Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 48

Tổng truy cập: 1379876

NHỮNG THÁNH GIA THỜI ĐẠI MỚI

Những thánh gia Nagiarét thời đại mới.

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Có họ đạo nghèo ở vùng duyên hải miền Trung có tên gọi là Thánh Gia. Sở dĩ đặt tên như vậy là vì họ đạo nầy chọn Thánh Gia Nagiarét làm bổn mạng.

Phía bên hông nhà thờ họ đạo có một hang đá khá lớn, có bộ tượng hang đá bằng thạch cao to bằng tầm vóc người trưởng thành.

Hằng năm vào dịp lễ Thánh Gia, bổn mạng của giáo xứ, theo một truyền thống đã có từ lâu đời, sau khi lễ tan, các gia đình trong giáo xứ tập trung đông đảo chung quanh hang đá cầu nguyện với thánh gia thất và mỗi gia đình cử ra một vị đại diện tuần tự tiến lên theo hàng đôi đến trước bộ tượng hang đá, dâng lên Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse những bông hoa thắm tươi và thơm ngát để tỏ lòng tôn kính mến yêu của mình.

Thế rồi một biến cố đau lòng xảy ra trong dịp trước giáng sinh năm ấy, một nhóm trẻ tinh nghịch từ làng bên vì có thù hận với nhóm trẻ trong xóm đạo, đã kéo đến vào ban đêm đập phá bộ tượng hang đá vỡ ra nhiều mảnh.

Sự việc nầy khiến cho nhiều người hoang mang và bối rối!

Biết làm sao bây giờ, khi ngày lễ thánh gia đã gần kề? Tìm đâu ra bộ tượng ba Đấng mới thế vào bộ tượng đã bị phá tan? Nghi lễ dâng hoa cho ba Đấng vào mỗi dịp lễ Thánh Gia là một nghi lễ truyền thống đã được thực hiện xuyên suốt từ hơn trăm năm qua, không có năm nào bỏ qua, lẽ nào năm nay không tổ chức được?

Vì giáo dân trong xứ quá nghèo, Cha xứ và hội đồng mục vụ không thể huy động đủ tiền để đặt làm bộ tượng mới và dù có huy động đủ tiền cũng không thể đặt một bộ mới trong khi thời gian đã cận kề.

Trước tình thế đó, Cha Xứ có một sáng kiến táo bạo: Ngài cho mời đôi vợ chồng mới sinh đứa con trai đầu lòng được chừng tháng tuổi và mới được rửa tội mấy ngày trước, mặc y phục truyền thống thật chỉnh tề, đóng vai Đức Mẹ, thánh Giuse và Chúa Giêsu thay cho bộ tượng hang đá bằng thạch cao đã bị hư hại. Ngài sắp xếp cho cặp vợ chồng quỳ bên trong hang đá, chầu hai bên đứa con thơ ở giữa họ và kêu mời đại diện các gia đình trong giáo xứ tiến lên theo hàng đôi dâng hoa cho ba vị nầy.

Sáng kiến nầy đã làm cho một số người trong họ đạo cảm thấy bị sốc. Họ cho rằng làm như vậy là quá đề cao gia đình người tín hữu và xúc phạm đến ba Đấng thánh.

Cha Sở cố gắng diễn giảng cho họ như sau:

Khi đề nghị gia đình anh chị Năm đóng vai Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu thế chỗ cho bộ tượng ba Đấng bằng thạch cao bị hư, chúng ta không làm gì xúc phạm đến ba Đấng thánh, nhưng chúng ta xem gia đình anh chị Năm đây là hình ảnh rất trung thực và cao quý về Thánh Gia của Chúa Giêsu.

Lâu nay, chúng ta quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng thạch cao, bằng xi măng hay bằng nhựa dẻo, và chưa quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng xương bằng thịt có sự sống, có linh hồn, có lương tri, có trí tuệ như anh chị Năm đây, nên chúng ta cảm thấy bị sốc.

