Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 56

Tổng truy cập: 1377418

NHỮNG LỜI TRỊNH TRỌNG SAU HẾT

Những lời trịnh trọng sau hết

Vào một buổi sáng tinh sương, các khách hàng đang ngồi ăn và xì xèo với nhau trong một tiệm ăn sáng, thì đột nhiên một người chạy vào tiệm ăn và hét lớn, "Mọi người hãy bỏ chạy nhanh lên, Big Jake đang vô đây!" Khi mọi người đang quính quít lên bỏ chạy thì một gã đàn ông to lớn đạp cửa đi vào và nói với người chủ quán, "Cho tôi một gallon cà phê." Người chủ quán liền cấp tốc pha một gallon cà phê cho Big Jake. Sau khi uống xong, người chủ quán hỏi tiếp, "Thưa ông, ông có muốn uống thêm 1 gallon nữa không?" "Không cần đâu," Big Jake trả lời, "Tôi cần phải đi bởi vì tôi nghe nói rằng Big Mike đang đến."

Bài Phúc Âm hôm nay tả lại cái cảnh buổi tối ngày Chúa Nhật Phục Sinh thứ nhất. Các tông đồ đang sợ hãi trốn tránh sau cánh cửa đóng kín và khóa chặt. Họ sợ bị bắt và sẽ bị giết như chính Thầy của họ. Họ sợ rằng họ sẽ là những người kế tiếp sẽ bị đóng đinh. Tuy thế, sự sợ hãi của họ đã làm cho họ lầm lạc. Chúa Giêsu đã phục sinh và đang đến với họ.

Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!... Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em... hãy đón nhận lấy Thánh Thần" (Gn 20:19-22).

Vào ngày Lễ Hiện Xuống hôm nay, Chúa Giêsu đến với chúng ta. Ngài đang hiện diện ở đây và nói với mỗi người chúng ta rằng, "Bình an cho các con... như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con..." Hy vọng rằng chúng ta sẽ được giải thoát khỏi những mối bận tâm và lo lắng và chiếm đoạt được sự bình an trong tâm hồn.

Chúa Giêsu đến với con người và chứng tỏ quyền năng cao cả của Đấng Phục Sinh. Ngài đã phục sinh để qua đó chúng ta được ơn bình an trong tâm hồn, để đem đến cho chúng ta sự sung mãn, và làm cho chúng ta có thể chiếm được sự sống hoàn hảo và hoàn toàn mãi mãi.

Tất cả mọi người chúng ta đều đã cảm nghiệm được "Những Ánh Nắng của Thiên Chúa" ở ngoài bờ biển, trên núi cao, hoặc là những nơi khác. Điều đáng buồn đó là chúng ta cần những cái gì mà nó đập thẳng vào mắt của chúng ta. Cũng như thế, sự Phục Sinh của Chúa Kitô hiện diện ở khắp mọi nơi ở tạo vật, ở mọi người mà chúng ta gặp ở ngoài đường phố. Tất cả mọi sự chung quanh chúng ta đều được trang trí bằng sự hiện diện của sự thần linh của Thiên Chúa. Đó là điều mà Tân Uớc vẫn nói với chúng ta. Tuy nhiên đó chỉ là một sự bắt đầu.

Chuyện đã xảy ra cho các Kitô hữu thời sơ khai đó là Thiên Chúa đã đến và ngự giữa họ, và họ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa bằng một cách mới mẻ, mạnh mẽ, trào tràn, và đầy đủ, mà họ không thể nào giữ nổi trong mình. Họ phải đi để chia sẻ về Tin Mừng này.

Điều mà họ nhận thức được từ trong nội tâm của họ đó là sự yêu thương của Chúa Cha hiện diện ở trong Người Con của Ngài, Người Con đã đang hiện diện ở giữa họ như là một mẫu gương tuyệt hảo cho sự sống của mọi người.

Rất nhiều người nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng có bao nhiêu người nhận ra Ngài? Rất nhiều người nhìn thấy bóng của Ngài, dân của Ngài, và lời giáo huấn của Ngài, thế nhưng đếm ngón tay có được bao nhiêu người nhận ra Ngài? Chỉ có một số rất ít người đã nhìn thẳng vào Ngài và nói với Ngài, "Con tin rằng Ngài là Con Thiên Chúa... Ngài là nguyên nhân của sự vui mừng... Con vui mừng khi có sự hiện diện của Ngài ở giữa con."

Trong cuốn sách trích lại những lời quí hóa cuối cùng của các vĩ nhân có ghi lại những lời của những người sau đây.

Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã trối, "Tôi thấy nhức đầu quá."

Tác giả của tờ báo Washington Irving đã nói, "Thôi, tôi phải xếp gối để chuẩn bị cho một buổi tối mệt mỏi! Khi nào thì việc này mới kết thúc!"

Nhạc sĩ Beethoven đã nói, "Các bạn hãy vỗ tay, màn kịch đã chấm dứt!"

Thánh Gioan Tông Đồ đã ghi lại lời cuối cùng của Chúa Giêsu, "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em."

Trong khi chúng ta ra đi như lời Chúa Giêsu đã truyền dạy, chúng ta đừng ngại làm với bàn tay lấm lét. Nếu những người láng giềng hoặc cộng đoàn cần đến sự giúp đỡ, chúng ta hãy mau mắn đáp lại. Đừng để cho sự ích kỷ trà trộn vào trong tâm hồn chúng ta. Nếu một người nào đó đang cần sự tha thứ, chúng ta đừng để cho lòng thù hận che đậy sự công chính của mình. Nếu một anh chị em đang cần giảm đi sự cô đơn, chúng ta đừng để cho mình bị bám chặt vào cái tính thờ ơ lãnh đạm.

Thế giới của chúng ta đang sống tràn đầy những đau khổ. Nhiệm vụ của chúng ta đó là làm những gì mình có thể để giảm bớt đi những khổ đau đó. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho người khác được hạnh phúc để chúng ta cũng sẽ được hưởng sự hạnh phúc. Thiên Chúa sẽ rất hài lòng với chúng ta bởi vì chúng ta làm theo lệnh Ngài truyền.

 

67. Thánh Thần sức mạnh tình yêu

Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục sinh không phải là điều dễ dàng với sức riêng con người. Hơn nữa, niềm tin ấy là cốt lõi của đạo chúng ta. Niềm tin ấy sẽ hướng dẫn cả cuộc đời của người tín hữu. Vì thế, chúng ta phải cần nhờ đến một sức mạnh thiêng liêng. Sức mạnh ấy do chính Thiên Chúa Cha ban cho. Đó là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Chúng ta nhớ lại khi Chúa Giêsu bị bắt, thì các Tông đồ đã trở nên những người hoang mang. Các ông chỉ còn biết vào phòng đóng kín cửa. Thế rồi, tâm trạng sợ hãi của các ông không còn nữa khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến. Bởi vì khi đến cùng các ông, Chúa Giêsu đã trao ban bình an và Chúa Thánh Thần cho họ. Từ những người nhút nhát, bấy giờ các ông đã được biến đổi thành những người can đảm và mạnh dạn lạ thường.

Nhìn vào Giáo hội, chúng ta cũng sẽ thấy gần 2000 năm qua Giáo hội đã trải qua biết bao sóng gió. Có lúc tưởng chừng mất hết hy vọng, hết phương cứu chữa. Thế nhưng nhờ có sức mạnh của Chúa Thánh Thần nên Giáo hội vẫn còn đứng vững và lớn mạnh cho đến ngày nay.

Chúa Thánh Thần cũng đã ở với Chúa Giêsu từ giây phút được thụ thai cho đến dưới chân thập giá. Chúng ta đã được Giáo hội dạy tuyên xưng rằng: "Bởi phép Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã chịu thai trong lòng Đức Mẹ". Đặc biệt, trong vườn Câu Dầu nếu không có sức mạnh của Chúa Thánh Thần thì có thể nói Người đã không thể hoàn thành được sứ mạng Chúa Cha trao phó.

