barclay.
Trong khi Chúa Giêsu đi hướng về thành Giêrusalem, dân chúng đi theo càng ngày càng đông và sự náo nhiệt phấn khởi càng tăng. Dân chúng tưởng rằng Ngài sắp lập một nước vinh quang đầy quyền uy, họ mong được dự phần trong vinh hiển ấy. Để đánh tan hiểu lầm, Chúa Giêsu quay lại phán bảo họ những điều kiện chính yếu để làm môn đệ Ngài. Bằng cách rất sinh động, Ngài bảo họ rằng theo Ngài không phải là để được quyền thế và vinh quang của thế gian này, nhưng phải có lòng trung thành đến độ sẵn sàng chịu khổ như sự thống khổ của kẻ bị treo trên cây thập giá. Chúng ta không nên hiểu lời Chúa Giêsu theo một nghĩa đen lạnh lùng, thiếu óc tưởng tượng. Ngôn ngữ Đông phương bao giờ cũng sinh động tới độ cao nhất của trí khôn loài người. Khi Chúa Giêsu bảo chúng ta phải ghét những kẻ gần gũi và thân thiết với mình là Ngài không có ý nói theo nghĩa đen. Ngài chỉ muốn nói rằng tình không có tình yêu nào trên đời này có thể so sánh với tình yêu mà chúng ta có đối với Ngài được. Có hai chân lý nổi bật trong đoạn này:
- Có thể là người theo Chúa Giêsu mà vẫn không phải là đầy tớ của Ngài, có thể là kẻ theo trại quân mà vẫn không phải lính của vua, có thể là kẻ bám víu vào một đại sự mà vẫn không dấn thân gì cả. Có người nói với một giáo sư về một chàng thanh niên rằng: “Anh ta nói với tôi rằng anh ta là học trò của ông”. Vị giáo sư thẳng thắn trả lời: “Anh ta có thể đã ngồi trong lớp học của tôi, nhưng không phải là một trong số học trò của tôi”. Có sự khác biệt giữa một người trong lớp và thực sự làm học trò. Thật rất đáng buồn cho Hội Thánh khi trong Hội Thánh có quá nhiều kẻ theo Chúa cách xa xa và có quá ít người thực sự là môn đệ Chúa.
Những lời Chúa phán thật đáng ngạc nhiên, đến độ nghe chói tai nữa. Thế nhưng nó chỉ có ý diễn tả một điều: tình yêu Chúa phải chiếm chỗ nhất trong trái tim ta, và ta phải gỡ bỏ tất cả những gì cản trở tình yêu ấy. Thánh Grêgoriô Cả giải thích câu “khó nghe” này, ngài viết: “Ở đời này hãy yêu tất cả, kể cả kẻ thù, nhưng ta phải ghét những ai ngăn cản ta trên bước đường dẫn tới Chúa, dầu đó là người thân. Như vậy ta phải yêu người lân cận, phải có lòng bác ái đối với tất cả, với kẻ gần và người xa, nhưng không được vì yêu họ mà ta xa tình yêu Chúa”. Dứt khoát là phải giữ bậc thang giá trị trong tình yêu: Chúa trên hết.
Thật ra những lời này cũng chỉ là lặp lại yêu sách mà Đức Giêsu đã đặt trong toàn bộ giáo huấn của Ngài (x. Lc 6,27-35). Đây quả là lời đanh thép. Dầu động từ ghét hay khinh thì cũng không diễn tả đúng được ý của Chúa, nhưng dầu sao những lời của Chúa cũng rất mạnh, và không thể giản lược vào “ít yêu hơn” như có người muốn để cho nó nhẹ đi. Lời rất khủng khiếp không phải vì nó được diễn tả trong thể phủ định, nhưng vì Đấng nói ra cũng là Đấng từng yêu tha nhân như chính mình và là người hiến mạng vì loài ngừơ. Lời Ngài chỉ phải hiểu đơn giản rằng đối với Chúa không có thái độ nửa vời. Người ta có thể diễn dịch lời Chúa bằng yêu hơn, yêu nhiều, hay đừng yêu bằng, một tình yêu vị kỷ cũng đừng yêu nửa vời: chúng ta phải yêu bằng chính tình yêu của Thiên Chúa” (Escriva). Chính Công Đồng Vaticanô II cũng dạy các tín hữu: “Phải chuyên lo làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn đẹp lòng người ta, luôn sẵn lòng bỏ mọi sự vì Chúa Kitô và chịu bách hại vì sự công chính”. (TĐ 4) và trong hiến chế Mục vụ Công Đồng dạy: “Chịu đau khổ cho chúng ta, không những Ngài nêu gương để chúng ta theo vết chân Người, nhưng Người còn mở đường mới để nếu chúng ta theo thì sự sống và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới” (MV 22). Đường của người Kitô hữu đi là theo chân Đức Kitô, là nên giống Ngài. Không có con đường nào khác để theo Ngài ngoài con đường gúp Ngài vác thập giá. Kinh nghiệm cho hay rằng đau khổ luôn có sẵn và bất hạnh cũng kèm theo nếu thiếu một phản ứng với tinh thần đạo Kitô. Thập giá đâu phải là tấn bi kịch, thập giá là phương pháp sư phạm Chúa dùng để thánh hóa ta qua đau khổ, để liên kết ta vào Chúa Kitô và để ta được xứng đáng với vinh quang. Thế nên Đấng Đáng Kính Escriva đã reo lên: “Chúc tụng đau khổ! Đáng yêu thay đau khổ! Thánh thay đau đớn!”