Nhưng xin quý ông bà hiểu điều nầy:

Thứ nhất: mỗi một người tín hữu đều có phẩm giá rất cao và được gọi là thánh. Thánh Phaolô gọi các tín hữu thuộc các giáo đoàn (nay gọi là giáo xứ) là thánh. Họ được hiến thánh nhờ bí tích thánh tẩy. Nhờ bí tích nầy họ trở thành chi thể, thành thân mình Chúa Giêsu.

Thánh Phaolô nói: “Nào Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” (1Cr 6, 15)

Ngoài ra, các tín hữu còn được Chúa Giêsu cho trở nên cùng một xương thịt với Người, được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa, được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ đón nhận bí tích Thánh Thể.

Như vậy, không có một sản phẩm nào do tay người phàm làm ra dù bằng thạch cao, bằng gỗ, bằng đá hay bằng kim loại quý như bạc như vàng. . . xứng đáng được chọn làm hình ảnh của Chúa Giêsu, của Mẹ Maria, của thánh Giuse cho bằng chính mỗi người Kitô hữu chúng ta.

Thứ hai: Hội Thánh công giáo xưa nay vẫn nhìn nhận gia đình của Kitô hữu là gia đình thánh nên Giáo Hội quen gọi đó là những hội thánh tại gia.

Chúa Giêsu còn lập bí tích hôn nhân để thánh hiến đời sống vợ chồng. Thế nên không gì thích hợp cho bằng chọn gia đình Kitô hữu làm biểu tượng cho thánh gia Nagiarét.

Sau khi hiểu được những điều cha xứ giải thích, mọi người vui vẻ dâng những đoá hoa thật đẹp thật tươi cho anh chị Năm được cử đóng vai thánh gia Nagiarét.

Rồi qua những năm sau, nhiều người trong giáo xứ đều thấy thật là thích hợp và đầy ý nghĩa khi chọn một gia đình công giáo trong họ đạo đóng vai thánh gia Nagiarét thay vì dùng bộ tượng thạch cao, nên cộng đồng giáo xứ thoả thuận với nhau rằng: đôi vợ chồng nào mới sinh con và được rửa tội sớm nhất trong tháng 12 dương lịch thì sẽ được chọn đóng vai thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu để cho giáo dân kính viếng. Và cũng từ lúc đó, thay vì dâng hoa cho ba Đấng như trước đây, người ta dâng cho em bé trong vai Giêsu những hộp sữa; dâng cho người mẹ trong vai Maria những cuộn chỉ, những chiếc kim, chiếc kéo; dâng cho người cha trong vai Giuse những dụng cụ làm việc nho nhỏ như những chiếc kìm, chiếc búa, cái đục, cái bào. . .

Từ sự kiện nầy, các gia đình tín hữu trong xứ đạo đều ý thức mình là những thánh gia Nagiarét thời mới. Các đôi vợ chồng trong các gia đình luôn trân trọng và yêu quý nhau như tương quan giữa Mẹ Maria và thánh Giuse. Cha mẹ biết chăm lo giáo dục con cái như Mẹ Maria và thánh Giuse đã thực hiện với Chúa Giêsu năm xưa. Con cái luôn vâng phục và thảo hiếu với mẹ cha như Chúa Giêsu đã làm đối với thánh Giuse và Đức Mẹ. Niềm vui, hạnh phúc và đời sống thánh thiện chan hoà trong các gia đình.

Ngoài ra, tương quan giữa các gia đình trong giáo xứ được cải thiện đáng kể vì ai nấy đều biết tôn trọng những gia đình khác vì xác tín rằng đó thực sự là những thánh gia.

