Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 60

Tổng truy cập: 1377495

NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC SAI ĐI

Những người được sai đi

(Suy niệm của Lm. G. Nguyễn Cao Luật)

Một cộng đoàn có nhiều thành phần

Đoạn Tin Mừng của thánh Luca cho độc giả cái nhìn tổng quát về cách thức Đức Giêsu quan niệm và tổ chức hoạt động của Người.

Đức Giêsu đã chọn mười hai Tông Đồ: đó là một kế hoạch. Đối với người Do-thái, việc quy tụ mười hai chi tộc Ít-ra-en là sự kiện đánh dấu triều đại Thiên Chúa đã khởi đầu. Nhóm Mười Hai chính là hình ảnh tượng trưng cho việc quy tụ này.

Ngoài Nhóm Mười Hai, còn có những người thường xuyên đi theo Đức Giêsu trong các cuộc hành trình. Họ đã từ bỏ gia đình và mọi sự để đi theo Người. Họ là những người phục vụ dân Ít-ra-en mới đang được sinh ra.

Lại có những người ở một chỗ. Họ cũng là những người gắn bó với Đức Giêsu, nhưng Người không đòi hỏi họ phải giữ những điều kiện như những người thuộc các nhóm trên. Những người này tạo nên một nền tảng bền vững, những người đón tiếp và trợ giúp các Tông Đồ về phương diện vật chất. Họ là những nhóm nhỏ cư ngụ tại các làng mạc hay tại các thành phố. Họ là những người nhiệt thành và sẵn sàng đáp ứng khi cần.

Vậy, trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu biết rằng giờ quyết định đã điểm, nên Người đẩy tiến độ công việc đi nhanh hơn: mùa gặt đã đến! Ông chủ đưa ra hiệu lệnh thu gom. Công việc lúc này của Đức Giêsu không phải là nhằm thuyết phục những người từ chối lời mời gọi của Tin Mừng. Trong nhãn quan của Đức Giêsu, Ít-ra-en mới sẽ nên hấp dẫn trước hết nhờ chứng tá. Đàng khác, Ít-ra-en mới không chỉ thu họp những con chiên lạc mà sau này sẽ nhận ra vị chủ chăn đích thực, nhưng Ít-ra-en mới này còn xuất hiện như một ngọn đuốc giữa thế giới, làm cho dân ngoại phải ngỡ ngàng thán phục.

Như thế, các môn đệ của Đức Giêsu có nhiệm vụ đi loan báo và bày tỏ sự sinh ra của thế giới mới. Vương quốc của Xa-tan bị sụp đổ và vương quốc của Thiên Chúa được sinh ra. Vương quốc này đem lại bình an, như lời Đức Giêsu nhắn nhủ các môn đệ trước khi sai các ông đi.

Cộng đoàn được sai đi

Trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai là những người gắn bó chặt chẽ với Người. Các ông là những người được Đức Giêsu huấn luyện cách đặc biệt, và cũng là những người thường xuyên trao đổi với Đức Giêsu. Theo Tin Mừng Mát-thêu, các ông là những người được Đức Giêsu kêu gọi, được Người ban cho quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền (x. Mt 10,1).

Mười hai Tông Đồ vì có mười hai chi tộc Ít-ra-en. Con số này là biểu tượng thích hợp cho thấy rằng cách hành động của Đức Giêsu vẫn nằm trong đường hướng vốn có của Thánh Kinh: một nhóm nhỏ những người tin, được Thần Khí tuyển chọn và soi sáng. Cộng đoàn ấy là những người đem Tin Mừng cho toàn thế giới. Cộng đoàn ấy sẽ bất trung nếu chỉ dành riêng cho mình, nếu chỉ nghĩ đến mình. Ngược lại, cộng đoàn ấy sẽ trung tín một khi phát triển thêm mãi, đến vô tận. "Cho đến tận cùng cõi đất."

Vậy, nhiều lần trong Tin Mừng, người ta thấy cộng đoàn Tông Đồ đã phát triển vượt trên số mười hai. Ở đây là "bảy mươi hai người khác." Những con người này phải có những phẩm chất nào? Chắc chắn các ông là những người "đã thấy và đã nghe", đã cảm thấy bị thôi thúc từ bên trong do sứ điệp của Đức Giêsu gợi lên. Chính sự thúc đẩy này là một lệnh truyền sai đi, một thư ủy nhiệm "Hãy đi nói..."

Như vậy, sự hiểu biết về Đức Giêsu càng tăng thêm thì cộng đoàn các môn đệ càng mở rộng thêm, thì mười hai trở thành bảy mươi hai... và mười hai lần bảy mươi hai. Trong cộng đoàn này, mọi thành viên đều có trách nhiệm làm cho cộng đoàn thêm mở rộng nhờ sự hiểu biết sâu xa hơn về Đức Giêsu. Như mười hai chi tộc của Ít-ra-en, cộng đoàn ấy trở thành như một hạt giống được gieo vào lòng đất. Hạt giống ấy tiềm ẩn một sức mạnh và sẽ mọc lên, vươn thành một cây rất lớn.

Từ cộng đoàn này, các ông được sai đi, hai người một. Điều này cho thấy Tin Mừng chỉ xuất hiện thực sự nhờ lời chứng của nhiều người. Đó là lời loan báo của một Hội Thánh thu nhỏ. Và nhóm hai người đó không giữ nguyên tình trạng này. Sẽ có thêm người thứ ba, tức là những người sẽ nghe và sẽ tin. Sau đó, đến lượt họ lại trở thành bạn hữu, trở thành môn đệ.