- Phải tính cái giá phải trả khi theo Chúa. Không muốn làm nản lòng những kẻ theo Ngài, nhưng Ngài bảo họ phải tính toán trước cho kỹ. Ngài minh giải điều đó bằng hai hình ảnh về người xây tháp và vị vua lâm chiến. Cái tháp mà người định xây đó có lẽ là cái tháp của vườn nho. Các vườn nho thường có những tháp để từ trên đó có thể trông coi cà vườn kẻo trộm phá mất mùa nho. Xây tháp mà bể đổ thì thật đáng xấu hổ. Hay là ông vua điên khùng nào kéo quân ra trận mà không tính toán trước, đo lường số quân của mình với lực lượng của đối phương. Chúa Giêsu có ý nói rằng chẳng thà đừng bước vào đời sống tín hữu hơn là bước vào rồi thất bại. Ngài chỉ muốn người ta trước khi bước vào cuộc sống ấy đã phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự là điều kiện đòi hỏi trong khi phục vụ.
Qua những hình ảnh minh họa này, Chúa cho chúng ta thấy nếu con người khôn ngoan cần phải tiên liệu các rủi ro đi kèm theo với bất cứ công việc nào, thì người Kitô hữu còn có lý do hơn để mà tự tình và quảng đại ôm lấy thập giá, vì nếu không thế sẽ không theo Chúa Kitô được: “Người này bắt đầu mà lại không hoàn thành nổi”. Lời phẩm bình không ai muốn nghe, mà nếu bạn muốn bạn sẽ không bao giờ là đối tượng, vì bạn có đủ mọi phương tiện để hoàn thành việc nên thánh: “ơn dư dật của Chúa và ý chí của bạn” (Escriva).
Nếu trước đó Chúa có nói tới việc ghét cha mẹ và đến hiến mạng sống, thì giờ đây cũng vẫn đòi hỏi cao độ ấy với sự từ bỏ của cải vật chất. Câu này là phải được áp dụng cho cả hai dụ ngôn nêu trên. Cũng như một vua nhất định giao chiến dầu biết tình hình ít quân là thiếu khôn ngoan, cũng thế một người đến theo Chúa mà lại không từ bỏ của cải là điên khùng. Từ bỏ của cải ở đây phải thực tiễn và cụ thể: tấm lòng phải cởi bỏ mọi trói buộc của cải trần gian mới có thể bước theo Chúa như Chúa nói sau này một người không thể vừa thờ Chúa vừa thờ tiền bạc (Lc 16,13). Không thiếu trường hợp Chúa đòi hỏi một số người sống đời nghèo khó tuyệt đối và tự nguyện; còn đối với tất cả, Chúa mong muốn một sự từ bỏ thực sự và quảng đại trong sử dụng. Nếu người Kitô hữu còn phải sẵn sàng từ bỏ đến cả mạng sống, còn nói chi đến việc từ bỏ của cải: “Nếu bạn là người của Chúa. Phải khinh chê của cải một cách cố chấp cũng như người thế gian ngoan cố trong việc tìm kiếm nó” (Escriva).
Ngoài ra vì tâm hồn muốn được đầy tràn Chúa, trước hết cần phải tống khứ ra ngoài tất cả những gì cản trở: giáo lý Con Thiên Chúa đến trần gian dạy là phải khinh chê tất cả các tạo vật, để thích ứng ta tiếp nhận Thần Thiên Chúa. Bao lâu tâm hồn ta không từ bỏ được các tạo vật, thì không thể nào đón nhận được Thần Linh Ngài và không thể biến đổi ta trong Ngài” (Gioan thánh giá, Montre du Cormel). Nhưng nếu có ai sợ hãi trước tất cả những đòi hỏi ấy thì nên nhớ rằng mình không phải chiến đấu cô đơn đâu, Đấng đã kêu gọi chúng ta vào con đường hẹp, sẽ đi cùng chúng ta trên con đường đó, và Ngài sẽ ở cùng cuối đường để đón tiếp chúng ta.
86. Tính toán – Trầm Thiên Thu
Người ta nói: “Làm không biết tính, thính không có mà ăn”. Quả thật, dù điều to hay nhỏ, dù việc bình thường hoặc quan trọng, thì cũng đều phải tính toán – dù mức độ có khác nhau. Tính toán chứ không mưu mô, lọc lừa, lươn lẹo, ranh ma, vụ lợi hoặc thực dụng… Thế nhưng người ta cũng nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Còn Thánh Phaolô xác định: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3:6). Đó mới là vấn đề! Với Thiên Chúa, tính toán không nhằm tư lợi mà là từ bỏ chính mình. Cách tính toán của Thiên Chúa thật là độc đáo! Đúng vậy: “Chúa đã sắp xếp có chừng có mực, đã tính toán và cân nhắc cả rồi” (Kn 11:20).
Chuyện đời sống, chuyện sinh hoạt hằng ngày, ai cũng phải biết tính toán đã đành, lớn tình chuyện lớn, nhỏ tính chuyện nhỏ. Chuyện tâm linh cũng cần biết tính toán sao cho hợp Ý Chúa, hợp với hoàn cảnh của mỗi người. Sống đúng bậc mình trong hoàn cảnh hiện tại là biết tính toán để nên thánh, là biết làm đẹp lòng Chúa.
Tính toán có thể là cộng, trừ, nhân hoặc chia. Nhưng phải tính toán sao có lợi cho tha nhân: CỘNG lại tình người, TRỪ đi hận thù, NHÂN lên yêu thương, CHIA sẻ lòng thương xót, và đừng bao giờ CHIA rẽ. Tác giả sách Khôn Ngoan thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi? Chúng con vốn là loài phải chết, tư tưởng không sâu, lý luận không vững” (Kn 9:13-14). Và rồi tác giả nhận định: “Thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề” (Kn 9:15). Thực tế quá phũ phàng, nhưng sự thật là vậy, không ai có thể chối cãi. Có lần Chúa Giêsu cũng nói: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38). Phàm nhân là cát bụi, quá mỏng dòn, quá yếu đuối, thế nên mới phải cố gắng tỉnh thức kẻo sa chước ba thù – ma quỷ, thế gian, và xác thịt. Thứ nào cũng ghê gớm, dữ tợn, đủ sức làm chúng ta đắm chìm trong vũng lầy tội lỗi. Do đó mà luôn phải cẩn trọng, tỉnh thức. Tỉnh thức cũng là một cách tính toán vậy!