 

38. Thánh gia, gương sáng của tin yêu.

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

Lần giở lại những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy gia đình đầu tiên của nhân loại đã được Chúa chúc phúc. Họ đã có những ngày tháng thật hạnh phúc bên nhau và bên Chúa. Giữa Thiên Chúa và con người không có khoảng cách, chỉ có tình thân hữu thật thơ mộng mà Thánh kinh đã diễn tả: “chiều chiều Thiên Chúa tản bộ đi cùng con người trong vườn địa đàng”. Thế nhưng gia đình đó đã bị rạn nức và bị đổ vỡ. Nguyên do của sự đổ vỡ chính là họ chối từ Thiên Chúa, hành vi Adam – Eve giơ tay lên hái trái cấm là hành vi nói lên con người muốn gạt Thiên Chúa ra bên ngoài, muốn loại trừ Thiên Chúa nên con người cũng loại trừ và kết án lẫn nhau. Adam đã kết án vợ mình: “Tại người đàn bà này mà tôi đã ăn trái cấm”. Hậu quả của việc bất tuân phục Thiên Chúa là đau khổ và sự chết đã đi vào trần gian.

Nhưng, cho dù con người có ngàn lần phản nghịch, Chúa vẫn yêu thương con người, Chúa vẫn tìm đến để cứu chuộc con người và phục hồi lại giá trị của hạnh phúc gia đình thuở ban đầu. Thiên Chúa đã mang xác phàm để ở giữa chúng ta. Ngài đã sinh ra trong một gia đình, lớn lên trong một gia đình, và chính Ngài đã thánh hoá gia đình đó trở thành gia đình thánh, mẫu gương cho các gia đình noi theo. Đó là một gia đình luôn biết tuân phục Thiên Chúa, luôn phó thác cậy trông vào Chúa. Gia đình đó có thánh Giuse đã vì Chúa mà đón nhận Maria về làm bạn mình, đã vì Chúa mà lận đận vượt trăm ngàn nguy khó để bảo vệ sự sống cho hài nhi và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Gia đình đó có Đức Maria, một người Mẹ của cầu nguyện và hy sinh. Mẹ đã phó thác hoàn toàn cho thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Mẹ đã tận hiến đời mình như một nữ tỳ nhỏ bé để phụng sự Thiên Chúa. Gia đình đó còn có Chúa Giêsu, một người con hằng yêu mến cha mẹ, càng lớn càng khôn ngoan, hằng đẹp lòng Thiên Chúa và người ta.

Và cho đến hôm nay, mỗi khi chúng ta thấy có những người cha, người mẹ biết sống tôn thờ Thiên Chúa là họ đang để cho Chúa canh tân, gìn giữ gia đình. Họ đang vui với phận mình trong niềm tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Họ có thể nghèo khó nhưng tấm lòng họ lại thanh thoát, không gian tham của người. Họ có thể lam lũ, một nắng hai sương nhưng tấm lòng họ lại thanh cao như đóa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Họ vì Chúa mà đón nhận nhau trong yêu thương tha thứ, không chỉ một lần mà trải rộng mọi ngày cho đến suốt cuộc đời. Họ là những gia đình thánh gia cho thời đại hôm nay. Họ vẫn tiếp tục nêu gương sáng trong bổn phận, trong đời sống thanh cao và giầu lòng quảng đại.

Song le, giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người chồng, người cha đang bê tha rượu chè, đang ngoại tình lang chạ, đang đánh mất niềm tin với Thiên Chúa nên cũng bỏ bê gia đình. Giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người vợ đang bất tín, bất trung, đang thiếu trách nhiệm và hy sinh cho gia đình, vì họ không còn niềm tin nơi Chúa nên cũng chẳng còn hy sinh cho nhau. Giữa giòng đời hôm nay, vẫn còn đó những người con đang lao vào những danh lợi thú trần gian mà lãng quên tình Chúa nên cũng xem thường tình cha, nghĩa mẹ.

Thực vậy, nếu trong cuộc đời này không còn ai tin tưởng vào Thiên Chúa, không còn ai tin vào đời sau, có lẽ sẽ chẳng còn ai dám hy sinh cho gia đình, hy sinh cho tha nhân. Không có đời sau thì người ta sẽ sống vì mình, vì hạnh phúc của mình, vì đam mê của mình mà chà đạp người khác và thiếu trách nhiệm với tha nhân.

Nguyện xin Thánh gia nâng các gia đình đang gặp những khó khăn thử thách. Xin cho các gia đình công giáo biết noi gương thánh gia để sống hy sinh cho nhau và cùng nhau xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Amen.