Các môn đệ được sai đi để làm gì? Không phải để thâu nạp thêm hội viên nhằm củng cố sức mạnh của cộng đoàn nhờ số đông. Các ông được sai đi để loan báo: "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần." Các môn đệ do Đức Giêsu sai đi có sứ mạng rõ rệt là loan báo rằng con người hoàn toàn không thể hiểu được nếu không có Thiên Chúa, con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, và điều tốt đẹp nhất họ vẫn khao khát nay đã có trong Tin Mừng Đức Giêsu. Họ không còn phải chờ đợi một người nào nữa.

Trong Đức Giêsu, nhân loại đã có những lời đem lại sự sống vượt trên sự chết.

Cùng với lời cầu nguyện

Yếu tố vững bền nhất của Kitô giáo là lệnh truyền không bao giờ được ngừng lại, phải luôn tiến về phía trước. Hội Thánh vẫn còn là một phần nhân loại trong đó Đức Kitô bắt đầu tìm kiếm khuôn mặt đích thực của Người: vẫn còn những người khác đang ở bên ngoài, Hội Thánh có sứ mạng đưa họ về gia nhập.

Mục đích của sứ vụ tông đồ không chỉ là tìm kiếm thành công, nhưng là chuẩn bị giúp con người gặp gỡ với Đức Kitô. Chúng ta là những người truyền giáo, chúng ta có nhiệm vụ dọn đường. Nếu chúng ta có chịu vất vả, đó chính là vì Đức Kitô, chính Người thôi thúc chúng ta tiếp đón người khác, và cũng chính Người là Đấng mà chúng ta phải bày tỏ. Thiên Chúa cần đến chúng ta, nhưng chính Người điều hành.

Như thế, chúng ta hiểu được mối liên hệ thâm sâu giữa lời cầu nguyện và hoạt động tông đồ. Cầu nguyện, đó là xin Thiên Chúa thi thố quyền lực vô cùng lớn lao cho chúng ta là những tín hữu (x. Ep 1,19), đó là đưa mũi khoan vào tầng sâu của nhân loại để làm vọt lên nguồn nước là chính Đức Kitô.

* * *

Thật là điên rồ

khi hy vọng con người lắng nghe nhau;

thật là uổng công vô ích

khi phàn nàn than van;

thật là đáng xấu hổ

khi kêu la gào thét.

Lạy Thiên Chúa,

xin cho con

khám phá thấy sự êm dịu của việc cầu nguyện.

(theo Pierre-Henri Simon)

 

44. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

HÃNH DIỆN VÌ THẬP GIÁ ĐỨC GIÊSU KITÔ

Sứ mạng của Kitô hữu hôm nay là rao giảng Đức Yêsu bị đóng đinh thập giá đã phục sinh, Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Khi nhận biết Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, người ta sẽ biết được Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào! Thập giá trở thành biểu tượng của Đấng chịu đóng đinh, và rao giảng về thập giá là rao giảng về tình yêu nhập thể.

Khám phá kho tàng qua thập giá Đức Yêsu

Một đời vất vả lam lũ rao giảng Tin Mừng, công trạng của Phaolô rất to lớn, nhưng Phaolô nói: “ước gì tôi không hãnh diện về điều gì khác ngoài thập giá Đức Yêsu, Chúa tôi”. Với người đánh giá mọi sự theo giá trị phàm trần, thập giá chỉ là một cây gỗ, có gì mà hãnh diện? Cái chết ô nhục trần trụi trên thập giá, có gì đáng tự hào? Phaolô hãnh diện vì thập giá, không phải vì đó là một cây gỗ, nhưng Ngài hãnh diện vì Con Người đã chết trên thập giá, Đức Yêsu- Đấng yêu thương con người đến chấp nhận cái “chết treo thập giá trần trụi ô nhục”.

“Đức Yêsu chết treo thập giá”, dạy Phaolô và con người của mọi thời đại rất nhiều bài học. Ai sống trên đời mà không ham sống lâu, không ham giầu sang, không ham được trọng vọng? Có nhiều người khi bị nghèo, không được trọng vọng, không quyền cao chức trọng, thì than thân trách phận, làm như thể cuộc đời họ không còn ý nghĩa gì nữa. Cái hiểu biết sai lầm này, làm chính đương sự không hạnh phúc, và cũng làm những người thân cũng như những người sống với họ, bị ảnh hưởng. Có biết bao gia đình tan hoang vì một trong hai vợ chồng đã có quan niệm sai lạc như vậy.

Hãnh diện vì thập giá Đức Yêsu, là hãnh diện vì mình chỉ là người trần nhưng được Thiên Chúa yêu thương vô cùng, vì Thiên Chúa nhập thể đã yêu con người đến chết trên thập giá. Con người đối với Thiên Chúa thật đáng quý biết bao. Nếu chính Thiên Chúa còn quý trọng con người đến độ chết cho con người, nghĩa là con người có giá trị thực sự trước Thiên Chúa, thì con người cũng phải biết yêu thương kính trọng nhau. Thập giá Đức Yêsu, là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Hãnh diện vì thập giá, là hãnh diện vì mình được yêu, là hãnh diện vì mình nhận thức được chân lý, biết được giá trị đích thực của cuộc đời.

Rao giảng Nước Thiên Chúa trong mọi tình huống

Đức Yêsu đã sai gởi không chỉ nhóm 12, nhưng Ngài còn sai 72 môn đệ đi rao giảng về Nước Thiên Chúa nữa. Sứ điệp rao giảng là “Nước Thiên Chúa đến gần”. Qua cái chết và sống lại của Đức Yêsu, “nước Thiên Chúa” đã đến và đang đến.