Tác giả sách Khôn Ngoan đại diện chúng ta thân thưa với Chúa: “Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được, thì những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng? Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ” (Kn 9:16-18).
Quả thật, cuộc đời là thế. Có những điều tưởng chừng dễ như trở bàn tay, ấy vậy mà chúng ta phải vất vả lắm mới may ra làm được; và có những điều tưởng như trong tầm tay, thế mà lại vuột khỏi tầm tay khiến chúng ta buồn não lòng. Tính toán chi li, tính toán rất kỹ, thế mà chẳng nên công cán gì, y như “dã tràng xe cát biển Đông” vậy! Vì thế, dù chuyện to hay nhỏ đều phải nhờ ơn Chúa: Tất cả đều là Hồng ân.
Thánh Gióp nhận định: “Chúa có thể giết tôi, tôi chẳng còn gì để hy vọng, nhưng trước nhan Người, cách sống của tôi, tôi phải biện hộ. Đó chính là điều sẽ cứu tôi, vì trước nhan Người, ác nhân sẽ không dám xuất đầu lộ diện” (G 13:15-16). “Tâm phật, khẩu xà” đúng là Pharisêu chính hiệu. Cách sống thường nhật của chúng ta đối với tha nhân quan trọng hơn động thái khúm núm trong nhà thờ. SỐNG ĐẠO quan trọng hơn GiỮ ĐẠO. Từ cửa nhà thờ trở ra mới chứng tỏ ai là môn đệ đích thực của Đức Kitô, chứ không phải chỉ từ cửa nhà thờ tới bàn thờ.
Tác giả Thánh Vịnh nói rằng “Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi” khi Ngài phán bảo: “Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi!” (Tv 90:3). Đối với Thiên Chúa chỉ có hiện tại, không có quá khứ hoặc tương lai, không có khái niệm thời gian hoặc không gian, không có khái niệm dài hoặc ngắn: “Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi!” (Tv 90:4). Thời gian là của Chúa, ngay cả sự sống và những gì chúng ta sở hữu cũng không thuộc quyền của chúng ta, mà chúng ta chỉ là người được Chúa trao cho quyền quản lý. Tất nhiên chúng ta phải chịu trách nhiệm. Khoảng trăm năm đời người xem chừng dài lắm, nhưng cũng chỉ như thoáng chiêm bao, tựa bóng câu qua cửa sổ, không khác đóa phù dung hoặc con thiêu thân: “Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng, như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn” (Tv 90:5-6). Quả thật, tuổi đời càng tăng thì người ta càng cảm thấy thời gian như ngắn hơn trước, dù một giờ vẫn đủ 60 phút, một thực tế bất biến. Qua đó, chúng ta hiểu và chắc chắn rằng Thiên Chúa bất biến, chỉ tại nhân loại biến thiên mà thôi.
Tác giả Thánh Vịnh cầu nguyện: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90:12). Đó là tỉnh thức, là biết lo liệu, là biết tính toán. Sẵn sàng như vậy nên người ta khát khao được ngụp lặn trong Biển Tình Yêu của Chúa: “Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ? Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây. Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca” (Tv 90:13-14).
Chúng ta quản lý cuộc đời mình một cách tốt đẹp nếu biết cầu xin Chúa phù trợ: “Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm” (Tv 90:17).
Chắc hẳn vì thế mà Thánh nữ Faustina xác định: “Tôi không tìm hạnh phúc ngoài nội tâm nơi Chúa cư ngụ. Tôi hạnh phúc khi Chúa ở trong tôi. Tôi ở với Ngài mãi mãi. Đó là nơi thân mật của Ngài và tôi. Tôi an toàn ở bên Ngài. Đó là nơi không bị loài người dò xét. Đức Mẹ khuyến khích tôi giao tiếp với Chúa bằng cách này” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 454). Hay quá! Nhưng chúng ta thường LỢI DỤNG CHÚA hơn là TÍN THÁC vào Ngài – mà miệng lưỡi hoặc bề ngoài chúng ta vẫn oang oang: Con tín thác vào Chúa. Hãy cẩn trọng kẻo bị ảo tưởng, vì sự lợi dụng và lòng tín thác rất “gần” nhau, khá giống nhau. Có lẽ nhiều người đang lâm tình trạng này mà không biết đấy!
Trong thư gởi cho Philêmôn, Thánh Phaolô viết: “Tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh hơn, để xin anh làm điều đó. Tôi là một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Kitô Giêsu, tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ô-nê-xi-mô” (Plm 1:9-10). Thánh Phaolô PHẢI kêu gọi BÁC ÁI vì người ta thường lầm lẫn các cạnh của “tam giác yêu thương”. Đó là Bác Ái, Công Bình, và Bố Thí. Ba cạnh có vẻ “giống” nhau và “đều” nhau, nhưng thức tế không phải vậy. Ví dụ, trong âm nhạc, “nửa cung” có vẻ giống nhau, dù gọi là bán-cung-dị hoặc bán-cung-đồng (có vẻ rất giống nhau khi dùng piano – thực tế rõ ràng với phím ĐEN và TRẮNG – theo bán cung Tây Phương, nhưng thực tế hai nửa cung ấy hoàn toàn khác nhau, nếu xét theo kiểu bán cung của Ấn Độ, và bán cung Việt Nam cũng tương tự).