 

39. Gia đình hạnh phúc

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Trước đây, có nhiều người tưởng lầm rằng: nói đến ơn kêu gọi nên thánh là nói đến giới tu hành, còn đời sống hôn nhân và gia đình chẳng qua chỉ là một lối đi tầm thường. Không phải như vậy, ngày nay không ai quan niệm như thế nữa. Đời sống hôn nhân và gia đình thì thông thường chứ không tầm thường. Hơn nữa, phải nói là nó rất cao quý, đáng cho loài người cúi đầu cảm phục và biết ơn. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã nói rõ: “Ơn gọi nên thánh là ơn gọi chung của mọi Ki-tô hữu và hôn nhân là phương tiện để con người triển nở và đáp lại lời mời gọi nên thánh. Lấy nhau là để giúp nhau trưởng thành trong tình yêu Chúa. Lấy nhau là để cùng nhau và nhờ nhau mà nên thánh. Nhiệm vụ trần thế quan trọng nhất của mỗi người giáo dân chính là thánh hóa gia đình mình”. Lễ Thánh Gia là một dịp tốt để chúng ta nhìn lại mẫu gương cao quý và hoàn hảo của Thánh Gia, đồng thời suy nghĩ và kiểm điểm lại gia đình của chúng ta.

Thiên Chúa làm người cứu chuộc nhân loại đã chọn gia đình làm nơi sinh trưởng. Chúa Cứu Thế là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria, thuộc gia đình lao động ở Na-da-rét. Ngài đã sống âm thầm trong gia đình và vâng phục cha mẹ trong 30 năm. Như thế, để mở đầu công cuộc cứu chuộc, Thiên Chúa đã ban cho thế gian một mẫu gương gia đình cao quý và hoàn hảo nhất do Thiên Chúa thiết lập. Người ta có thể tìm thấy nơi gia đình tuyệt vời này một tấm gương trọn hảo cho các gia đình. Đó là gia đình Na-da-rét, nơi mà Chúa Cứu Thế đã sống ẩn dật với Mẹ đồng trinh Maria và cha nuôi thánh đức Giuse. Các Ngài đã chu toàn trách vụ làm cha mẹ đối với Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu cũng hết lòng hiếu thảo đối với các ngài.

Gia đình thánh này đã trở thành gương mẫu về mọi nhân đức cho các gia đình. Tất cả mọi nhân đức, mọi đức tính người ta đều thấy có nơi gia đình thánh này, như tương thân tương ái, lễ giáo thánh thiện, hiếu thảo trọn vẹn. Các người cha chắc chắn tìm học được nơi thánh Giuse một mẫu mực khôn ngoan, quán xuyến và tiên liệu trong chức vụ làm cha và gia trưởng của gia đình. Các bà mẹ tìm thấy nơi Mẹ Maria một tấm gương chói sáng về tình yêu, đức nết na, đức tin trọn hảo, hết lòng tùng phục và khiêm tốn. Những người con học được với Chúa Giêsu đức vâng lời, lòng tôn kính, biết ơn và bắt chước cha mẹ trong việc mến Chúa yêu người. Những người quý phái hãy học với gia đình hoàng tộc này về đức tiết kiệm, phong độ và danh giá trong mọi cơn thử thách. Những người giàu có hãy học cùng gia đình này tìm kiếm nước trời trước, mộ mến các nhân đức hơn là của cải trần gian. Những người lao động nghèo khó hãy vui mừng và hãnh diện vì những vất vả nghèo hèn của mình đã được Thánh Gia chia sẻ; những lo âu về cuộc sống hằng ngày đã được Thánh Gia hiểu biết và thông cảm. Thánh Giuse đã phải lao lực mới kiếm đủ cơm bánh nuôi vợ con. Những bàn tay của Chúa Giêsu đã phải cực nhọc với những dụng cụ thợ mộc. Những trằn trọc, thao thức, lo âu hòa trong mồ hôi của Mẹ Maria để dọn những tấm bánh ngon, những manh áo lành cho chồng con. Tóm lại, người ta không thể tìm đâu được gương mẫu gia đình hoàn hảo cho các gia đình bằng Thánh Gia. Hoặc như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Thánh Gia Na-da-rét là trường dạy cho người chồng, người vợ, người cha, người mẹ và con cái biết sống đúng địa vị, chức năng và nhiệm vụ của mình trong gia đình”.