Đâu là cách hành xử của người ra đi rao giảng Tin Mừng? Không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép; không chào hỏi ai dọc đường! Người rao giảng Tin Mừng, chẳng có gì đáng giá ngoại trừ chính sứ điệp rao giảng. Người rao giảng Tin Mừng, chỉ lo lắng sao cho Tin Mừng được loan báo, và không bận tâm về những điều không cần thiết như lương thực, quần áo, giầy dép. Những việc chào hỏi dọc đường có thể làm người có sứ mạng quên mất công việc chính yếu của họ. Việc rao giảng Tin Mừng, quan trọng và khẩn thiết hơn tất cả những việc xã giao, chào hỏi. Những gì ngăn trở cho việc rao giảng, phải được bỏ đi.

Với những người được rao giảng, phải như thế nào? Với những người tiếp đón các ngài, các ngài chúc bình an và loan báo cho họ biết “Nước Thiên Chúa đến gần”; với những người không tiếp đón các ngài, các ngài giũ cả bụi chân lại nhưng vẫn loan báo “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Môn đệ của Đức Yêsu rao giảng tin mừng Nước Trời trong mọi trường hợp, lúc thuận lợi cũng như những lúc bất thuận lợi, lúc được đón nhận cũng như lúc bị từ chối.

“Nếu ở đó có ai đáng hưởng bình an…”. Bình an hệ tại thái độ nội tâm của con người, tuỳ thuộc thái độ của người đó có sẵn sàng đón nhận Tin Mừng của Thiên Chúa hay không. Phaolô và các tông đồ, khi đi rao giảng các Ngài bị bắt bớ tra tấn, nhưng các Ngài vẫn có sự bình an đích thực. Sự bình an mà Đức Yêsu hứa ban cho các môn đệ của Ngài, và thế gian không thể cướp đi được. Những yếu tố bên ngoài, ảnh hưởng đến con người, nhưng không thể làm một người “theo Chúa” mất bình an.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Khi nói về thập giá, điều gì gợi lên trong đầu bạn? Nói thật với lòng mình, bạn thấy “thập giá” có ích lợi gì không?

2. Bình an là gì? Theo bạn, đâu là điều kiện để có bình an thực sự?

3. Một Kitô hữu có được trao sứ mạng rao giảng Tin Mừng không? Cung cách hành xử cho những người được sai đi loan báo tin mừng “Nước Thiên Chúa”, có áp dụng đối với các Kitô hữu không? Tại sao?

 

45. Suy niệm của Lm Bùi Quang Tuấn

“Các ngươi hãy đi! Này Ta sai phái các ngươi như chiên vào giữa sói. Đừng mang ví tiền, bao bị, giày dép; cũng đừng chào hỏi dọc đường. Hễ vào nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này”. (Lc 10,3)

Đọc qua đoạn Kinh thánh trên đây không ít người cảm thấy dường như Lời Chúa chẳng dính dấp gì đến cuộc sống của mình. Những lời nhắn nhủ “đừng mang gì đi đường, không mang bánh mang bị, không mang tiền mang dép” có lẽ chỉ dành riêng cho các môn đệ Đức Kitô trước khi họ ra đi rao giảng Tin Mừng. Thế nên có thích hợp hay chăng chỉ là thích hợp cho các nhà thừa sai truyền giáo, chứ như dân thường thì e lệnh truyền trên đây không có một chút ý nghĩa nào!

Cũng có người thắc mắc: “Tại sao khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu không nghĩ rằng nếu không được đón tiếp thì họ sẽ lấy của gì để ăn, lấy nhà đâu để ở? Thế nên cần phải có chút ít tiền để phòng thân chứ. Rồi nếu như phải ngủ bờ ngủ bụi, mà có chiếc áo che thân thì tốt biết mấy. Tại sao Đức Giêsu lại bảo đừng mang tiền, mang bị, hay mang bánh, mang áo? Tại sao Chúa không phòng xa để giải quyết những trường hợp bất ngờ?”

Nhưng đâu phải Chúa Giêsu không biết nghĩ xa. Ngài dư biết sẽ có thành đón tiếp và cũng có thành chối từ. Chính Ngài đã từng căn dặn thành nào không đón tiếp thì hãy rũ bụi chân lại để tố các chúng đã hẹp lòng và bất cập với Tin Mừng đấy chứ.

Chúa Giêsu biết sẽ có những người đóng cửa lòng, không đón nhận các môn đệ của Ngài. Nhưng ý tưởng chính toát lên từ lời căn dặn của Chúa Giêsu chính là sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Trời – sứ mạng đưa bình an đến cho các xóm làng – là một điều cấp bách. Đây là việc chung mà cộng đoàn các tông đồ phải khẩn trương thi hành chứ không được chậm trễ vì lỉnh kỉnh các vật dụng cá nhân.

Nói cách khác, ý của Chúa Giêsu là các môn đệ phải biết đặt sự nghiệp chung, lợi ích của Nước Trời trên bao bị, giầy dép, tiền bạc, áo xống. Việc rao giảng Tin mừng phải là công tác quan trọng, cần thiết và cấp bách hơn tất cả mọi lợi ích riêng tư.

Sống trong một tập thể hay cộng đoàn, nếu người ta chỉ biết đòi hỏi được đáp ứng các nhu cầu hay lợi ích cá nhân, tập thể hay cộng đoàn đó sẽ bị tổn thương nếu không muốn nói là có nguy cơ sụp đổ. Người hay đòi hỏi chắc chắn sẽ chẳng bao giờ tìm được niềm vui và hạnh phúc chân thật.