Chuyện có vẻ riêng tư khi Thánh Phaolô gởi thư riêng cho Philômôn, nhưng thực sự vẫn là chung, cái riêng ở trong cái chung, và cái chung ở trong cái riêng: “Tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi. Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện. Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi”. Thiết tưởng không cần nói gì thêm, vì quá rõ ràng rồi!
Bác ai là yêu thương. Yêu thương bằng hành động chứ không thể nói suông bằng đầu môi chót lưỡi. Dễ hay khó? Vừa khó vừa dễ. Tùy. Cái từ “TÙY” này mới thật là “đáng sợ” đấy! Vấn đề là đừng “đạp trên”, đừng “đội dưới”. Nghĩa là đừng mặc hai loại áo, một loại vạt trước dài và một áo vạt trước ngắn. Nói thẳng ra là đừng nịnh trên mà hù dưới. Kiểu này nhiều người “mắc” lắm!
Một hôm nọ có vẻ “đẹp trời”, thấy có rất đông người cùng đi đường, Đức Giêsu quay lại bảo họ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:26-27). Nghe “choáng” quá, vì “sốc” ghê đi. Người ta chỉ thích “vội vàng vơ vét về” (5 V) thế mà Đức Giêsu lại bảo phải “BỎ”, phải “BIỆT” dù “BIẾT” – toàn là “bờ”. Chán chết được! Ấy thế mà có “chết” được đâu!
Chúa Giêsu rất khoái dụ ngôn, cái gì cũng dụ ngôn, nhưng ngụ-ngôn-thực-tế chứ không ngụ-ngôn-bịa-đặt. Ngài vừa truyền thống vừa tân kỳ, cứ thản nhiên “bổn cũ soạn lại” khi phân tích: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà” (Lc 14:28-32).
Chúa Giêsu chỉ là thợ mộc, đục đẽo thôi, chứ không hề là thợ xây, không là thầu khoán, thế mà lại nói chuyện xây dựng. Nghe mà “chói tai”. Mà “chói” thật, vì bọn thầu khoán cũng phải tâm phục khẩu phục chứ nói chi lũ thợ xây, thợ hồ.
Còn nữa, Chúa Giêsu cũng chẳng kinh nghiệm làm vua ngày nào, thế mà lại tính chuyện giao chiến như một tướng quân. Thủ tướng hoặc đại tướng quân sự cũng phải tôn Ngài làm Đại Sư thôi. Lạ thật!
Cuối cùng, Đức Giêsu Kitô nói thẳng: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:33). Cái chữ B này “to” lắm. Nó có thể là BIÊN GIỚI (bờ cõi quốc gia), là BIỆT DANH (cõi riêng tư), là “bới bèo ra bọ” (bề trên tìm cách triệt hạ bề dưới, bề dưới tìm cách hạ bệ bề trên), là BAO CHE (phe cánh), là BƯỚNG BỈNH (kiêu ngạo, tôi luôn là “số dzách”). Nếu vậy thì… BỎ!
Nhưng lưu ý: Chữ BỎ của Chúa là “bỏ mình”, mang nghĩa khiêm nhường, còn chữ BỎ của chúng ta là “vứt bỏ” mang nghĩa kiêu ngạo, là mặc kệ. Ranh giới giữa hai chữ BỎ ấy chỉ nhỏ bằng sợi tóc. Hãy nhớ câu này: Cẩn tắc vô ưu. Cẩn trọng cũng là một dạng tính toán vậy!
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết sống đúng ý nghĩa tích cực của chữ BỎ mà Chúa Giêsu đã sống, BỎ MÌNH chứ không BỎ NGƯỜI KHÁC. Xin giúp chúng con biết tính toán cho đúng phép tính của Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
87. Theo Chúa, phải từ bỏ tình cảm tự nhiên
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Tin Mừng Lc 14: 25-33 Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta rằng: phải yêu Chúa trên hết mọi sự, và như một sự phát sinh, hệ quả…, yêu Chúa thì phải yêu người và yêu chính ta. Nếu chỉ yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối.
Trên hành trình lên Giêrusalem để thi hành sự vụ cứu độ con người qua cái chết của mình, Đức Giêsu thấy người ta theo mình rất đông. Có những người theo Ngài chỉ vì tính hiếu tri, tò mò; lại có những người theo vì mong được chứng kiến hay trực tiếp lãnh nhận được một vài phép lạ như Chúa đã làm; lại có những người theo vì hy vọng Đức Giêsu thiết lập một vương quốc oai hùng theo kiểu trần gian; tuy nhiên, cũng có những người theo Chúa vì muốn được ơn cứu độ. Ngài biết rõ họ. Vì thế, như một mẫu số chung, Đức Giêsu đưa ra một điều kiện tiên quyết cho hết mọi người, hầu giúp họ trắc nghiệm lại thái độ theo mình của đám đông: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được”(Lc 14, 26-27).
Vậy điều kiện đó của Đức Giêsu có hợp lý không?
- Đi theo và làm môn đệ
Đi theo ai là làm môn đệ cho người ấy. Đi theo Chúa tức là tôn nhận Chúa làm chủ của mình. Đi theo Chúa cũng là lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy; sống cuộc sống như Ngài đã sống, và cùng chung số phận như chính Ngài đã chịu.
Đây là đặc tính của người môn đệ, đồng thời cũng là điều kiện cần để theo Chúa. Thấy được tính hệ trọng của sự việc, Đức Giêsu đã quay lại và bảo họ, hay đúng hơn là nhắc cho họ về thái độ cần có khi đi theo mình. Tinh thần đó chính là sự dứt khoát, tiên quyết để thoát ra khỏi mọi ràng buộc của cuộc sống hầu xứng đáng trở thành môn đệ.