Nhìn về chúng ta, chắc chắn ai trong chúng ta cũng mong muốn có được một gia đình hạnh phúc, trong đó vợ chồng, cha mẹ, con cái vui sống đầm ấm, yêu thương chan hòa. Những mẫu gia đình như thế giống như trái chín treo trên cành cao, muốn hái được chúng ta cần phải không ngừng vươn lên. Nói rõ hơn, muốn có được một gia đình êm ấm và vững chắc, mọi người trong gia đình phải dùng trí óc, con tim và đôi tay để cùng nhau xây dựng, nhất là phải biết tôn trọng nhau và thánh hóa lẫn nhau, đồng thời biết hy sinh cho nhau. người ta thường nói: “Muốn cho đàn gà tranh nhau, hãy rải thóc cho chúng ăn. Còn muốn cho hai người đoàn kết với nhau, hãy bắt họ kéo chung một khúc gỗ”. Một gia đình mà mọi người càng cộng tác với nhau thì càng thương nhau. Cũng như người cha, người mẹ nào càng cực khổ vì con, càng yêu con hơn thì con cái cũng thương cha mẹ nhiều hơn. Cũng thế, đôi vợ chồng nào càng hy sinh cho nhau lại càng yêu nhau đậm đà. Trái lại, nếu trong gia đình thiếu sự cởi mở, cảm thông, tương trợ lẫn nhau, thì bầu khí gia đình trở nên tẻ nhạt, nặng nề, căng thẳng, mỗi người trở nên ít nói, thích sống riêng tư, khiến gia đình thành một nơi buồn chán, xa lạ, trong khi ở những môi trường khác, họ lại hoạt động vui vẻ và tích cực hơn. Không thể kéo dài tình trạng gia đình mãi như vậy. Mỗi người trong gia đình phải góp một phần làm thay đổi bầu không khí đó. Cha mẹ chịu khó lắng nghe con cái một chút và cảm thông với những khó khăn và suy tư của chúng. Con cái cũng chịu khó nhìn về thế hệ trước để dung hòa với cha mẹ. Anh chị em hãy thân nhau hơn, thương nhau hơn, để cùng dẫn dắt nhau, đỡ trách nhiệm cho cha mẹ. Muốn thế, đòi hỏi mỗi người trong gia đình một sự nhẫn nại, chịu khó hiểu nhau và hy sinh cho nhau. Yêu nhau tất nhiên phải chịu khổ vì nhau, và ngược lại, càng hy sinh chịu khổ gánh vác cho nhau, tình thương lại càng thắm thiết sâu xa hơn.

 

40. Có một lý do.

Erma Bombeck là một nhà viết nhật ký. Bài viết của cô đã được đăng tải trên 900 tờ báo khắp nước Mỹ. Cũng giống như những nhà bình luận, cô nhận được rất nhiều lá thư của các độc giả.

Đây là đoạn trích thư của một người mẹ: “Cho dù là tòa đã phán quyết đứa con trai của tôi, nhưng tôi thì vẫn không. Nó là đứa con của tôi, làm sao mà tôi có thể phán quyết nó chứ? Tôi cầu nguyện cho nó; tôi khóc thương nó; tôi khuyến khích nó. Và trên hết, tôi yêu thương nó. “

Đây là một ví dụ khác, dựa trên lá thư của một em bé 12 tuổi. Em viết: “Tôi là một bà mẹ thay thế. Khi người mẹ của tôi làm việc tại nhà hàng, thì tôi phải trông coi ba người em của tôi. Tôi phải lo vệ sinh cho chúng nó. Tôi lau nước mũi cho chúng. Tôi cho chúng ăn. Tôi đưa chúng vô giường ngủ. Tôi làm tất cả mọi việc mà người mẹ thật của tôi làm. Tuy nhiên, thay vì cám ơn tôi, các em của tôi đã ghét tôi. Một đôi lúc, tôi mong được chết đi. Tôi đã có ý định bỏ nhà ra đi, nhưng tôi không biết đi đâu và sẽ làm gì. Khi tôi lớn lên, tôi không muốn làm một người mẹ, bởi vì đó là một cái nghề tệ nhất trên trái đất này. “ (Based on Erma Bombeck, Motherhood: The Second Oldest Profession).