Kẻ gặp được niềm vui và hạnh phúc trong một cộng đoàn không phải là người được cộng đoàn dành cho nhiều ưu đãi, lợi lộc, hay địa vị, song là người biết sống dấn thân với cộng đoàn và cho cộng đoàn.

Người biết nghĩ đến ích chung, tha thiết với việc công sẽ là người đáng được tôn trọng và dễ dàng hoà hợp với tha nhân. Trái lại kẻ chỉ tìm ích riêng sẽ gây nên tình cảnh “khó sống” cho mọi người chung quanh. Họ không thể là môn đệ đích thật của Đức Kitô. Bởi vì người môn đệ đích thật sẽ không cứ lo tìm kiếm, bao bọc, chở che cho sự sống riêng mình, nhưng là dám đánh mất sự sống mình vì Nước Trời và vì tha nhân.

Người ta kể trong thời Chiến Quốc, khi quân nước Tề sang đánh nước Lỗ, lúc đến chỗ biên giới, bỗng thấy một người đàn bà, tay bồng một đứa bé, tay kia đang dắt đứa khác lớn hơn. Thấy quân giặc kéo tới, bà ta vội vàng bỏ đứa đang bồng trên tay xuống và bồng đứa bé kia lên, rồi chạy trốn vào núi.

Viên tướng nước Tề thấy lạ bèn cho lính đuổi theo bắt lại và hỏi: “Tại sao bà lại ẳm thằng lớn mà bỏ thằng nhỏ?” Người đàn bà thưa: “Đức nhỏ là con tôi, còn đứa lớn là con anh tôi. Vì quân lính kéo tới nhanh quá, lượng sức không thể bảo toàn được cả hai đứa, cho nên tôi đành phải bỏ con tôi lại.”

Tướng nước Tề ngạc nhiên: “Con với mẹ là tình máu mủ ruột thịt rất gần. Nay bỏ con mình thì như cắt ruột mà cứu lấy con anh thì nghĩa là sao?” Người đàn bà trả lời: “Con tôi là tình riêng, con anh tôi là nghĩa công. Con đẻ tuy đau xót thật, nhưng đối với việc nghĩa thì biết tính làm sao. Tôi không thể nào sống mà chịu mang tiếng vô nghĩa giữa làng giữa xóm được.

Viên tướng nước Tề vội cho dừng quân lại và sai người về tâu với vua: “Nước Lỗ chưa thể đánh được. Vì quân ta vừa mới đến chỗ biên cương đã thấy con mụ đàn bà nơi xó rừng còn biết đặt tình riêng trên nghĩa công, thì huống chi là những bậc quan lại sĩ phu trong nước. Nên xin vua cho rút quân về.” Vua Tề cho là đúng và đồng ý lui quân.

Thế đó, một quốc gia, một cộng đoàn hay một gia đình sẽ rất vững chắc khi có những con người biết nghĩa đến kẻ khác, dám hy sinh quyền lợi riêng tư cho sứ mạnh và sự nghiệp chung. Không một sức mạnh nào của kẻ thù mà lại không chùn bước trước sức mạnh của đoàn kết yêu thương.

Hình ảnh của người mẹ bỏ rơi đứa con mang nặng đẻ đau của mình để cứu đứa con của người anh nhắc tôi về hình ảnh của một người Cha “bỏ rơi” người Con yêu dấu của mình để cứu vớt kẻ khác: Hình ảnh của một Thiên Cbúa đã dứt lòng hy sinh mạng Con, đến nỗi người Con đó phải thốt lên trong đau đớn tột cùng: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con,” một tiếng kêu xé lòng Cha. Nhưng chính nhờ sự hy sinh đó mà nhân loại đã được ơn giải thoát.

Thiên Chúa đã dâng hiến chính tình yêu giữa Cha và Con vì sự sống và hạnh phúc chung của toàn nhân loại. Thiết tưởng không có một tình yêu hay sự hy sinh nào lớn hơn tình yêu và hy sinh của Thiên Chúa.

Và tình yêu mời gọi đáp trả tình yêu. Thiên Chúa gọi mời bạn và tôi đáp trả tình yêu bằng cách sống như Ngài trong sự hiến dâng chính mình cho lợi ích của tha nhân và cộng đoàn.

Cách cụ thể, ta hãy cùng tự vấn: “Tôi có vì nghĩa công mà hy sinh ích riêng chưa? Tôi đã làm được gì cho giáo xứ? Tôi sẽ làm những gì cho cộng đoàn? Tôi đã dấn thân cho ích lợi của đất nước và dân tộc chưa?

Trả lời bằng những quyết tâm chân thành là ta đang trở nên những người môn đệ chân chính của Đức Kitô rồi đó.

 

46. Chiên con giữa bầy sói – Đỗ Lực

Từ thế kỷ VII, Tin Mừng đã được loan báo tại Trung Hoa. Trải qua hơn chục thế kỷ, các thừa sai không ngớt tìm cách rao giảng Tin Mừng cho nước đông dân nhất thế giới này. Trong nhiều thế kỷ, cuộc truyền giáo bị khựng lại vì những thử thách và bách hại. Có thể nói lịch sử Giáo Hội Trung Hoa trải qua năm giai đoạn. Từ thập niên 1980, cuộc loan báo Tin Mừng lần thứ năm khởi sự. Tới nay Giáo Hội Trung Hoa vẫn bị bách hại.