Thật thế, hành trình đi theo Chúa của người môn đệ được ví như người leo núi, hay đi qua cửa hẹp. Nếu muốn leo lên núi được, cũng như qua được cửa hẹp, thì người lữ hành phải thanh thoát và nhẹ nhàng, phải vứt bỏ lại tất cả những thứ cồng kềnh làm cản bước chân và hành trình của mình. Cũng vậy, theo Chúa thì cũng phải có thái độ như thế, tức là phải từ bỏ mọi sự để chỉ nhìn thẳng vào Chúa và nhắm tới đích mà tiến bước: “Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được”.
Đây có phải là đòi hỏi thái quá không? Và có đi ngược lại với sự thảo hiếu với cha mẹ và nghĩa vụ đối với gia đình không?
Thưa không! Bởi vì Chúa không đòi hỏi người môn đệ phải bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em… một cách vô lý, nhưng ý Ngài muốn nói rằng, nếu vì điều đó làm cho chúng ta không thể theo Chúa được, hay làm cho chúng ta mất ơn cứu độ thì hãy từ bỏ, bởi lẽ mọi sự sẽ qua đi, nhưng có Chúa là có tất cả, có Chúa là có cả một gia tài, thấy được rồi thì phải tìm mọi cách mà giữ lấy (x. Mt 13,44-52).
Như vậy, con người không chỉ có cuộc sống hiện tại, mà còn có cuộc sống mai sau, mà cuộc sống đời đời mới là cứu cánh tối hậu của mình. Khi hiểu như thế, thì chữ “dứt bỏ” đồng nghĩa với chữ “nghét” ở đây phải hiểu theo nghĩa “yêu thương”, tức là cần có một sự lựa chọn ưu tiên, lựa chọn cái tốt hơn. Điều này được sáng tỏ nhờ Lời Chúa phán: “…ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi” (x. Mc 12:28-34). Khi hiểu như thế, ta thấy tình cảm dành cho cha mẹ, vợ con và anh chị em…là những người ta phải yêu thương, nhưng họ cũng là con của Chúa, cũng là thụ tạo như chúng ta. Vậy thì khi phải lựa chọn, ta phải chọn Đấng đã tác thành và trao ban họ cho ta. Có một thái độ như thế, ta mới xứng đáng trở thành môn đệ của Chúa được. Đây là một sự lựa chọn mang tính thứ bậc: Chúa là trên hết, mọi sự là thứ yếu, nên cần phải vượt lên trên tình cảm tự nhiên để làm môn đệ của Chúa.
Khi có thái độ như thế, người môn đệ biết yêu Chúa trên hết mọi sự, từ bỏ mình là từ bỏ ý riêng và thay vào đó là thánh ý Thiên Chúa, mà ý Thiên Chúa chính là yêu Ngài trên hết mọi sự và yêu thương người thân cận như chính mình. Như vậy, khi từ bỏ mọi sự để theo Chúa, ta lại được Chúa và mọi người nhờ vào tình yêu mà ta dành cho Chúa, thật đúng như lời Chúa nói: “Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này …”
- Theo Chúa là vác thập giá hàng ngày mà theo
Tuy nhiên, theo Chúa là từ bỏ mọi sự không thôi thì chưa đủ, nhưng còn phải vác thập giá mà theo thì mới trọn vẹn ý nghĩa là người môn đệ của Đức Giêsu.
Thập giá trong đời sống hằng ngày của người môn đệ được ví như cây gậy của người leo núi, như chiếc đèn của kẻ đi đêm, như biển chỉ dẫn của khách lộ hành. Không có gậy, người leo núi sẽ mệt và đôi khi không có thể làm điểm tựa khi đã mỏi gối chùn chân. Không có đèn đi trong đêm, người ta dễ dàng sa xuống hố hoặc vấp ngã. Không có biển chỉ đường, người ta dễ lạc lối. Như thế, thập giá hằng ngày chính là những hy sinh thử thách giúp con người trưởng thành và sống có ý nghĩa hơn. Quả vậy, khi suy tư về vấn đề này, Đức cố Hồng Y Thuận, vị Tôi Tớ Chúa đã nói: “thánh mà không vượt qua thử thách là thánh giả”; “thánh lâm thời”.
Ơn cứu độ của chúng ta có được là nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa. Như vậy, vác thập giá mà theo Chúa tức là đón nhận tất cả những hy sinh, gian khổ vì Chúa và phần rỗi của mình cũng như anh chị em: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,27).
Điều kiện để theo Chúa thật khó khăn và cam go như thế, nên Đức Giêsu muốn kẻ đi theo mình phải lựa sức, phải cẩn trọng. Vì vậy, Ngài kể cho họ nghe hai dụ ngôn của người xây tháp và ông vua đi giao chiến. Nếu muốn xây tháp, mà không biết chọn chỗ nào cho phù hợp, mục đích của việc xây tháp là gì, và cần bao nhiêu thợ, cát, đá, sắt, gạch…hay khi giao chiến mà không biết mình có bao nhiêu quân, địch bao nhiêu, những thuận lợi, khó khăn của ta và địch, nói chung là không biết tính toán trước thì thật là một kẻ dại dột, và như thế, thất bại là lẽ đương nhiên. Cũng vậy, lựa chọn theo Chúa là một chuyện khó, nhưng sống sự lựa chọn đó, tức là làm chứng cho Chúa còn khó hơn gấp bội. Đức Giêsu biết được điều đó, nên một mặt Chúa đòi hỏi phải dứt khoát, từ bỏ mọi sự để theo thì mới xứng đáng, nhưng đàng khác, Ngài cũng cảnh báo chúng ta phải suy tính cho cẩn thận, kẻo rồi dở đi mắc núi, dở lại mắc sông: “Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đàng sau thì không xứng đáng là môn đệ Ta”.