Vậy Chúa Thánh Thần là Đấng nào?

Qua Giáo lý, Giáo hội dạy ta biết: "Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, cùng một bản tính và một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy". Nói cách khác, Chúa Thánh Thần chính là sức mạnh tình yêu xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con.

Chúa Thánh Thần được biểu tượng bằng gió, nước, lửa, khí,... Vì thế, Chúa Thánh Thần thật là cân thiết trong đời sống của mỗi người chúng ta.

Mỗi người chúng ta được Thiên Chúa qua Giáo hội trao ban Chúa Thánh Thần khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Cách đặc biệt, khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Nhờ có Chúa Thánh Thần mà chúng ta được soi sáng để biết cần phải làm gì mà đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Hơn nữa, cũng chính Người sẽ dạy ta biết cầu nguyện.

Bằng cách nào ta có thể biết Chúa Thánh Thần còn ở trong ta. Thánh Phaolô chỉ cho trong thư gởi tín hữu Galata như sau: "Hoa quả của Thánh Thần là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5, 22-23a). Như vậy, khi ta sống ghen ghét, đố kỵ, ganh tỵ, hận thù, chia rẽ... là lúc ta không còn để cho sức mạnh tình yêu của Chúa Thánh Thần ngự trị trong tâm hồn ta. Những lúc ấy chúng ta hãy mau quay về xin Chúa Thánh Thần chữa lành và đổi mới cách sống của mình.

Nguyện xin Chúa Thánh Thần là sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa ban cho chúng con biết để cho Người hướng dẫn đời con. Bởi vì tự sức mình, con không thể sống đẹp lòng Thiên Chúa Cha được.

 

68. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Ngày nay, tại sao Giáo Hội lại kém phát triển về số lượng, chưa nói tới chất lượng? Có phải vì cách loan báo Tin Mừng của chúng ta không phù hợp với thời đại? Người thời đại mong mỏi Giáo Hội làm gì cho xã hội, thế giới?

2. Con người thời đại, nhất là người nghèo, người bị áp bức, cần chúng ta thể hiện tình thương đối với họ qua sự chăm sóc, giúp đỡ, nâng họ lên, hay họ cần chúng ta rao giảng Đức Kitô cho họ? Họ cần chân lý hay tình thương?

Suy tư gợi ý:

1. Thánh Thần tạo biến đổi lạ lùng nơi các tông đồ

So sánh tâm lý của các tông đồ trong bài Tin Mừng và trong bài đọc I hôm nay, ta thấy có sự biến đổi hết sức lạ lùng trong một thời gian hết sức ngắn: chỉ hơn một tháng. Sau khi Thầy mình bị giết, các ông sợ hãi người Do Thái đến độ phải ở chung với nhau cho đỡ sợ, và phải đóng kín cửa. Thế mà ngay sau khi Thánh Thần hiện xuống, các ông trở nên hết sức dạn dĩ: dám công khai biểu lộ và làm chứng niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô và sự sống lại của Ngài, bất chấp bị bắt bớ, tù đày và cả cái chết lúc nào cũng sẵn sàng đến với các ông. Bị tù nhiều lần, nhưng lần nào cũng như lần nấy, vừa ở tù ra là các ông lại tiếp tục rao giảng Đức Kitô một cách công khai, không lén lút. Chính vì thế, hầu hết các tông đồ đã bị giết một cách thê thảm vì danh Đức Giêsu.

Tâm lý con người ai cũng ham sống sợ chết, ham sướng sợ khổ, ham giàu sợ nghèo, ham vinh sợ nhục. Nhưng tình yêu đối với Thiên Chúa và nhân loại, cùng với ơn biến đổi của Thánh Thần, đã làm các tông đồ và rất nhiều Kitô hữu vượt lên những nỗi sợ đó, để dám làm những gì lý tưởng và lương tâm mình đòi buộc: «Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29).

2. Thánh Thần biến đổi là để thi hành sứ mạng

Bài Tin Mừng cho ta thấy lời chúc bình an, lời sai đi, và việc lãnh nhận Thánh Thần đi chung với nhau. Đức Giêsu nói: «Chúc anh em được bình an! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em». Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần». Như vậy, việc lãnh nhận Thánh Thần là để thực hiện sứ mạng mà Đức Giêsu sai chúng ta làm, với tâm hồn bình an, không sợ sệt lo lắng. Thánh Thần làm cho tâm hồn các tông đồ bình an, và có bình an trong tâm hồn, các ông mới đủ can đảm để công khai làm chứng cho Đức Giêsu. Do đó, để lãnh nhận Thánh Thần và ơn bình an, chúng ta phải có lý tưởng là sẵn sàng làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, cho Thiên Chúa, cho chân lý, cho công lý, cho hòa bình giữa mọi người. Thánh Thần không ban ơn của Ngài cho những người không có lý tưởng, không có tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Vì giả như có được ơn Thánh Thần, họ cũng chẳng ích lợi gì cho ai, mà thậm chí gây hại, vì khi không có tình yêu và lý tưởng, họ sẽ lạm dụng những ơn ấy.

3. Sứ mạng của người Kitô hữu

Ngày nay, tỷ lệ Kitô hữu tại châu Âu bị suy giảm trầm trọng, và có vẻ như không tăng lên tại châu Á. Điều ấy khiến mọi Kitô hữu phải suy nghĩ và đặt lại vấn đề cách thức loan báo Tin Mừng của mình, có thể nó không hợp với nhu cầu hay đòi hỏi của thời đại. Con người thời đại này đã thay đổi rất nhiều so với cách đây 50 năm. Hoàn cảnh (văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật, nhu cầu con người, v.v…) đã thay đổi, khiến não trạng, cách nhìn, cách suy nghĩ, lối sống của con người không còn như xưa. Vì thế, nếu chúng ta vẫn giữ cách thức loan báo Tin Mừng như thời tổ tiên ta, e rằng việc loan báo không còn hợp thời và hữu hiệu nữa.

Người thời nay chịu ảnh hưởng não trạng khoa học thực nghiệm rất nhiều. Họ không thể tin vào lời nói xuông như cha ông họ cách đây 50 hay 100 năm. Họ cần thực chứng, vì đầu óc của họ thực tế hơn xưa rất nhiều. Ngày nay, người ta không thể tin được một Kitô hữu miệng thì luôn luôn nói về tình thương, mà cách sống thì tỏ ra chẳng tình nghĩa với ai. Giới trẻ thời nay đã chán ngấy cái cảnh cha mẹ mình hằng ngày đi lễ, rước lễ, xin Chúa xót thương ban cho mình đủ thứ ơn lành, nhưng lại luôn luôn tỏ ra ích kỷ, bảo thủ quyền lợi, và lãnh đạm trước sự đau khổ hay nhu cầu cấp bách của người chung quanh. Não trạng thực tế khiến người thời đại nhìn thấy rất rõ sự tương phản giữa lời rao giảng và cách sống của những người chuyên loan báo Tin Mừng. Lời rao giảng dù có hay, hùng hồn, hấp dẫn, nhưng không được minh chứng bằng đời sống thực tế của người rao giảng, thì chẳng lôi cuốn được ai!