Giữa lúc Giáo Hội Trung Hoa đang gặp thử thách lớn lao vì những bách hại của nhà cầm quyền, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI viết một lá thư cho dân tộc Trung Hoa. Theo linh mục Federico Lombardi, Giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa Thánh, lá thư đó cho thấy tình yêu Đức Kitô “làm cho con người đi vào một chiều kích mới, nơi lòng khoan dung và tình yêu mến đối với cả kẻ thù địch có thể làm chứng tá cho sự thắng thế của Thập giá trên mọi yếu đuối và bất hạnh của con người. Càng trở thành thuần Trung Hoa, Giáo Hội càng thực sự là chính mình. Đó chính là cốt lõi thông điệp tuyệt diệu, trung thực và cao cả của Đức Giáo Hoàng.” (1)

Lá thư của Đức Giáo Hoàng quả thực là một Tin Mừng cho người Trung Hoa. Dù bị cấm đoán và bưng bít, giáo dân Trung Hoa cũng vẫn bắt kịp nhịp sống Tin Mừng. Từ xưa tới nay, đã gặp bao nhiêu trở ngại, Giáo Hội Trung Hoa vẫn kiên cường. Tin Mừng vẫn tìm mọi cách lọt đến lòng người.

Cuộc truyền giáo ở Trung Hoa đã có một lịch sử lâu dài hơn Việt nam rất nhiều. Tin Mừng đến với họ sớm hơn chúng ta gần 10 thế kỷ. Vậy mà tới nay, giáo dân Trung Hoa cũng chỉ mới khoảng 15 triệu trong số gần 1.5 tỉ dân số. Phải chăng Tin Mừng bất lực? Bao giờ Nước Thiên Chúa mới đến với dân tộc Trung Hoa?

CÔNG TRÌNH THIÊN CHÚA

Đứng trước cánh đồng truyền giáo bao la là Á châu, nhất là Trung Hoa, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã hướng tầm nhìn Giáo Hội Hoàn vũ về miền đất linh thiêng trù phú đó. Nhưng suốt hơn 13 thế kỷ qua, vẫn chưa thấy mùa lúa chín trên cánh đồng truyền giáo Trung Hoa. Phải chăng thực tế không xảy ra như Đức Giêsu tiên báo?

Thực ra, “lúa chín đầy đồng” là công trình của Thiên Chúa, chứ không phải của con người. Thiên Chúa mới là chủ sai thợ đến gặt lúa (x. Lc 10:3). Ngay từ thời Chúa Giêsu, Giáo Hội đã sinh ra trong tình trạng thiếu thốn. Chính Chúa đã phải cảnh giác các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.” (Lc 10:2) Đó là thân phận Giáo Hội. Lúc nào Giáo Hội cũng nghèo túng và thiếu phương tiện thi hành bổn phận. Nhưng càng thiếu thốn và nghèo túng, Giáo Hội càng được mời gọi đặt tất cả niềm tin nơi Chúa. Cánh đồng không thiếu lúa chín, nhưng chỉ thiếu những người thợ tin Thiên Chúa làm chủ cánh đồng. Chỉ tin như thế, họ mới không phản bội sứ mệnh khi xử dụng quyền lực và phương tiện trần gian. Nhờ niềm tin đó, họ dễ dàng sống khiêm tốn và vâng nghe Chúa Thánh Linh. Khiêm tốn chắc chắn là bí quyết làm cho công cuộc rao giảng Tin Mừng sinh hoa kết quả dồi dào. Chỉ nơi những người có lòng tin, Thiên Chúa mới thi thố tất cả quyền năng tuyệt đối. Người khiêm tốn biết nhường bước và đón chào ông chủ là Thiên Chúa vào vườn nho hay cánh đồng đầy lúa chín.

Cả về phương diện tập thể lẫn cá nhân, vật chất cũng như tinh thần, họ hoàn toàn bị tước đoạt vì Nước Thiên Chúa. Chúa nói: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.” (Lc 10:3) Còn gì nữa đâu mà kiêu ngạo? Tất cả mọi phương tiện và tương quan xã hội đều phải trở thành xa lạ đối với họ. Chỉ còn một mình họ với Chúa trong công cuộc xây dựng và chiến đấu cho Nước Thiên Chúa. Như vậy chưa đủ sao? Khi nghe lời Chúa căn dặn: “Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói,” (Lc 10:3) người môn đệ nào chẳng run sợ? Run sợ vì lực lượng không cân xứng. Cuộc đối đầu vượt quá tầm sức chiên con. Sao Chúa không sai họ vào giữa đoàn chiên có phải tốt hơn không? Làm sao chiến thắng lực lượng sự ác lớn như thế? Nhưng kết quả lại về phần chiên con. Thật bất ngờ! Rõ ràng sức mạnh không từ môn đệ, nhưng từ Thày. Nếu Thày không là Thiên Chúa, làm sao chiến thắng lớn lao như thế?!

Chiến thắng lớn lao đó phát xuất từ thánh giá. Trước đây các môn đệ đã từng coi thập giá là biểu tượng cho sự thất bại và là gương mù cho dân ngoại. Nhưng “Thiên Chúa đã tôn vinh Người trên mọi sự …” vì Đức Giêsu đã “vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.”(Pl 2:8-9) Khi tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa Cha, Người đã khám phá tất cả sức mạnh tình yêu và sự thật cần thiết cho công cuộc giải thoát nhân loại. Bởi đấy, Người đã tìm được niềm vui và cũng trở thành nguồn vui cho mọi người. Khi gặp khổ đau, thập giá và cái chết, Đức Giêsu đã kiên nhẫn biết chừng nào. Người kiên nhẫn vì tin rằng đó là thánh ý Chúa Cha. Tình yêu Chúa Cha đã khiến Người có sức mạnh phi thường. Không đối lực nào có thể thắng nổi.