- Sống lời Chúa hôm nay
Lời Chúa ngày hôm nay dạy chúng ta rằng: phải yêu Chúa trên hết mọi sự, và như một sự phát sinh, hệ quả…, yêu Chúa thì phải yêu người và yêu chính ta. Nếu chỉ yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối. Nói cách khác, tình yêu với Thiên Chúa bao trùm mọi tình cảm khác của con người, và như ngọn hải đăng soi sáng cho mọi người nhìn thấy nhau thế nào, thì khi yêu Chúa, ta cũng dễ nhận ra nhau là anh chị em của ta. Nói cách khác, khi yêu Chúa, ta sẽ thăng hoa được mọi thứ tình cảm tự nhiên, và như thế, ta lại được lại mọi người như là cha, mẹ và anh chị em của ta.
Chính vì thế, mà khi cần, tức là những tình cảm tự nhiên làm cho ta bị chậm trễ hay cản bước ta đến với Chúa và đi theo Chúa thì cần phải loại bỏ hết tất cả để đi theo Chúa và thi hành điều Chúa truyền. Đây chính là định luật ưu tiên trong đời sống của người Ki tô hữu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống. Xin cho chúng con nhận ra chân lý này, để sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Xin ban ơn trợ giúp, để chúng con luôn đủ sức mạnh, hầu vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa cho nên. Amen.
88. Từ bỏ và vác Thập Giá
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tác giả Trương Quang trong báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật số 40-2003, đã nhận định rằng: gần đây ở Việt nam rộ lên phong trào “chất lượng cao”, từ sản phẩm và dịch vụ trên thị trường nội địa cho đến các mặt hàng xuất khẩu, lan qua cả các khu vực nhạy cảm là giáo dục và văn hoá. Nào là “xe chất lượng cao”, “lớp anh ngữ chất lượng cao”, “phở chất lượng cao”, “khách sạn chất lượng cao”… Mặc dù có “trương cờ, nổi trống” như vậy, chất lượng của món hàng có thật sự cao hay không thì chẳng ai có thể đảm bảo được. Mà nói cho cùng khi người rao món hàng “chất lượng cao” kia cũng chẳng mấy tự tin khi phô trương mấy dòng chữ “chất lượng cao” nghe rất hứa hẹn và đầy ấn tượng… Suy cho cùng chất lượng hay giá trị của một sản phẩm hay dịch vụ là kết quả tổng hợp và tích luỹ của nhiều hoạt động, từ khâu thiết kế, chế tạo, quãng cáo, chào bán sản phẩm cho đến các biện pháp hậu mãi… Cuộc sống ngày càng đòi hỏi phải có chất lượng cao. Từ sản phẩm, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục… cho đến con người cần đạt chất lượng và có giá trị.
Có thể dùng cụm từ “chất lượng cao” để suy niệm bài Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ “chất lượng cao” với đòi hỏi hết sức lạ lùng là “từ bỏ và vác thập giá”. Những ai đáp ứng được yêu cầu ấy thì mới “xứng đáng làm môn đệ Thầy”.
Có rất đông người đến với Chúa Giêsu. Người hướng về họ và nói một cách rõ ràng, dứt khoát, quyết liệt “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Như thế, Chúa Giêsu muốn rằng: Ai muốn làm môn đệ Người thì phải yêu mến Người hơn tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa. Sau đó Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn: Một người xây tháp trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không. Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên giao chiến hay không. Cũng thế, nếu muốn theo Chúa Giêsu, muốn trở nên môn đệ “chất lượng cao” phải chấp nhận từ bỏ và vác thập giá của mình.
- Từ bỏ
Nhiều người hỏi rằng từ bỏ như Chúa Giêsu đòi hỏi làm sao mà sống được? làm sao tránh được tiếng bất hiếu, vô tình, vô nghĩa? Vậy thì phải hiểu chữ từ bỏ theo nghĩa nào? Từ bỏ ở đây hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều hơn. Người theo Chúa cần có tinh thần từ bỏ, ưu tiên chọn Chúa trên hết mọi sự, xem Chúa và việc của Chúa là quan trọng hơn cả. Mạng sống, cha mẹ, vợ con, nhà cửa, ruộng vườn đều rất quý trọng, nhưng người theo Chúa chọn điều quý hơn là chính Chúa. Họ giống như người “tìm được viên ngọc quý, tìm được kho báu chôn trong ruộng, liền trở về bán tất cả để mua viên ngọc, mua thửa ruộng ấy”. Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ bỏ, nghĩa là đặt tất cả dưới Người, yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn nên biết tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có đủ tiền. Muốn thắng trận cần có lính. Muốn theo Chúa phải từ bỏ. Từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người. Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự phát triển.Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm nhất. Đưá trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới lớn lên. Cuộc sống đặt con người trước những sự lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần từ bỏ như cờ bạc, say sưa, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp… Cũng có những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn, chẳng hạn khi chọn trường học, chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng thì chỉ chọn một mà thôi. Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng quy tụ đọc giờ kinh. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân để sống đời tận hiến cho Chúa… Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình. Bằng hy sinh và tình yêu ai cũng sẽ làm được tất cả để cuộc sống ngày càng đạt “chất lượng cao”. Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là một cuộc mạo hiểm, đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ; nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.
- Vác thập giá
Hai yêu cầu được gói gọn trong hai động từ, đó là “từ bỏ” mọi sự và “vác” thập giá. Không chỉ dứt bỏ mọi sự, người môn đệ theo Chúa còn phải vác thập giá theo Chúa mỗi ngày trong đời sống của mình
Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.