Hai ví dụ ở trên đều đưa đến một điểm giống nhau, đó là cho dù làm bậc cha mẹ hoặc làm bậc con cái trong gia đình đều không phải là dễ. Một đôi lúc, nó thật là nhức nhối.

Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rằng, cho dù là Gia Đình Thánh Gia cũng chẳng ngừa được cái đau khổ tương tự.

Thí dụ, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã phải đau khổ khi lạc mất con. Sự đau khổ cũng không giảm bớt khi họ tìm thấy Chúa Giêsu. Mẹ Maria đã nói với Chúa Giêsu: “Con ơi, sao con lại làm cho chúng ta như thế? Kìa cha con và mẹ đây, đã đau khổ tìm con. “

Chúa Giêsu trả lời: “Mà tại sao tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?”

Đó là một câu trả lời đau khổ cho câu hỏi của Mẹ Maria. Mẹ Maria đã phản ứng thế nào?

Mẹ đã không chạm trán với Chúa Giêsu, hoặc bắt Ngài phải giải thích. Mẹ chỉ đơn giản để những lời đó vào trong lòng và suy ngẫm. Phúc Âm viết: “Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. . . Maria, Mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng” (Lc 2:48-51)

Một đôi lúc, giữ thinh lặng là cách duy nhất để giải quyết những cơn giận dữ. Erma Bombeck viết trong cuốn “Tình Mẹ”: “Tôi cho rằng mỗi một người con đều nhớ một đức tính đặc biệt nào đó về người mẹ của mình. Đức tính đó có thể là một sự khôn ngoan cứu giúp người con khỏi cảnh nguy hiểm, hoặc là một lời nói chỉ đường để giúp người con đạt tới mục đích cách dễ dàng. Riêng tôi, tôi yêu mẹ của tôi, bởi vì trong mọi lúc bà ấy chẳng nói điều gì hết. “

Để có thể giữ thinh lặng trong khi bên trong nội tâm của mình sôi sùng sục đòi hỏi rất nhiều sự tự chủ. Tuy nhiên, cũng có lúc những thinh lặng nói lớn hơn là những lời nói phát xuất từ miệng lưỡi.

Nếu vai trò của Mẹ Maria trong gia đình Thánh Gia không phải là một chuyện dễ dàng, thì vai trò của Thánh Giuse cũng chẳng thua kém gì.

Một người giảng phòng đã kết thúc bài giảng của ngài với các ông bố như sau: “Thánh Giuse là mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta. “

Sau cuộc nói chuyện, một ông bố đã tiến lên vị giảng phòng và nói: “Với tất cả lòng tôn kính, thưa cha, trường hợp của Thánh Giuse thì khác hẳn với chúng tôi, những người bố bình thường. Thứ nhất, Ngài là một vị thánh. Thứ hai, vợ của Ngài vô nhiễm tội lỗi. Thứ ba, người Con của Ngài là Con Thiên Chúa. Tôi không phải là thánh, vợ của tôi thì tội lỗi, và con của tôi không phải là Con Thiên Chúa.”

Vị giảng phòng trả lời: “Điều ông nói đúng, nhưng tôi xin thành thật hỏi ông thế này. Vợ của ông có phải là có thai trước khi đám cưới, mà ông không biết tại sao không? Hoặc là con của ông có khi nào bỏ nhà ra đi ba ngày mà ông không biết nó đi đâu không? Cả hai điều này đã xảy ra với Thánh Giuse. “

Chúng ta thấy rõ, cho dù là một gia đình thánh thiện cũng không tránh khỏi sự khó khăn.

Chúng ta xin Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse phù hộ chúng ta sống thánh thiện yêu thương, noi gương Thánh Gia Nazarét.

 

41. Cầu nguyện

Trong một cuộc thăm dò về gia đình, người ta đã đưa ra một câu hỏi như thế này:

– Khi dẫn con vô tiệm ăn, bạn có cảm thấy thoải mái khi yêu cầu chúng làm dấu thánh giá và đọc kinh trước khi ăn hay không?

Câu hỏi này khiến chúng ta phải lưu ý tới một trong những vấn đề quan trọng, đó là sự cầu nguyện trong gia đình. Thực vậy, đời sống cầu nguyện trong gia đình phải được thực hiện dưới ba hình thức khác nhau.

Hình thức thứ nhất đó là cầu nguyện riêng tư.

Mỗi người trong gia đình phải cầu nguyện riêng với Chúa. Chẳng hạn người cha cầu nguyện khi đi đến công sở, người mẹ cầu nguyện khi chăm sóc đứa con đau yếu, con cái cầu nguyện khi đi đến trường… Có nhiều cách giúp chúng ta cầu nguyện riêng. Chẳng hạn như kinh Lạy Cha, vừa đọc vừa suy gẫm. Cũng có thể cầu nguyện bằng cách đọc và suy gẫm lời Chúa trong Thánh Kinh, hay cầu nguyện bằng chính những lời lẽ riêng tư, nói với Chúa như với một người Cha nhân từ.

Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện một mình. Sau một ngày vất vả mệt mỏi thì ban tối Ngài thường lên núi để chìm đắm trong sự kết hiệp với Chúa Cha…

Một trong những món quà quí giá nhất mà cha mẹ có thể trao tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích những giây phút cầu nguyện một mình và không có cách nào thực hiện điều đó tốt hơn bằng chính gương sáng của mình.

Một người ngoại giáo thăm người bạn của mình giữa lúc người bạn ấy đang cầu nguyện. Hình ảnh này đã làm cho người ngoại ấy cảm động và sau đó đã xin nhập Kitô giáo

Hình thức thứ hai đó là cầu nguyện chung trong gia đình.

Chẳng hạn những giờ kinh tối sớm hay trước lúc dùng bữa. Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện như thế. Người Do Thái coi trọng việc cầu nguyện chung trong gia đình, nhất là trước các bữa ăn. Họ thường nói:

– Ai ăn mà không tạ ơn Thiên Chúa, thì đó là kẻ trôm cắp.

Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện trước khi ăn. Chẳng hạn như khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, khi ngồi với các tông đồ trong phòng tiệc ly, hay với hai môn đệ trên đường đi Emmaus.

Một lần nữa chúng ta có thể xác quyết:

– Một trong những món quà quí giá nhất mà cha mẹ có thể trao tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích việc cầu nguyện chung trong gia đình.

Tướng Mac Arthur đã viết như sau: Là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn hãnh diện hơn nữa vì được làm một người cha với niềm hy vọng rằng khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con cái tôi vẫn nhớ đến tôi với hình ảnh ở nhà, khi tôi cùng với chúng đọc lời kinh: Lạy Cha chúng con ở trên trời…

Sau cùng, hình thức thứ ba là cầu nguyện với cộng đoàn, với các gia đình khác trong khu xóm, nhờ đó mà khu xóm trở nên gần gũi, gắn bó, đoàn kết với nhau hơn.

Chúng ta có thể tổ chức những giờ kinh trong khu xóm hay cùng nhau đến nhà thờ để tham dự thánh lễ và các việc đạo đức khác, Chúa Giêsu cũng thường làm như vậy. Khi trở về Nagiarét, Ngài thường đến hội đường để cùng với dân làng đọc Kinh Thánh và cầu nguyện.

Còn chúng ta, chúng ta đã sống tinh thần cầu nguyện ấy như thế nào dưới mái gia đình của chúng ta.

 

home Mục lục Lưu trữ