Tin tưởng nơi Chúa, người môn đệ sẽ nhận ra tất cả những giới hạn của mình, nhưng đồng thời nhìn thấy những hoa trái lạ lùng do bàn tay Thiên Chúa hành động qua những phương tiện nghèo nàn. Sau một ngày mệt nhọc trong cánh đồng của Chúa, “nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: ‘Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.’” (Lc 10:17) Tất cả đều nhờ sức mạnh Chúa.

SỨ ĐIỆP DUY NHẤT

Dù chỉ là chiên con bị tước lột trần trụi giữa bầy lang sói, người môn đệ vẫn hiên ngang bước theo Đức Kitô. Không phải lúc nào cuộc hành trình cũng trải đầy hoa hồng. Có nhiều lúc không êm ả chút nào. Những biến cố lớn nhỏ như sóng gió ập đến. Khi gặp thử thách như thế, có những người môn đệ quên cả việc rao giảng Tin Mừng và bẻ cong Tin Mừng theo thời đại và hoàn cảnh, mong thỏa mãn những nhu cầu trần tục. Họ tin vào sức mạnh phương tiện như các tổ chức trần thế. Cố gây sức mạnh bằng cách tăng cường nhân sự, phương tiện, của cải, quyền lực, danh vọng v.v.

Nhưng sức mạnh Nước Thiên Chúa không đến từ những phương tiện trần thế. Nước Thiên Chúa không thể biến đổi đến nỗi đánh mất bản chất. Người môn đệ phải có lập trường dứt khoát và rõ rệt. Chính Đức Giêsu đã minh xác với các môn đệ như thế. Dù được đón tiếp hay không, họ phải nhất quyết rao giảng cho mọi người: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” (Lc 10:9.11) Không phải vì bầy sói đông quá mà khiếp đảm đến nỗi không dám mở miệng rao giảng Nước Thiên Chúa nữa. Không thể vì những lực lượng bất hảo hay bất chính đang siết gọng kìm mà không dám tranh đấu để xây dựng Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa không thể dựa trên bất công, vì bản chất và nền tảng của Nước Thiên Chúa là công lý. Chính lập trường này làm cho người môn đệ đứng vững và ngẩng đầu hãnh diện trước những thách thức của kẻ thù. Lập trường đó chính Chúa đề ra và củng cố bằng sức mạnh Thánh Linh. Không có Thánh Linh không thể giữ nổi lập trường và sứ điệp duy nhất đó trong mọi hoàn cảnh. Hoàn cảnh rất phức tạp và khắc nghiệt. Hỏa mù vô cùng dầy đặc. Nếu Chúa không đưa ra nguyên tắc và sứ mệnh đó, chắc chắn không ai có thể phá vỡ cơn hỏa mù.

Khi hoạt động trong Giáo Hội, người môn đệ nhắm biến đổi toàn thể thế giới. Là phần tử Giáo Hội, họ có sứ mệnh phục vụ Nước Thiên Chúa, tức là tranh đấu cho công lý, hòa bình, tự do và mọi người biết tôn trọng nhân quyền. Tất cả đều nằm trong kế hoạch Thiên Chúa tối cao nhằm cứu độ muôn dân. Nhiều người muốn đánh lạc hướng khi chủ trương Nước Thiên Chúa vượt trên trần thế và nhằm xây dựng trời mới đất mới, chứ không phải trần gian. Bởi vậy, họ muốn biến sứ điệp của Đức Giêsu thành chuyện tư riêng hay cá nhân. Chiều cạnh xã hội của Nước Thiên Chúa hoàn toàn bị coi thường và quên lãng.

Ngày nay, dù sống trong hoàn cảnh nào, Kitô hữu cần phải nỗ lực cứu Chúa Giêsu khỏi ngục tù cá nhân chủ nghĩa và đem Người trở lại đời sống xã hội. (2) Nếu đặt Chúa Giêsu vào hoàn cảnh văn hóa xã hội thời Người và nhìn sứ mệnh Người trong bối cảnh phục hồi Israel và loan báo “năm đại hồng ân” cho dân Người, chúng ta sẽ thấy rõ sứ điệp Đức Giêsu hàm ý chính trị. Người muốn triệt để tái cấu trúc mọi cơ cấu xã hội hiện hành trên nền tảng giao ước. (3) Để thực hiện công cuộc đó, Người muốn mọi quyền lực trên đời phải mang tính tương đối và nhường bước cho những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa. Có một số người muốn sứ điệp Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa chỉ thuần túy mang tính tôn giáo và không liên quan tới các cơ cấu chính trị xã hội. Thực ra, Tin Mừng liên quan tới những thực tại sâu xa của trần thế. Bởi thế, sứ điệp của Chúa Giêsu là một phản ứng rõ rệt trước một thế giới đầy áp bức và những cơ chế của một trật tự xã hội bất công. (4)

CƠ HỘI PHỤC VỤ

Tới đây, chúng ta cần lắng nghe vị Đại Diện Chúa Kitô. Hoàn cảnh Giáo Hội Việt Nam cũng tương tự Giáo Hội Trung Hoa. Trong mọi hoàn cảnh, “Giáo Hội không thể và không được tự đảm nhận chính trường để đem lại một xã hội công bình nhất. Giáo Hội không thể và không được thay thế chính quyền. Tuy nhiên đồng thời Giáo Hội không thể và không đươc ở bên lề cuộc đấu tranh cho công bình. Qua lý chứng, Giáo Hội phải tham gia và phải thức tỉnh năng lực thiêng liêng cần thiết cho công lý chiếm ưu thế và thành công. Bao giờ công lý cũng đòi phải hy sinh. Một xã hội công bình phải là thành quả của chính trị, chứ không phải của Giáo Hội. Tuy nhiên cổ võ cho công bình qua những nỗ lực nhằm giúp cởi mở tâm trí và ý chí theo những đòi hỏi của công ích, là điều can hệ đến Giáo Hội cách sâu xa.

Nhờ những nguyên tắc không thể đảo ngược này hướng dẫn, những vấn đề đang tồn đọng không thể được giải quyết qua sự xung đột với các nhà cầm quyền dân sự hợp hiến. Nhưng đồng thời không thể tùng phục những nhà cầm quyền ấy khi họ can thiệp vô lý vào những vấn đề liên quan đến đức tin và kỷ luật của Giáo Hội. Các nhà chức trách dân sự cần nhận thức rõ Giáo Hội luôn dạy các tín hữu trở nên những công dân tốt, tôn trọng và đóng góp tích cực cho công ích của đất nước. Nhưng rõ ràng Giáo Hội cũng đòi hỏi Nhà Nước phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo chân chính và bảo đảm cho những người dân Công Giáo được thi hành đầy đủ niềm tin của mình.” (5)

Đàng khác, Giáo hội được thành lập để phục vụ Nước Thiên Chúa, chứ không phải để chiếm chỗ của Nước Thiên Chúa. Nếu không phục vụ Nước Thiên Chúa, Giáo Hội sinh ra để làm gì? Phục vụ Nước Thiên Chúa nghĩa là tranh đấu cho xã hội ngày càng “công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17)

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết can đảm phục vụ Nước Thiên Chúa, để công lý mau ngự trị trên quê hương yêu dấu chúng con. Amen.

------------------------------------------------------------------

1. VietCatholic 03/07/2007.

2. x. Hollenbach 1898:11-22.

3. Dictionary of Fundamental Theology 1995:589.

4. x. Hollenbach 1898:37-48.

5. ĐGH Bênêđictô XVI, Lá Thư Gởi Người CGTH, http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/letters/2007/documents/hf_ben-xvi_let_20070527_china_en.html

 

47. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Ngoài 12 tông đồ, còn có 72 môn đệ được Đức Giêsu sai đi tiếp nối sứ mạng của Ngài. 72 môn đệ đó tượng trưng cho ơn gọi nào trong Giáo Hội?

2. Tình hình nhân sự trong việc tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu trên thế giới hay trong xã hội chúng ta đang sống như thế nào? Khi ý thức điều ấy, bạn có nghe thấy Đức Giêsu mời gọi bạn làm gì không?

3. Để làm tông đồ, tức tiếp tục công việc cứu thế của Đức Giêsu, chúng ta phải làm gì? Chúng ta đã làm gì? Có gì cần sửa chữa trong quan niệm của chúng ta?

Suy tư gợi ý:

1. Ơn gọi làm tông đồ giáo dân

Ngoài số 12 môn đệ được Đức Giêsu huấn luyện đặc biệt để sau này tiếp nối sứ mạng của Ngài, Tin Mừng Luca còn nói tới số 72 môn đệ được Ngài sai đi. Người ta thường ví ơn gọi của 12 môn đệ với ơn gọi tông đồ của hàng giáo phẩm và giáo sĩ, là những người thường được huấn luyện đặc biệt có trường lớp để tiếp nối sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Và ví ơn gọi của 72 môn đệ với ơn gọi tông đồ của giáo dân, là những người được huấn luyện ở trình độ phổ thông để làm tông đồ.

Đấy cũng là một cách hiểu khá hợp lý. Thực ra, bất kỳ người Kitô hữu nào một khi đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, đều được Đức Giêsu mời gọi tiếp tục sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại. Vì thế, việc cứu độ nhân loại không phải là công việc dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là nhiệm vụ của bất kỳ người Kitô hữu nào, dù là giáo dân, đạo gốc hay tân tòng. Bài Tin Mừng hôm nay là một dịp nhắc nhở người giáo dân nhiệm vụ tông đồ hay cứu thế của mình. Đặc biệt những Kitô hữu đã có từng được đào tạo để làm tông đồ trong các chủng viện hay tu viện, mà nay lại đứng trong hàng ngũ giáo dân. Những người này thường được Thiên Chúa kêu gọi đặc biệt hơn những giáo dân khác.

2. Sứ mạng của Đức Giêsu còn bao nhiêu việc phải làm

Hễ nói tới câu Tin Mừng «Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về», chúng ta thường nghĩ ngay tới cánh đồng truyền giáo, làm như Giáo Hội chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là truyền giáo. Thực ra, Đức Giêsu đến là để cứu chuộc nhân loại, mà trong đó việc truyền giáo hay loan báo Tin Mừng chỉ là một phần, và chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích cứu thế của Đức Giêsu. Nhiều khi người Kitô hữu quá quan tâm đến phương tiện này mà quên đi mục đích của nó, nghĩa là lấy chính việc loan báo Tin Mừng làm mục đích của việc tông đồ. Mục đích của Giáo Hội cũng như của Đức Giêsu không phải là loan báo Tin Mừng, mà là cứu nhân loại, không chỉ đời sau mà còn cả đời này nữa. Cứu nhân loại là làm cho nhân loại hay con người thoát khổ và hạnh phúc hơn. Loan báo Tin Mừng chỉ một trong những phương tiện phải làm để đạt được mục đích cứu độ đó.