Nghe nói đến thập giá phải vác, người ta có thể cho đó là một đòi hỏi quá sức con người. Thật ra, thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng, nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ một tình yêu của Đấng Cứu Độ. Thập giá là hy sinh của Chúa. Có tình yêu nào mà không cần đến ngôn ngữ của hy sinh?
Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thánh giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.
Tình yêu như là điểm giao thoa giũa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến vời niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Đức Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại. Cái chết của Chúa là một hiến lễ có giá trị cứu chuộc tội, đền tội và Người “chỉ dâng hiến lễ một lần là đủ”.
Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nới ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là Thánh giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh. Sự thánh ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không là thánh giá.
Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Người môn đệ “chất lượng cao” luôn luôn đặt tất cả dưới Chúa và yêu Chúa trên mọi sự. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành thánh giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.
89. Trung thành theo Chúa
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Báo “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” số 10-8/2013 có bài viết “Lời khuyên máu” của Bác sĩ Nguyễn Lan Hải, kể chuyện cuộc đời Thánh Nữ Gianna Baretta Molla.
Ngày 24-4-1994, ĐGH Gioan Phaolô II đã tôn phong Bà Gianna lên bậc Chân Phước trong dịp mở đầu Năm Quốc Tế về Gia Đình. Ngày 16-5-2004, ĐGH Gioan Phaolô II đã long trọng nâng Ngài lên bậc Hiển Thánh.
Bà là một nữ bác sĩ 39 tuổi, đã có chồng và có ba con, và đang mong đón đứa con thứ tư. Nhưng tin vui mau chóng đã trở thành nỗi lo: bà bị khối u phát sinh trong tử cung vào cuối tháng thứ hai của thai kỳ và phải mổ. Trong nghề y, Gianna hiểu rõ giới hạn của khoa học thời đó. Để cứu người mẹ, bệnh viện bắt buộc phải nạo thai và cắt cục bướm. Mổ cắt khối u để cho bào thai phát triển là điều vô cùng nguy hiểm cho tính mạng người mẹ, nhất là giai đoạn cuối khi sinh con, nhưng bà đã quyết định giữ con mình trong niềm tin tưởng phó thác.
Trước ngày sinh, Gianna tâm sự với cha linh hướng: “Con cầu nguyện liên miên trong những ngày này. Với niềm tin và hy vọng, con phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng. Con sẵn sàng hiến dâng đời sống để cứu con của con”. Trước khi lên bàn mổ, bác sĩ phẫu thuật hỏi lần cuối: “Tôi phải cứu ai bà hay con bà?” – Gianna trả lời: “Cứu con tôi và đừng lo gì cho tôi”. Vị giáo sư người Do Thái, mặc dầu không đồng ý với Gianna, đã làm theo ý bà, và ông đã thốt lên: “Thật đúng là người mẹ Công Giáo”.
Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1962, Gianna chuyển dạ. Bà nói với một Nữ Tu làm y tá trong nhà thương: “Chị yêu quý, hôm nay tôi biết chắc tôi sẽ chết, nhưng không sao, miễn con tôi được sống”. Đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, bác sĩ đã mổ và cứu cô bé an toàn khỏe mạnh, mang tên Emanuela “Chúa ở cùng chúng ta”. Sau ca mổ, Gianna rất đau đớn, nhưng bà vẫn can đảm phó thác, dâng mình cho Chúa như một của lễ hy sinh, với một tâm hồn khiêm tốn tin tưởng. Gianna muốn kết hợp sự đau đớn của mình với sự Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Một tuần lễ sau Phục Sinh, Gianna đã nhắm mắt vĩnh viễn về Trời với Chúa, miệng luôn lẩm bẩm: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu Chúa”.
Trong nghi lễ phong thánh, ĐGH Gioan Phaolô II ca ngợi Thánh Nữ: “Ngài được hồng ân Chúa ban cho một gia đình đầm ấm, một đức tin và tình yêu sung mãn. Ngài là một người mẹ hạnh phúc, nhưng khi thọ thai đứa con thứ tư, ngài đã trải qua cơn thử thách lớn lao. Trong cuộc dằn co giữa hai lựa chọn, hoặc là cứu lấy mạng sống mình, hoặc là bảo toàn sự sống của thai nhi trong bụng mình, ngài đã không ngần ngại tự hy sinh mình. Ngài quả đã cho chúng ta một chứng tá hào hùng, để lại cho chúng ta bài ca tán dương sự sống để chống lại trào lưu suy tư thoái hóa ngày nay đang lan rộng khắp hành tinh này.”. Thánh nữ đã noi gương Chúa Kitô “yêu thương những người thân của mình còn trong thế gian và yêu thương họ cho đến cùng”.
Trang Tin Mừng hôm nay có hai cụm từ rất ý nghĩa, đó là ‘đi theo’ và ‘làm môn đệ’: “Khi ấy có rất đông người ‘đi theo’ Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ… thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi. Ai không vác thập giá mình mà ‘đi theo’ tôi thì không thể ‘làm môn đệ’ tôi được”.
Quả vậy, có rất đông người “đi theo” Chúa Giêsu, nhưng không phải tất cả đều là “môn đệ” của Ngài; chỉ những ai đi theo mà biết “từ bỏ” và “vác thập giá” thì mới thực sự “là môn đệ” của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu nói những lời rất thẳng thắn và chân thành với “đám đông những người” đang đi theo Ngài: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”. Người ta đi theo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ, có khi là những lý do rất trần tục. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với họ, theo Ngài thì phải từ bỏ, bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống, và lại còn phải vác thập giá nữa. Từ bỏ mình và vác thập giá mình luôn là điều không dễ thực hiện chút nào. Thế nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy, thì mới xứng đáng làm môn đệ của Ngài.