Ngày nay, khắp nơi trên thế giới, chỗ nào cũng có những bất công, đàn áp, người nghèo bị khinh miệt và càng ngày càng nghèo hơn, người bị gạt ra ngoài lề xã hội ngày càng nhiều, sự bóc lột giữa người với người ngày càng tinh vi, sự chênh lệch giữa người giầu và người nghèo, giữa nước giầu với nước nghèo ngày càng lớn, và biết bao thảm trạng khác. Nhưng thử hỏi: mỗi người Kitô hữu chúng ta đã làm gì trước tình trạng xấu ác đó? Biết bao Kitô hữu không hề quan tâm, đến nỗi không ý thức gì về tình trạng ấy! Biết bao Kitô hữu biết nhưng mặc kệ, ai ra sao thì ra, miễn đời sống mình bình an đầy đủ là được rồi! Biết bao Kitô hữu đã im lặng vì muốn an thân, không muốn bị liên lụy, cho dù sự lên tiếng của mình có thể cải thiện được tình trạng không nhiều thì ít! Biết bao Kitô hữu chẳng những không lên tiếng, mà còn thỏa hiệp hay hùa theo sự ác, chỉ vì quyền lợi của mình! Bất chấp và mặc kệ cho sự ác, sự khổ, bất công, nghèo đói hoành hoành, nhiều Kitô hữu vẫn an tâm rao giảng thứ Tin Mừng giải phóng, là «Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù được sáng mắt, cho kẻ bị áp bức được tự do, v.v…» (Mt 4,18). Làm sao người thời nay với não trạng khoa học thực nghiệm có thể tin vào lời của những ngôn sứ không hề có những hành động nào đích thực là ngôn sứ? Những người nghèo khổ, những người bị áp bức, những người bị bất công đang chờ đợi hay mong mỏi chúng ta làm gì? Họ mong chúng ta cứu họ thoát khổ, lên tiếng chống lại áp bức bất công, hay họ mong chúng ta rao giảng Đức Giêsu Kitô cho họ, hoặc cho họ biết rằng Ngài là Cứu Độ duy nhất? Họ cần chúng ta cụ thể hóa tình thương của ta đối với họ, hay họ cần chúng ta rao giảng chân lý? Chúng ta đã làm gì?

Đã từ lâu, chúng ta quá hăng say rao giảng chân lý, mà quên mất hoặc không để ý đến những nhu cầu cụ thể và thực tế của dân chúng. Họ cần tình thương, nhưng chúng ta chỉ cho họ chân lý! nói đúng hơn là cho họ một mớ lý thuyết về chân lý! Đạo của chúng ta mà như thế thì còn hấp dẫn được ai? Vì thế, đừng lấy làm lạ tự hỏi tại sao Kitô giáo lại bị giảm sút tại châu Âu và không phát triển được tại châu Á. Người Kitô hữu hãy yêu nhau và yêu tất cả mọi người trước đã, đừng quan tâm tới việc rao giảng vội! Chính đời sống yêu thương của người Kitô hữu mới là lời giảng hùng hồn và hữu hiệu nhất cho thời đại khoa học thực nghiệm hiện nay. Người Kitô hữu cứ sống yêu thương và thực hiện hay làm chứng cho công lý trước đã, toàn thế giới sẽ tự động trở nên Kitô hữu sau. Còn hăng say rao giảng mà không yêu thương, mà coi nhẹ công lý, thì mọi lời rao giảng đều «chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng» (1 Cr 13,1), hoàn toàn vô ích!

4. Cần có sự biến đổi

Giáo Hội hiện nay cần Thánh Thần biến đổi hơn bao giờ hết. Biến đổi trước hết là não trạng loan báo Tin Mừng. Chúng ta chỉ thích loan báo bằng lời nói, chứ không phải bằng đời sống, bằng việc làm cụ thể. Cần phải thay đổi não trạng đó nếu muốn Giáo Hội tồn tại và phát triển. Sứ mạng của Giáo Hội là sống và thực hành yêu thương hơn là rao giảng chân lý. Tôi không có ý coi nhẹ việc rao giảng chân lý, nhưng phải coi việc sống yêu thương là quan trọng hơn, và quan trọng hơn rất nhiều. Và chỉ có tình thương đích thực mới làm chúng ta mạnh dạn, can đảm như các tông đồ, dám coi thường tất cả (bắt bớ, tù đày, chết chóc) để nói lên tiếng nói ngôn sứ của mình. Cũng như chỉ có tình thương đối với con mình mới có thể thúc đẩy người cha hay người mẹ xông vào hiểm nguy để cứu lấy con mình. Ơn Thánh Thần mà Giáo Hội và mọi Kitô hữu rất cần hiện nay là tình yêu thương.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Thánh Thần, xin đổ ơn của Ngài xuống trên từng người chúng con, đặc biệt ơn biết yêu thương, biết hy sinh vì người khác, để chúng con loan báo Tin Mừng một cách hữu hiệu bằng chính đời sống yêu thương được biểu hiện bằng những hành động cụ thể như Đức Giêsu đã dạy, chứ không chỉ loan báo bằng lời nói xuông. Amen.

 

69. Chúa Thánh Thần, Đấng thông ban mọi sự

Chúa Giêsu khi chịu chết trên Thập Giá, Ngài đã bị tên lính lấy lưỡi đòng đâm thấu cạnh nương long để máu cùng nước chảy ra từ đó sinh ra nguồn sự sống cho nhân loại, khai sinh Giáo hội Chúa Kitô. Nhưng để Giáo hội ấy được giới thiệu với thế giới thì phải đợi đến 50 ngày sau tức vào ngày Lễ Ngũ Tuần, phải đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống thì dân Do Thái hay nói rộng hơn là thế giới mới nhận ra khuôn mặt của Giáo hội Chúa Kitô. Như thế, Chúa Thánh Thần đã làm một cuộc đổi mới nơi Giáo hội, đã hoàn tất những gì mà Chúa Giêsu đã thực hiện nơi đời sống dương thế của Ngài. Hôm nay mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống ta hãy suy niệm để thấy được vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội cũng như trong chính cuộc sống chúng ta.

Trước hết, Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất trong Giáo hội. Giáo hội được Chúa Kitô thiết lập mà các tông đồ là những tín hữu đầu tiên. Ngay trong cuộc thương khó của Chúa Kitô, các tông đồ, các môn đệ đã bỏ chạy tán loạn. Sau khi Chúa Phục sinh mặc dù các tông đồ có hội họp lại với nhau nhưng sự hiệp nhất này là vì sợ hơn là vì tin vào Chúa phục sinh, bằng chứng là Tôma đã có lần không cùng hiệp nhất với các môn đệ khác. Nhưng trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống các ông đã có mặt đông đủ và như trong bài đọc Tông Đồ Công Vụ 2,1-11 thuật lại rằng "Mọi người kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của họ". Chính Chúa Thánh Thần đã biến đổi những con người tầm thường thành những con người truyền giáo, từ những người phường chài ít học trở nên người nói lời Thiên Chúa cách lưu loát và đặc biệt Chúa Thánh Thần biến đổi mọi người để họ cùng nghe và cùng hiểu Tin Mừng của Thiên Chúa được loan báo cho mọi dân tộc.

Nhìn vào Giáo hội ngày nay Chúa Thánh Thần đóng vai trò hiệp nhất trong Giáo hội cách đặc biệt. Ngài hiệp nhất muôn dân tộc, muôn người... để cùng tuyên xưng vào một Thiên Chúa duy nhất. Trong Chúa Thánh Thần không có khoảng cách, không có ranh giới. Dù có sự khác nhau về địa lý, và bản sắc văn hoá nhưng tất cả đều nên một trong Chúa Kitô.

Chúa Thánh Thần là nguồn động lực và phát kiến cho mọi hoạt động tông đồ. Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu và ngay cả khi Chúa Giêsu Phục Sinh thì các tông đồ luôn sống trong sợ hãi, luôn sống trong hoang mang bí lối... Nhưng với sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống thì các ông đã biến đổi một cách rõ rệt. Một Phêrô nhút nhát chối Thầy nay mạnh dạn tuyên xưng: vị chịu chết trên Thập Giá là Thầy mình, là Thiên Chúa, và cùng với Gioan ông đã mạnh dạn tuyên bố "Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa điều ấy có phải lẽ không?" (Cv 4,19). Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà các tông đồ hăng say đi rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô Phục Sinh và với những con người tham sống sợ chết mà nay lại dám lấy mạng sống mình để minh chứng Đấng chịu chết trên Thập Giá là Thiên Chúa. Sự lớn mạnh của Giáo hội thời sơ khai chính là bằng chứng cho thấy rõ sự hoạt động của Chúa Thánh Thần như: Các tông đồ mạnh dạn đi loan báo Tin Mừng, thiết lập các phó tế, thành lập các giáo đoàn, Rửa tội cho dân ngoại.. Như thế chính Chúa Thánh Thần là nguồn động lực và phát kiến mọi hoạt động tông đồ.

Chúa Thánh Thần vẫn hằng hoạt động trong Giáo hội chúng ta ngày nay đơn cử như Giáo hội Việt Nam chúng ta. Năm 1553 Tin Mừng được loan báo đến nước Việt Nam chúng ta nhưng phải trải qua nhiều gian lao khó khăn. Và hàng vạn người đã lấy mạng sống mình để tuyên xưng niềm tin. Nhìn với khía cạnh con người đây qủa là một thất bại vì sự mất mát quá lớn. Nhưng dưới tác động của Chúa Thánh Thần thì những khó khăn, tù đày, nhục hình... được mặc cho một ý nghĩa lớn lao hơn, nó như là hạt giống ươm mầm cho ngày nay nước Việt Nam có hàng triệu con người Việt Nam tin vào Thiên Chúa. Và hiện nay Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động âm thầm qua những biến cố, những cảnh huống của cuộc sống để đưa dẫn mọi người vững bước trên con đường đi theo Chúa.

Còn nhiều, còn nhiều những tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống của Giáo hội nói chung và trong mỗi con người chúng ta nói riêng. Như thế chúng ta phải sống như thế nào để cộng tác với Chúa Thánh Thần Đấng vẫn hằng hoạt động trong chúng ta.

Chúa Thánh Thần là Đấng thiêng liêng, vô hình. Chẳng phải Chúa Thánh Thần chỉ được ví như là lửa, gió, nước... Nhưng phải nhớ rằng Ngài là Đấng thiêng liêng và hoạt động của Ngài là vô tận nên ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần để Ngài ban cho ta nhận được đâu là thánh ý Thiên Chúa muốn chúng ta hoàn thành trong đời sống của mình. Mặt khác, chúng ta đừng bó buộc Chúa Thánh Thần phải là như thế này như thế kia, nhưng Ngài là tất cả nên chúng ta phải suy ngắm để khám phá được Ngài.

Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất và Ngài muốn chúng ta là dụng cụ để Ngài thực hiện sự hiệp nhất đó trong gia đình, trong lối xóm, trong xã hội... Nên khi trong chúng ta có sự bất hoà là khi chúng ta đi ngược lại với sự tác động của Thần Khí.

Chúa Thánh Thần là nguồn và phát kiến mọi hoạt động tông đồ. Hãy để Chúa Thánh Thần hành động trong chúng ta. Hãy hoạt động hết khả năng của mình trong sự suy ngắm và cầu nguyện để rồi Chúa hoàn tất những gì Ngài muốn thực hiện.

Hôm nay mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đổi mới mọi sự trong ngoài chúng ta để chúng ta được trở nên mềm mại trong lòng bàn tay Thiên Chúa từ đó Ngài sẽ làm nên những tác phẩm đẹp ý Ngài.

 

70. Suy niệm của Lm Lâm Thái Sơn

Mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần

Đối với một vài quốc gia thuộc Châu Âu, lễ «Chúa Thánh Thần Hiện Xuống» là lễ trọng, do đó ngày nghĩ lễ cũng được kéo dài, có nhiều xưởng hãng cho phép «nghỉ bác cầu» từ chiều thứ năm đến sáng thứ ba tuần sau. Và ta thấy từng đoàn xe nhôn nhao rời khỏi làng hoặc thành phố nơi mình trú ngụ để đi đây đi đó, lên núi hoặc xuống miền biển nắng ấm. Nếu những ngày đó có mặt trời và ta được dịp đi biển, hẳn nhiên ta sẽ chứng kiến những cánh buồm nho nhỏ hoặc ra khơi hoặc đùa giỡn với những làn sóng biển nhờ những luồng gió thổi mạnh. Con người chỉ cần lèo lái và ung dung đùa giỡn trên mặt biển, nhưng điều cần thiết là phải có gió.

Vậy thì bài đọc thứ nhất hôm nay cũng cho chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của Gió, vì gió và lửa biểu tượng sự hiện diện của Thần Linh Thiên Chúa: «khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió thổi mạnh, lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện, và mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần» (Cv 2,1-11).

Khi đề cập đến «gió, lửa, mây mù, sấm chớp» như dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, ta cần nhớ lại một vài đoạn Kinh Thánh: Lúc khởi đầu sáng tạo trời đất, thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước (St 1,1-2); lúc giải thoát dân It-ra-en ra khỏi đất Aicập vượt qua Biển Đỏ: Thiên Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh dồn biển lui, nước rẽ ra và con cái It-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn (Xh 14,15-31); lúc ban mười điều luật: Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì Thiên Chúa ngự trong đám lửa mà xuống và cả núi rung chuyển mạnh (Xh 19,16-24).

Gió không những biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa, mà còn tượng trưng Thần Linh Thiên Chúa, vì Thần Khí là sự sống. Với lời văn bóng bẩy, tác giả sách Sáng Thế viết: Lúc tạo dựng, Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (St 2,7); Trong sách Gióp, ông Êlihu nói: Sinh khí Thiên Chúa đã làm ra tôi, hơi thở của Đấng Toàn Năng đã cho tôi được sống (G 33,4). Lời văn tuy giản dị nhưng rất gợi hình và đầy ý nghĩa. Phải chăng khi đề cập đến người chết, ta cũng đã từng nói rằng (ông/bà) đó đã trút hơi thở cuối cùng. Vì hơi thở là sự sống, là Thần Khí, do đó sau khi Đức Giêsu Phục Sinh: Nơi các môn đệ ở, Ngài đến giữa các ông và nói «bình an cho anh em», đoạn Ngài thổi hơi cho các ông và bảo «anh em hãy nhận lấy Thánh Thần» (Ga 20,19-23). Từ lúc đó, các môn đệ lãnh nhận sức mạnh của Chúa Thánh Linh.

Và Giáo Hội cũng được khai sinh vào lúc Thần Linh Thiên Chúa ngự trên các môn đệ với những dấu chỉ gió và lưỡi lửa trong ngày lễ Ngũ Tuần. Lễ mừng kỷ niệm ngày khai sinh của dân Hy-bá tại núi Xi-nai đã trở thành ngày khai sinh của một Dân tộc mới, và từ nay Thần Khí đến thay thế Lề Luật. Ở núi Xi-nai, Lề Luật được ghi khắc bất động vào đá như một bảo chứng về lâu dài. Ngược lại, lửa và sinh khí của Thần Linh Thiên Chúa không bị chế ngự và giam kín, mà luôn soi sáng sứ điệp Tin Mừng cũng như thúc giục con người biết sống tự do không bị ràng buộc bởi tội lỗi, biết yêu thương như chính Thiên Chúa yêu thương.

Do đó, lễ Hiện Xuống được xem như biến cố phá tan những ranh giới văn hoá, sắc tộc, địa dư và tôn giáo tại Ít-ra-en. Từ nay nhân loại hoàn vũ với những khác biệt ngôn ngữ, văn hoá, não trạng và truyền thống được mời gọi làm công dân Nước Thiên Chúa, chứ không chỉ riêng một dân tộc Ít-ra-en nhỏ bé khép kín với những đặc ân thuở xưa; hơn nữa, dấu chỉ thuộc dân riêng không cần được ghi khắc vào da thịt (nghi thức cắt bì) mà khắc ghi vào tim trong hoán cải canh tân.

Sự đa dạng của các dân tộc được xem như điều phong phú cho nhân loại, tuy nhiên tính cách đó, trong bóng tối tội lỗi, có cơ nguy gây chia rẽ và thù hận giữa con người với nhau, thí dụ điển hình cho sự bất hạnh nhân loại đó là «tháp Ba-ben»: dự án xây dựng một thành phố với tháp có đỉnh cao chọc trời, một dự án ngạo mạn loại bỏ Thiên Chúa, tức nhiên chối từ tình yêu đưa đến sự xáo trộn tiếng nói và từ đó nhân loại bị phân tán khắp nơi trên mặt đất (St 11,1-9).

Vậy thì lễ Hiện Xuống được xem như một sự đối chọi vang lừng với tháp Ba-ben: Lúc đó, tại Giêrusalem vào lễ Ngũ Tuần, mọi người kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các Tông Đồ nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt, thán phục... (Cv 2, 1-11), bởi vì vượt trên các thổ ngữ, có một thế giới ngữ đó là tiếng nói của tình yêu và cũng chính là ngôn từ của Thiên Chúa.

Để đánh dấu điều mới mẻ căn bản của triều đại Thần Khí và các phẩm hạnh của vương quốc cần xây dựng tại trần thế, thánh Phaolô có viết trong bài đọc hai: Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa... Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa... Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: «Áp-ba! Cha ơi!» (Rm 8,8-17).

Tóm lại, nếu không có Thần Linh Thiên Chúa thì cũng không có Giáo Hội và chúng ta cũng không trở thành anh em. Nếu chúng ta được tràn đầy Thánh Thần, chúng ta sẽ nói những thứ tiếng hoàn toàn khác với những ngôn ngữ của thế giới ngày nay đang truyền đạt sự sùng bái các thần tượng, bao gồm những đam mê danh vọng, hận thù tranh chấp, ganh tị và chia rẽ. Nếu được tràn đầy Thánh Thần, mỗi người chúng ta sẽ phát biểu tuỳ theo ơn Chúa ban cho; lúc đó chúng ta sẽ là chứng tá của Đức Kitô, là sứ giả của Tin Mừng và Thần Khí chứng thực cho chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.

 

71. Nguồn sống

"Chúa thổi hơi trên các ông và bảo: anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần". Ga 14,22.

Sự sống con người có hai điều rất cần thiết và rất gần gũi: đó là hơi thở và nhịp đập của trái tim. Dĩ nhiên còn nhiều cái khác cũng rất cần thiết, ở đây ta chỉ bàn về hai điều này thôi. Trước hết, hơi thở: đó là thứ vô cùng cần thiết. Không có nó không thể có sự sống và nó đồng nghĩa với cái chết. Để diễn tả sự chết, người ta nói: nó hết thở rồi (nghĩa là đã chết). Hơi thở quan trọng như thế, vậy mà bình thường không ai để ý nó, cũng không mấy người quan tâm gìn giữ nó cẩn thận. Đợi tới khi gần chết, thiếu hơi thở, lúc đó ta mới thấy nó cần thiết vô cùng...Rồi nói tới nhịp đập của con tim: hơi thở nhiều lúc ta còn chủ động, còn dễ thấy, nhưng nhịp đập của trái tim lại là một hoạt động tự phát của cơ thể; nhiều lúc ta không thấy cần nó, nhưng nó lại là thứ không thể thiếu cho sự sống.... Hơi thở, nhịp đập con tim cần cho sự sống thể xác thế nào, thì Chúa Thánh Thần cũng cần thiết cho sự sống linh hồn ta y như vậy. Đó chính là đề tài ta sẽ suy niệm ngày lễ Chúa Thánh Thần hôm nay.

a. Một vài danh từ chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa:

* thổi hơi: đây là một cử chỉ chúc phúc. Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ người là để chúc phúc cho họ, cũng để trao ban Thánh Thần và ơn sủng Người cho các ông.

* hãy nhận lấy Thánh Thần (Gn 20, 22): tiếng Hêbrơ dịch là: Ruah; Hi lạp dịch là: Pneuma; la tinh dịch là: spiritus: có nghĩa gió, hơi thở - khi dùng từ gió và hơi thở để chỉ về Chúa Thánh Thần, điều đó muốn nói: Chúa Thánh Thần là Đấng có năng lực kỳ diệu như gió, như hơi thở, Đấng trao ban sự sống. Dù Ngài thật thần thiêng, nhưng lại hoạt động mãnh liệt trong nội tâm mọi người cùng với chính Thiên Chúa.

b. Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong vũ trụ và trong Hội Thánh:

Ngay từ chương đầu của sách Sáng thế ký,đã có nói về Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần Thiên Chúa đã hoạt động và sáng tạo vũ trụ, sáng tạo con người cách tốt đẹp và lạ lùng... Đến khi Con Thiên Chúa, Đức Giêsu xuống trần gian, ta cũng thấy mọi công việc và hoạt động của Người đều có sự hướng dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần...Rồi chính Hội thánh Chúa Giêsu đã lập ở trần gian, trước khi Chúa về trời, Người đã giao lại cho các tông đồ, chính Hội thánh đó đã đầy ơn sủng của Chúa Thánh Thần; nhất là từ ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã hiện diện sống động trong hội thánh trong các tông đồ từ hôm đó. Chính Người là nguyên lý, là động lực, là sức mạnh tác động trên các tông đồ, trong Hội thánh.

Người không tin Chúa Thánh Thần, họ nói: làm sao để chứng minh Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong hội thánh? Cùng lắm Hội Thánh ở trần gian là một tổ chức hữu hình, có cơ cấu khéo léo hơn các tôn giáo khác!...Ta tin vào Chúa Thánh Thần không phải là không có căn cứ: 1. vì chính Chúa Giêsu trước khi về trời đã hứa ban Chúa Thánh Thần. 2. các tông đồ trước ngày lễ Ngũ tuần, rất nhút nhát, ít học; vậy mà sau khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẵn sàng làm mọi chuyện, ngay cả hi sinh chính mạng sống mình. 3. Hội thánh qua 20 tk gặp biết bao sóng gió, tưởng có lúc tan tành rồi; vậy mà đến hôm nay vẫn đứng vững. Thực ra, nếu không có Thánh Thần, Hội thánh tự mình đứng vững được chăng?

c. Gợi ý sống và chia sẻ:

* Hoạt động của Chúa Thánh Thần, dù không thầy rõ như hai cộng hai là bốn, nhưng rõ ràng có nhiều biến cố trong Hội thánh không thể cắt nghĩa được nếu không nói đến ơn sủng của Chúa Thánh Thần. là người kitô hữu, ta có tin không?

* Chúa Thánh Thần là sức sống, ngồn mạch mọi ơn sủng, là hơi thở, là nhịp đập của con tim, không thể thiếu cho mọi kitô hữu. Ta có tin, có năng chạy tới và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Bằng mọi cách, ta có cố gắng sống theo sự chỉ dẫn của Người không?

 

72. Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

THÁNH THẦN HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNG

Đúng năm mươi ngày sau Lễ Chúa Giêsu Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, Đấng đã đến để đốt lên lửa mến yêu và truyền ban lòng can đảm loan báo Tin Mừng cho các môn đệ.

Không hiểu sao tuy đã được chứng kiến tận mắt Chúa Phục Sinh, được đàm đạo và ăn uống với Ngài, được nghe tận tai lời sai bảo làm nhân chứng cho Nước trời, ấy thế mà các người theo Chúa vẫn lo sợ. Chỉ biết cửa đóng then cài. Mãi cho đến một hôm, đang lúc họ hội nhau đông đủ trên phòng kín, thì bỗng từ trời có cơn gió mạnh. Tiếng rào rào như thể cuồng phong. Và lập tức, một quang cảnh kỳ lạ diễn ra: những lưỡi lửa xuất hiện, đậu trên từng người. Kết quả là ai nấy đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần.

Hiện tượng gió thổi trong ngày lễ Hiện xuống nhắc lại sự việc "khí thần bay là trên mặt nước" trong sách Sáng Thế Ký; bên cạnh đó, hình ảnh các tông đồ đầy tràn thần khí cũng gợi lên hình ảnh con người đầu tiên được thổi vào mình đầy hơi sự sống. Như thế, biến cố Hiện xuống đã trở nên một cuộc tạo thành mới, với Thánh Thần Thiên Chúa được thổi vào thế giới để khai sinh một nhiệm thể sống động là Giáo hội của Đức Kitô.

Bằng việc loan báo Tin Mừng, khởi đi từ các thánh tông đồ, một thời đại mới đã khởi đầu. Đó là thời đại mà Giáo hội được hướng dẫn và thánh hoá dưới tác động của Ngôi Ba Thiên Chúa.

Đặc sủng loan báo Tin Mừng được Chúa Thánh Thần ban xuống qua hình lưỡi lửa đậu trên đầu các tông đồ. Hình lửa này tượng trưng cho sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa, như xưa kia Moisen đã tiếp cận sự hiện diện thần linh qua ngọn lửa cháy nơi bụi gai (Xh 3).

Ngay sau khi tiếp nhận ơn Chúa Thánh Thần, như lời tường thuật của Luca trong sách Tông Đồ Công Vụ, các môn đệ đã thay đổi thái độ sống. Họ mở tung cánh cửa của rụt rè nhát đảm. Họ mạnh bạo cất tiếng nói. Tiếng nói đã phát ra từ miệng lưỡi của những con người đánh cá quê mùa, thất học. Nhưng tiếng nói ấy đã được dân chúng từ 13 vùng đất--đại diện cho các dân tộc từ bắc chí nam, từ đông sang tây--nghe và hiểu. Tất cả đều là nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Ngày xưa, khi lòng dạ con người kiêu căng ngạo mạn với trời, đ¨°i xây tháp Baben để lên đương đầu với Thiên Chúa, tiếng nói của họ, tuy là anh em một nhà, đã trở nên bất đồng. Mầm mống rối loạn, mơ hồ, kình địch, và phân ly đã nảy sinh. Người ta không còn hiểu nhau. Kết quả là phân tán. Ngày nay, Thần Khí đã xuống để qui tụ con cái từ muôn nước về cùng một mối, giúp họ hiểu nhau trong cùng một thứ ngôn ngữ là tình yêu và vinh quang của Thiên Chúa.

Theo niềm tin Kitô giáo, Thánh Thần là sức mạnh của yêu thương mà qua đó Chúa Cha đã trao ban trọn vẹn chính mình cho Chúa Con. Chúa Con đón nhận trọn vẹn sự sống từ nơi Cha, và rồi trong tình yêu của Thánh Thần, Ngài đã dâng lại trọn vẹn cho Cha. Như thế, Chúa Thánh Thần chính là Tình Yêu Hiệp Thông trong Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài cũng chính là nguồn ơn thông hiệp mọi tâm hồn trong cùng một niềm tin vào Đức Giêsu.

Như lời Thánh Phaolô khẳng định: "Trong Thần Khí độc nhất, hết thảy chúng ta nhờ thanh tẩy mà được nhập vào Thân Mình độc nhất..., và hết thảy đều đã được cùng uống một Thần Khí độc nhất" (1 Cor 12:13). Như thế, những hành vi, thái độ hay lời nói gây nên phân rẽ, rối loạn trong lòng Giáo hội đều tương phản với đường lối của Thánh Thần.

Thần Khí độc nhất liên kết mọi thành phần Kitô hữu chính là Thần khí thương yêu. Vì chỉ có yêu thương mới có nên một. Có yêu thương mới có the đạt đến việc cùng nhau thông hiệp trọn vẹn trong Thiên Chúa. Thánh Gioan đã nhấn mạnh: "Nếu ta yêu mến nhau, thì Thiên Chúa mới lưu lại trong ta. Nơi điều này mà ta biết là mình lưu lại trong Người và Người ở trong ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho ta" (1 Ga 4:13-14).

Thánh Phaolô cũng cùng một niềm xác tín: "Lòng mến của Thiên Chúa đã được đổ xuống lòng ta nhờ bởi Thánh Thần Người đã ban cho ta" (Rm 5:5).

Như thế, nhờ Thánh Thần mà ta có thể cất bước trên lối đường thương yêu, đi vào sự nên một với tha nhân trong Đức Kitô. Lắm khi người ta hay than trách: "không thể nào yêu nổi con người ấy." Có phải vì họ đã tận tâm tận lực nhưng không thành, hay vì chưa có Thần Khí Yêu Thương tác động và đỡ nâng?

Chỉ cần một luồng gió của ngày lễ Ngũ Tuần thổi qua, con người sẽ có dư can đảm mở tung cánh cửa tâm hồn để đến với anh chị em. Chỉ cần một đốm lửa của ơn Thánh Thần, bạn và tôi sẽ có đủ sức mạnh để công bố Tin Mừng Yêu Thương cho mọi người chung quanh.

Nhưng vấn đề là người ta có biết cùng nhau tề tựu để cầu nguyện như các tông đồ ngày xưa hay không. Thế nên để kiến tạo hiệp nhất và xây đắp tình yêu, con người cần phải cùng nhau ngồi xuống cầu nguyện.

 

73. Ân huệ Chúa Thánh Thần

(Suy niệm của  Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Khi hai người quý mến nhau, hay thương yêu nhau, để biểu lộ tình yêu họ sẽ tặng cho nhau những món quà quý giá: một cánh hoa, một tấm thiệp, một món quà... Một tặng phẩm hay một ân huệ mà một người đem tặng cho người khác là do lòng quảng đại và nhân hậu. Quảng đại vì người tặng hoàn toàn tự nguyện. Nhân hậu vì tình thương được thể hiện qua tặng phẩm.

Sự sống, sức khoẻ, tài năng, bình an, của cải, con cái... là những ân ban của Thiên Chúa cho con người. Ân huệ lớn nhất, ơn trọng đại nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là Ân Ban lớn lao cho Giáo Hội và cho Đức Maria.

1. Ân huệ Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội

Đức Kitô là người đầu tiên đã quan niệm tình yêu một cách vị tha chưa ai từng nghe thấy: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng mình vì bận hữu” (Ga 15, 13). Vì yêu thương con người, Ngài đã chịu khổ nạn, đã phục sinh và trao ban sự sống mới cho nhân loại. Đó là sự sống thần linh, là Chúa Thánh Thần.

Hôm nay đây trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông Đồ đang họp nhau cầu nguyện trong nhà Tiêc Ly cùng với Đức Maria. Chúa Thánh Thần đã Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi người, ban tràn đầy sức sống mới. Quyền năng Chúa Thánh Thần đến trên Giáo hội với sức lay động và chuyển thông.

Sức lay động vì Chúa Thánh Thần đã đến như thể cuồng phong thổi vang dậy đầy nhà. Ghế bàn không bay bổng, tường - mái nhà vẫn nằm yên, nhưng lòng người đã được lay động. Quyền năng Chúa Thánh Thần như gió mạnh đã làm bật tung các ổ khoá, các cửa to cửa nhỏ của ngôi nhà các Tông Đồ đang ẩn náu. Quyền năng Thánh Thần tung họ ra khỏi pháo đài để với hai bàn tay không và một trái tim đầy nhiệt huyết họ đi vào thế giới rao giàng Tin Mừng Đức Giê-su Phục Sinh.

Được sức lay động và đầy lửa Thánh Thần, các Tông Đồ cùng lên tiếng cao rao những kỳ công của Thiên Chúa. Thánh Phê-rô, lòng đầy Thánh Thần, đã hùng hồn thuyết giảng vể Chúa Giê-su Thương Khó và Phục Sinh. Có 3,000 người xin được Rửa Tội. Giáo Hội được khai sinh từ đó vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Thánh Thần đến, Giáo Hội khai sinh.

Tác động của Chúa Thánh Thần trên Giáo Hội thật mãnh liệt. Chỉ một nhóm Tông Đồ nhỏ bé, sợ hãi, co cụm, hoang mang, lúc nào cũng cửa đóng then cài. Thế mà giờ đây khi được tràn đầy Thánh Thần họ đã trở nên mạnh mẽ phi thường, hiên ngang, can trường làm chứng và loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Các Ngài được trang bị bằng quyền năng Thánh Thần để bẻ gãy sức mạnh của sự dữ, tội lỗi.

Dù bị đe dọa đòn vọt, dù gông cùm tù tội, các ngài vẫn trung kiên một niềm tin vào Chúa. Các Ngài đã lấy máu đào minh chứng cho lời rao giảng. Dù bị đàn áp bách hại, Giáo Hội vẫn lớn mạnh không ngừng. Hai mươi thế kỷ qua, con thuyền Giáo Hội do người dân chài Ga-li-lê cầm lái vẫn lướt qua mọi thăng trầm của lịch sử với muôn vàn thử thách giông tố để luôn đi tới.

Vậy thì bí quyết ẩn tàng trong đó và lý do tồn tại vĩnh cửu của Giáo Hội là gì nếu không phải chính là sức mạnh là quyền năng Chúa Thánh Thần.

Ngày nay, Giáo Hội vẫn chỉ có một sức mạnh đặc biệt, đó là quyền năng Chúa Thánh Thần. Với quyền năng này Giáo Hội không bao giờ chịu đóng chặt cửa để an hưởng hay cố thủ. Nhưng luôn ra khỏi tháp ngà để rao truyền Tin Mừng, dấn thân vào cuộc sống muôn mặt của thời đại, đồng hành và thích ứng với nhân loại trong thế giới ngày nay.

Công Đồng Vatican II là một Lễ Hiện Xuống Mới của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần vẫn luôn thổi sinh khí mới và ban cho Giáo Hội những ân huệ lớn lao. Mẹ Têrêxa Calcutta, Cha Thánh Piô, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI là những gương mặt vĩ đại đã và đang làm bừng lên sức sống tình thương, hoà bình của Chúa Thánh Thần trong thế giới sục sôi vì chiến tranh và hận thù này.

2. Ân huệ Thánh Thần cho Đức Ma-ri-a

Ngày Lễ Ngũ Tuần, Đức Ma-ri-a cũng tràn đầy Thánh Thần. Khi các Tông Đồ ra đi rao giảng tin mừng thì Đức Mẹ lại rút vào nơi thanh vắng, thinh lặng sống ẩn dấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa (Col 3,3). Chính Đức Mẹ đã khai sáng trong Giáo Hội ơn gọi sống đời ẩn dật và cầu nguyện bên cạnh đời sống tông đồ hoạt động.

Điều đó cho chúng ta thấy, trong Giáo Hội hoạt động cho dù vì NướcTrời chưa phải là tất cả. Giáo hội còn cần đến những tâm hồn cầu nguyện để lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần trước khi dấn thân vào sứ vụ. Thư Mục Vụ năm 1999 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã xác định: “Người loan báo Tin mừng phải là một nhà chiêm niệm trong hoạt động” (Số 14). Giáo Hội cần lời cầu nguyện cũng như cần hoạt động cho công cuộc Truyền Giáo. Đức Mẹ là nguyên mẫu cho đời sống cầu nguyện này. Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su suốt đời sống trong Dòng Kín, thế mà Giáo Hội đã đặt Ngài làm Bổn Mạng các xứ Truyền Giáo.

Lễ Ngũ Tuần kết thúc chu kỳ Phụng Vụ mùa Phục sinh với Ân Huệ Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội cầu nguyện và hoạt động. Mỗi người tín hữu được mời gọi sống hai chiều kích ấy mỗi ngày để hoa trái Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, hiền hoà, tiết độ... được trổ sinh trong tâm hồn và cuộc sống của mình (Gl 5, 23-23).

 

74. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Thánh Thần hiện xuống khai mở "những kênh truyền thông" mới

Chúa Nhật tuần trước Lễ Thăng Thiên cũng là Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội. Giáo Hội khuyến khích người Công Giáo ở các quốc gia trên toàn cầu sử dụng tốt hơn các phương tiện truyền thông và các hình thức thông tin khác để chia sẻ Tin Mừng cho tất cả mọi người nam nữ.

Sứ điệp Truyền thông năm nay nêu bật tầm quan trọng của các trang mạng xã hội như là "cổng thông tin của sự thật và đức tin", và là "không gian mới cho việc loan báo Tin Mừng".

Cuối năm ngoái, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã mở tài khoản Twitter Giáo hoàng đầu tiên. Ngài mời gọi mọi người công nhận tiềm năng của các mạng truyền thông xã hội và thúc giục các tín hữu trong Năm Đức Tin cân nhắc xem làm thế nào để sự hiện diện của mình trên các mạng có thể giúp truyền bá thông điệp Tin Mừng của tình yêu Thiên Chúa cho tất cả mọi người.

Kể từ bản tweet đầu tiên do Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI gởi vào ngày 12/12/2012, hơn 6 triệu người đã theo dõi.

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục sáng kiến đó, sử dụng các mạng lưới xã hội. Hiện nay tài khoản @Pontifex đăng các bản tweet bằng tiếng Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, Pháp, Đức, La Tinh, Ba Lan và Ả Rập. Con số bản tweet do Đức Giáo Hoàng Phanxicô gởi đi gia tăng rất nhanh.

Đức Hồng Y Carlo Martini từng nói: "Kinh nghiệm của Lễ Hiện Xuống (Cv 2,3-13) chính là Tin Mừng truyền thông".

Truyền thông là làm cho con người có khả năng để nghe để hiểu, có khả năng để loan báo và có khả năng để chuyển thông một sứ điệp. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã khai thông mọi tương giao, phá vỡ bức tường đã bị đóng kín từ sự kiện tháp Babel. Truyền thông Tin Mừng chính là mang tin vui đến cho mọi người.

Năm Thánh 2000, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giảng tuần tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma, trong bài giảng "Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần", ngài kể về tác động của Chúa Thánh Thần như một ân ban chuyển thông ánh sáng và niềm tin cho anh chị em người Hmong.

"Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta.

Tôi còn nhớ câu chuyện này.

Một ngày nọ, một cha sở miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmong muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:

- Anh chị em từ đâu đến?

- Chúng con từ Lai Châu, (nơi quân đội Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ năm 1954). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay.

- Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?

- Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.

- Không thể được! Không có một linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng của anh chị em, anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép Rửa tội được.

- Chúng con đã học tất cả từ một đài phát thanh phát đi từ Phi luật tân.

- Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công giáo nào có chương trình bằng thổ ngữ của anh chị em đâu!"

- Đó là đài phát thanh "Chân Lý".

- Một đài phát thanh GH công Giáo, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở thành Công giáo. Thật là điều lạ!

- Vị linh mục thật cảm kích bỗng thốt lên: Đây là một lễ Hiện Xuống mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần! Chúa Thánh Thần!

Rồi cha lại hỏi nhóm người Hmong: Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?

- Thưa cha, không thể được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.

Cả nhóm đã được rửa tội và chịu phép Thêm sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.

- Anh chị em sẽ không có Thánh Lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ. Anh chị em sẽ làm thế nào?

- Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9 giờ 30,chúng con ngưng làm việc thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh Lễ qua đài phát thanh Chân Lý phát từ Manila. Một Lễ Hiện Xuống mới của thế kỷ XX." (Chứng Nhân Hy Vọng, trang 235-237).

Hiến chế Tín lý về Mạc khải của CĐ Vaticanô II có nói: "Mạc Khải là việc Thiên Chúa 'Truyền Thông Chính Mình' cho nhân loại" (DV 6). Với biến cố Hiện Xuống, việc truyền thông của Thiên Chúa được hoàn tất nơi Đức Kitô và tiếp tục được nối dài trong Giáo Hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Lễ Hiện Xuống khai mở những "kênh truyền thông" mới. Vì thế, "Giáo Hội Công Giáo nhận thấy mình có bổn phận dùng các phương tiện truyền thông xã hội để loan báo ơn cứu độ và dạy con người biết sử dụng chúng cho đúng đắn" (Inter Mirifica, số 3). Chúa Thánh Thần là linh hồn Giáo Hội. Ngài tác động và canh tân Giáo Hội thực thi sứ vụ loan Tin Mừng: "Giáo Hội canh tân và thanh tẩy chính mình không bao giờ ngừng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần" (Vui mừng và Hy vọng, 21). Sách Công Vụ Tông Đồ đã minh chứng hùng hồn về điều ấy.

Suốt mùa Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ.

Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.

Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Kitô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Kitô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hylạp và Rôma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.

Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rôma. Giáo Hội đối diện với ba thách đố lớn là Do thái giáo, chính trị Rôma và triết học Hy lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do thái giáo, hội nhập vào triết học Hy lạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rôma. Chỉ với những người dân chài Galilê ít học, chỉ với một Phaolô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.

Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh Irênê đã nói: "Ở đâu có Thánh Linh của Đức Kitô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng".

Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stêphanô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giêrusalem. Cộng đoàn Kitô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm "Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu".

Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng.

Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.

Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam; sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc. Họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.

Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh. Những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần. Trong mọi thử thách, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Trong mọi biến cố đau thương, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.

Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa. Thế nhưng, những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, xa lộ thông tin, kỹ thuật số, toàn cầu hoá... Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ. Xã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hội phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: "Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do".

Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hội. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa.

Như thế người Kitô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây?

Lời Chúa chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: "Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con" (Ga 14, 26).

Khi được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.

Chúa Thánh Thần luôn bảo đảm cho sự nguyên vẹn của mạc khải. Ngài dẫn dắt Giáo Hội ngay giữa những kênh truyền thông mới mẻ của thế giới kỹ thuật số hôm nay. Môi trường này mang nơi mình ngôn ngữ thời đại, vì một thông điệp được phát đi từ nơi đây thường kèm theo hình ảnh và âm thanh. Điều này rất thuận lợi cho truyền thống của Kitô giáo, vốn mang rất nhiều yếu tố biểu tượng từ trong phụng vụ, kiến trúc nghệ thuật nơi các thánh đường, ảnh tượng thờ kính...Hơn nữa, Kitô giáo còn đi tiên phong trong các lãnh vực nghệ thuật, âm nhạc với mục đích diễn tả chân lý đức tin.

Kitô hữu phải là con người biết lắng nghe, lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người để qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sứ điệp Tin mừng được lan xa. Các phương tiện truyền thông xã hội như sách báo, phim ảnh, thi ca, nghệ thuật, sân khấu, tuồng kịch, thánh nhạc, kiến trúc, hội họa, truyền thanh, truyền hình, internet...đều có tầm ảnh hưởng lớn đối với công cuộc truyền thông Tin Mừng trong thời đại hôm nay.

Giáo Hội luôn thao thức những vấn đề của thời đại mình đang sống. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo Hội hướng đến đại dương của "nền văn hóa mới" này. Có Chúa Thánh Thần đồng hành và hướng dẫn, chúng ta trở nên những chứng nhân của Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến khắp muôn nước muôn dân.

Ở đâu có Thần Khí, ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống. Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả "nhảy mừng trong lòng mẹ". Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. CácTông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.

 

75. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng

Thống hối để nhận ơn Chúa Thánh thần

Trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu phán với các môn đệ: Thày ra đi, thì có ích lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thày không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thày đi, Thày sẽ sai Đấng ấy đến với anh em (Ga 16:7). Ta có thể tưởng tượng ra cái tâm trạng của các tông đồ sau khi Chúa về trời. Các ông phải cảm thấy cô dơn và lo sợ. Vì thế họ tụ họp nhau lại trong phòng đóng cửa kín mít, vì sợ người Do thái truy nã tố cáo. Và Mẹ Maria ở giữa họ và cầu nguyện với họ để xin Chúa Thánh thần hiện xuống.

Đọc Thánh kinh, ta thấy có một sự khác biệt nơi các tông đồ trước và sau ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống. Trước lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, người ta thấy cái tình trạng: một môn đệ bán thày, môn đệ khác chối Thày, số còn lại bỏ chạy trốn. Trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, các tông đồ đổi mới hẳn. Các ông hăng say rao giảng tin mừng cứu độ, làm chứng cho viêc Chúa sống lại, mà không còn sợ hãi. Ta tự hỏi có cái động lực nào đã khiến có sự thay đổi đó? Sách Tông đồ Công vụ ghi lại: Ai nấy đều được tràn đày ơn Thánh thần. Họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ, tuỳ theo khả năng Thánh thần ban cho (Cv 2:4). Không những Chúa Thánh thần biến đổi đời sống các tông đồ mà còn biến đổi đời sống của những người nghe lời giảng dạy của họ.

Nếu có ai hỏi Chúa Thánh thần lài ai? Đa số ta sẽ được nghe câu trả lời là Ngôi Ba Thiên Chúa với hình chim bồ câu hoặc ngọn lửa. Ngưòi công giáo thường sao lãng việc tôn sùng Chúa Thánh thần. Ta có khuynh hướng lãng quên Ngôi Ba Thiên Chúa vì ta không ý thức được về quyền năng và hoạt động của Chúa Thánh thần. Các tông đồ đã nhận lấy ơn Chúa Thánh thần khi Chúa Giêsu hiện ra với các ông sau khi Người sống lại từ cõi chế. Còn trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống các ông nhận lấy ơn Chúa Thánh thần cách đặc biệt hơn. Cũng một cách tương tự như vậy, người giáo hữu nhận lấy ơn Chúa Thánh thần trong khi chịu Phép rửa tội, nhưng trong ngày lễ Thêm sức, người giáo hữu nhận lấy ơn Chúa Thánh thần cách đặc biệt hơn. Sau khi chịu phép Thêm sức, nếu ta không biết khuấy động hoạt động của Chúa Thánh thần, ta sẽ không có kinh nghiệm về quyền năng của Người.

Có nhiều cách thế để làm cho ơn Chúa Thánh thần tác động trong đời sống. Đây là một cách để khơi động hoạt động của Chúa Thánh thần trong đời sống: đó là tâm tình ăn năn sám hối. Tâm tình ăn năn sám hối là điều kiện tiên quyết để mở lối cho ơn Chúa Thánh thần đến trong tâm hồn. Quan sát sơ, ta cũng thấy trong ly cà phê hay ly nước trái cây sinh tố, cái chất bổ béo thường đọng lại dưới đáy ly. Để có thể uống được chất bổ béo, ta phải khuấy lên. Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Sự hiện diện của Chúa Thánh thần được tiềm ẩn trong đáy lòng người tín hữu. Dùng tiếng bình dân ta có thể coi là Chúa Thánh thần ‘ngủ quên’ trong đời sống. Vì thế ta phải đánh thức Chúa Thánh thần dạy, nghĩa là phải khuấy động hoạt động của Chúa Thánh thần.

Trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, dân chúng hỏi các tông đồ: Chúng tôi phải làm gì? (Cv 2:37). Phêrô trả lời: Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh thần (Cv 2:38). Có những người đến bàn chuyện thiêng liêng với linh mục. Lúc đầu họ không coi những việc họ đã làm trong quá khứ là có tội. Khi họ nhận ra đó là tội, họ ăn năn khóc lóc thảm thiết với những giọt lệ sám hối. Sau khi họ nhận được ơn ăn năn hối cải, không ai bảo họ phải đi lễ thờ phượng, không ai phải thúc đẩy họ đọc kinh cầu nguyện, không ai bảo họ phải đọc Thánh kinh, không ai bảo họ phải làm việc từ thiện bác ái. Họ tự ý làm những việc ấy. Ước muốn của họ bây giời là muốn sống đời sống mới trong thánh thần với việc đ¨¢nh giá trị mới cho những giá trị trong đời sống, với việc họ khát khao cho nhu cầu thiêng liêng được toại nguyện, với việc họ xác tín về đức tin, với việc họ ước muốn phục vụ người khác. Cái bậc thang giá trị của họ trước kia là: giá trị vật chất, thứ đến là giá trị tinh thần rồi đến giá trị thiêng liêng. Bây giờ họ đổi ngược lại cái bậc thang giá trị. Họ đặt giá trị thiêng liêng lên hàng đầu, rồi đến giá trị tinh thần, và sau là giá trị vật chất.

 

home Mục lục Lưu trữ