Ý thức lại vấn đề như vậy, chúng ta thử tự hỏi: chúng ta đã quan tâm tới vấn đề cứu độ con người như Đức Giêsu chưa? Một cách cụ thể, chúng ta đã làm gì để những người chung quanh ta bớt đau khổ và hạnh phúc hơn? Sự hiện diện của ta, với tư cách người Kitô hữu hay tập thể Kitô hữu, có làm cho gia đình ta, những người chung quanh ta, xã hội ta đang sống bớt khổ đau và hạnh phúc hơn không?

Thế giới và xã hội con người hiện nay còn biết bao tội lỗi, đau khổ, bất công. Sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu chưa thực hiện được bao nhiêu, và còn biết bao việc phải làm. Nhưng có được bao người muốn dấn thân tiếp nối sứ mạng của Ngài? Việc thì nhiều mà nhân sự thì ít. Người Kitô hữu, dù là giáo dân hay giáo sĩ, có nghe thấy lời mời gọi tha thiết của Ngài không? Và nếu muốn tiếp tục sứ mạng của Ngài, chúng ta phải làm gì?

3. Trình tự những việc phải làm của người môn đệ Đức Giêsu

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu sai 72 môn đệ đi. Hãy coi lại xem Ngài truyền bảo họ những gì. Có những điều chính yếu được xếp theo trình tự thời gian mà cũng có thể là theo thứ tự quan trọng như sau:

1. «Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép»: ý nói đừng quá lo toan về những nhu cầu vật chất, mà hãy chú tâm vào sứ mạng của mình. Việc này được đề cập đến đầu tiên, ắt nhiên là một điều rất quan trọng. Muốn cứu rỗi người khác mà lại quan tâm đến những nhu cầu vật chất của mình, vốn đòi hỏi rất nhiều tâm trí và năng lực của mình, thì còn đâu tâm trí và năng lực để cứu rỗi người khác?

2. «Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường»: ý nói sứ mạng khẩn cấp, cần tập trung thì giờ và năng lực vào sứ mạng của mình. Ngoài nhu cầu vật chất, còn những nhu cầu cá nhân khác, cũng cần phải dẹp bớt để tập trung thì giờ và năng lực vào việc cứu rỗi con người.

3. «Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!”»: ý nói phải quan tâm tới sự bình an, thoải mái cho người mình gặp. Sự bình an, không phải sống trong lo âu, sợ sệt… về tinh thần cũng như thể chất là điều mà người môn đệ Chúa cần phải quan tâm thực hiện đầu tiên cho mọi người mình được sai đến. Đây là nhu cầu căn bản và cần thiết nhất của mọi người sống trong trần thế.

4. «Hãy chữa những người đau yếu trong thành»: ý nói hãy quan tâm đến đau khổ và hạnh phúc của mọi người, và cứu giúp họ trong khả năng của mình. Người môn đệ của Chúa cần phải quan tâm đến những nhu cầu hết sức cụ thể của con người. Phải cảm thông với niềm vui nỗi buồn, với hạnh phúc và đau khổ của mọi người, đồng thời phải cứu khổ và tạo điều kiện hạnh phúc cho họ một cách hữu hiệu.

5. Và sau cùng mới là «nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”»: ý nói là phải loan báo Tin Mừng cho họ, tức nói với họ về Thiên Chúa, về nhu cầu tâm linh, về những gì thiêng liêng.

Ta thấy trình tự trên thật là hợp lý. Người chung quanh ta có được ta quan tâm tạo bình yên và thoải mái cho họ, thì họ mới dám đặt niềm tin tưởng vào ta, và mới có điều kiện thoải mái để nghe ta nói những chuyện xem ra có vẻ ít thực tế hơn đối với đời sống của họ. Thế mà rất nhiều khi người Kitô hữu lại làm ngược lại trình tự mà Đức Giêsu đã đề nghị. Chúng ta lo loan báo Tin Mừng trước, và coi những việc đáng quan tâm hàng đầu kia vào hàng thứ yếu. Chính vì thế mà việc loan báo Tin Mừng của chúng ta trở thành thiếu thực tế, kém hữu hiệu, nên không được đón nhận bao nhiêu từ nhiều thập kỷ nay tại Châu Á. Do đó, chúng ta cần phải sửa lại quan niệm về cách làm tông đồ của chúng ta.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, Công Đồng Vatican II nhắc nhở người Kitô hữu phải nhập thể nhiều hơn vào những lãnh vực trần thế để biến cải môi trường mình sống nên tốt đẹp hơn một cách hữu hiệu. Xin giúp con xét lại xem sự hiện diện của con đã biến cải môi trường con sống tới mức độ nào? Có làm cho những nơi mà con hiện diện tốt đẹp và hạnh phúc hơn không? Xin cho con biết quan tâm sống tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương trước đã, trước khi loan báo nó ra để người khác cùng sống theo. Xin giúp con biết yêu thương để quan tâm tới đau khổ và hạnh phúc của những người chung quanh con, và biến con trở nên một đấng cứu thế nho nhỏ trong môi trường nhỏ bé con đang sống, là gia đình con, là môi trường nghề nghiệp của con, khu xóm của con, v.v… Amen.

home Mục lục Lưu trữ