Cuộc đời Thánh Gianna Beretta là một hành trình đi theo Chúa, làm môn đệ của Chúa. Gianna sinh ở Magenta nước Ý vào ngày 4-10-1922. Cô là con thứ mười trong gia đình mười ba người con, có một người anh làm linh mục. Bố mẹ Gianna rất đạo đức, luôn dạy con cái biết cầu nguyện và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngay từ buổi thiếu niên, Gianna đã lãnh nhận một niềm tin hiến dâng và một nền giáo dục kitô giáo sâu đậm. Nền giáo dục này đã dạy cô coi cuộc sống là sự dâng hiến tuyệt diệu cho Thiên Chúa, tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài và xác tín vào sự cần thiết hiệu nghiệm của lời cầu nguyện. Trong những năm còn học trung và đại học, bên cạnh việc chăm chỉ học hành, Gianna đã diễn tả niềm tin của mình bằng nhiệt tâm dấn thân vào công tác tông đồ cho giới trẻ trong tổ chức ‘Action Catholique’ của Ý. Cô cũng tham gia vào tổ chức từ thiện của Hội Dòng Bác Ái Thánh Vinh Sơn Phaolô, đặc biệt chăm sóc trẻ em, người già cả và người nghèo
Gianna là một thiếu nữ tài giỏi bước ngành y khoa. Năm 1949 cô lấy bằng bác sĩ y khoa và giải phẫu tại Đại Học Pavia. Năm sau, cô mở một dưỡng đường ở Mesero, gần Magenta. Hai năm sau đó, cô có bằng về chuyên khoa nhi đồng của Đại Học Milan. Sau đó, bác sĩ Beretta chuyên chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh, cũng như người già và người nghèo.
Bác sĩ Gianna đảm trách công việc y khoa không vì lý do tài chánh, hay ngay cả lý do từ thiện. Đối với bà, hành nghề y khoa là một “sứ vụ.” Trong những năm theo học, bà đã tình nguyện phục vụ người già, người bệnh tật với tư cách là một thành viên của tổ chức Thánh Vinh Sơn Phaolô. Là một bác sĩ, bà gia tăng sự phục vụ độ lượng dưới một hình thức của “Công Giáo Tiến Hành”: giáo dân tình nguyện làm việc theo nhu cầu và tinh thần của Giáo Hội. Bà là một phụ nữ trẻ hăng say và đầy nhiệt huyết, một người thích leo núi mạo hiểm và trượt tuyết.
Cuộc hôn nhân vào năm 1955 đã đem lại cho Bác Sĩ Gianna một cơ hội để phát triển “sứ vụ” của bà. Ông bà Gianna và Pietro Molla là một đôi vợ chồng vui vẻ. Là một phụ nữ quân bình và có lương tri, bà đã thành công khi hài hòa sự nghiệp của một người mẹ, một người vợ và một bác sĩ.
Khi gặp nghịch cảnh phải phá thai để được sống, bà Gianna phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng, sẵn sàng hiến dâng đời sống để cứu con của mình. Sự từ bỏ như thế là cách diễn tả một tình yêu. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập. Nhà khoa học phải bỏ ra nhiều năm nghiên cứu mới có cơ may phát minh và sáng chế… Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng.
Laura con gái của thánh nữ đã nói về mẹ mình như sau: Mẹ tôi là một người đàn bà hạnh phúc. Mẹ tôi yêu cuộc sống cho đến chết và biết chấp nhận mọi sự Chúa ban, ngay cả đau khổ. Mẹ Gianna đã đón nhận thập giá bằng tình mẫu tử cao quý.
Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thánh giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người. Tình yêu như là điểm giao thoa giũa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến vời niềm vui. Không có tình yêu thì thập giá không là Thánh Giá.
Ba điều kiện: từ bỏ, vác thập giá, bước theo Chúa Giêsu thật không dễ dàng chút nào. Phải phấn đấu thường xuyên, phải chiến đấu từng ngày cho nên bao giờ cũng gây nên đau khổ thể xác và tinh thần. Bằng tình yêu vượt qua đau khổ để nên môn đệ Chúa Giêsu là niềm hạnh phúc và là một vinh dự.
Thánh Gianna là chứng nhân sống đạo thời nay, người có tâm hồn giàu cảm thương đối với những người bệnh tật đau khổ, hy sinh mạng sống vì người mình yêu, phản ánh tình thương trên Thánh Giá của Chúa Giêsu.
Ai là người có thể khẳng định mình đã hoàn toàn theo Chúa Giêsu? Ai muốn đi theo Chúa Giêsu phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, thậm chí đến chỗ mất mạng sống mình. Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: tình yêu gia đình, bạn bè và bản thân mình.Thập giá của Chúa Giêsu là dấu chỉ cụ thể về tình yêu và sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha.
Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành Thánh Giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, và xin Chúa giúp chúng con được trung thành cho đến cùng là đi trọn con đường tình yêu như Chúa đã đi. Amen.
Các tin khác
.: A LÀ ĐẤNG CHĂN CHIÊN LÀNH (10/05/2025) .: AN TOÀN TRONG TAY THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (10/05/2025) .: TÔI BIẾT CHIÊN CỦA TÔI VÀ CHIÊN TÔI BIẾT TÔI (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH - MÙA XUÂN HỘI THÁNH (10/05/2025) .: TÔI CÓ THUỘC ĐOÀN CHIÊN CHÚA KHÔNG? (10/05/2025) .: CHÚA CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI (10/05/2025) .: KITÔ HỮU THAM DỰ SỨ VỤ MỤC TỬ CỦA CHÚA GIÊSU NHỜ CHỨC NĂNG VƯƠNG GIẢ (10/05/2025) .: KHÔNG AI CƯỚP ĐƯỢC KHỎI TAY TÔI (10/05/2025) .: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam