Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 63

Tổng truy cập: 1377478

NIỀM VUI ĐÍCH THỰC

NIỀM VUI ĐÍCH THỰC (*)-  Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm C này là “niềm vui cứu độ”

Is 66: 10-14

Ngôn sứ I-sai-a loan báo cho thành thánh Giê-ru-sa-lem điêu tàn sau năm mươi năm thử thách niềm vui về cuộc tái thiết thành đô sắp đến.

Gl 6: 14-18

Thánh Phao-lô nhắc cho các tín hữu Ga-lát nhớ rằng căn nguyên duy nhất của ơn cứu độ là thập giá của Đức Ki-tô. Chính qua con đường thập giá này, con đường của những thử thách mà thánh nhân phải chịu ở nơi thân xác của mình, thánh Phao-lô đã tự chứng tỏ là  một thừa sai đích thật của Tin Mừng.

Lc 10: 1-12, 17-20

Tin Mừng thuật lại việc Chúa Giê-su sai bảy mươi hai môn đệ ra đi thi hành sứ vụ. Nhờ vào tinh thần siêu thoát: không dính bén đến mọi sự vật trần thế, họ có một niềm vui thuần khiết, đó là không có gì ngoài sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ cho hết mọi người.

BÀI ĐỌC I (Is 66: 10-14)

Bản văn này trích từ tác phẩm của vị ngôn sứ vô danh, được gọi dưới biệt danh là I-sai-a đệ tam, một môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Thầy ông đã thi hành sứ vụ an ủi những người lưu đày ở Ba-by-lon; về phần mình, ông thực hiện sứ vụ tương tự như thầy mình là an ủi những người lưu đày này khi họ được hổi hương trở về Giê-ru-sa-lem, sau khi được vua Ba-tư là Ky-rô giải phóng vào những năm 539-538 trước Công Nguyên. Tuy nhiên, trước thực trạng điêu tàn của đất nước, họ chán nản ê chề.
*1. “Khăn tang” bao phủ Giê-ru-sa-lem:

Những người hồi hương ngậm ngùi trước cảnh tang thương: thành thánh Giê-ru-sa-lem không còn như xưa, nhưng điêu tàn và nghèo khổ. Đền Thờ vẫn hoang phế trơ gan cùng tế nguyệt suốt năm mươi năm trường sau cuộc tàn phá. Còn họ, họ khóc thương những người thân đã không còn nữa, nhà cửa bị đổ nát và đất đai bị cưỡng đoạt.
Trong cảnh ngộ thương tâm như vậy, vị ngôn sứ cất cao giọng loan báo niềm vui về cuộc tái thiết thành thánh sắp đến: “Hãy vui mừng với Giê-ru-sa-lem, và hoan hỷ vì Thành hạnh phúc, hỡi những ai hằng mến yêu Thành”. Trước đây, trong đoạn văn chuẩn bị đoạn văn này, vị ngôn sứ viết: “Đức Chúa phán: Này đây Ta sắp sáng tạo trời mới đất mới… Phải, này đây, Ta sẽ tạo Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ và dân ở đó thành nỗi vui mừng” (Is 65: 17-19). Vì thế, những người hồi hương “đang khóc vì Thành đau khổ, hãy cùng Thành hớn hở tưng bừng”, vì Giê-ru-sa-lem sẽ được thịnh vượng và tràn đầy niềm vui.

*2.Những viễn cảnh của Giê-ru-sa-lem tương lai:

Chúng ta đang đọc một đoạn trích từ bài thơ vĩ đại mang những dấu nhấn khải huyền. Giê-ru-sa-lem được mô tả như tiên trưng Giê-ru-sa-lem thiên giới: thành nhận được sự phú túc, thịnh vượng và niềm vui, cũng như con cái của thành được “hưởng nguồn an ủi và thỏa thích nếm mùi vinh quang”. Bởi vì Thiên Chúa đã mang đến cho thành ơn cứu độ và sự tái sinh.

“Này Ta đổ hòa bình tuôn xuống Thành Đô khác nào sông cả, khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ”. Chúng ta ghi nhận hai hình ảnh tương phản: hòa bình bắt nguồn từ Thiên Chúa được sánh ví với sông cả, nghĩa là những dòng nước hiền hòa, uy nghi, trong khi vinh quang của chư dân, tức nguồn phú túc của họ, được sánh ví với “thác vỡ bờ”, mà những dòng nước của nó thì thất thường, thậm chí nguy hiểm nữa.

3.Đức Chúa ân cần săn sóc dân Ngài như mẹ hiền âu yếm con thơ:

Đức Chúa cứu độ vì Ngài là một Thiên Chúa hằng giàu lòng xót thương. Vị ngôn sứ sánh ví việc Thiên Chúa quan tâm đến dân Ngài như mẹ hiền âu yếm con thơ: “Các con sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm vào lòng, nâng niu trên đầu gối”. Những người hồi hương bất hạnh cảm thấy mình được an ủi vỗ về trong tình mẫu tử của Thiên Chúa; lòng họ sẽ vui hưởng niềm hoan lạc và bản thân của họ sẽ tràn đầy sức sống “như cỏ đồng xanh”“Chúa sẽ tỏ quyền lực của Người cho các tôi tớ biết”, nghĩa là Thiên Chúa sẽ ân cần săn sóc những ai trung thành với Người; trái lại, Người sẽ trừng phạt những quân vô đạo.  

Niềm hoan hỷ của Giê-ru-sa-lem sau những năm thử thách cam go được sánh ví với niềm vui mà các tông đồ được hưởng sau những công lao khó nhọc từ sứ vụ của họ như Tin Mừng Lu-ca hôm nay tường thuật. 
BÀI ĐỌC II (Gl 6: 14-18)

Bản văn này là phần cuối Thư gởi tín hữu Ga-lát. Phần kết này mang một cung giọng nồng nàn đầy sức thuyết phục. Thánh Phao-lô tiếp tục lấy mình làm mẫu gương để hỗ trợ cho những lời khuyên nhủ của thánh nhân.
*1.Cắt bì đích thật:

Ở giữa những Ki-tô hữu Ga-lát gốc lương dân, những người Ki-tô hữu gốc Do thái tự phụ là mình tuân giữ phép cắt bì. Để trả lời cho những người Ki-tô hữu gốc Do thái này, thánh Phao-lô nói rằng thánh nhân không hãnh diện về bất cứ điều gì khác ngoài thập giá của Đức Ki-tô. Ấy vậy, luật của thập giá, chính là đóng đinh những đam mê xác thịt và những ham muốn trần thế vào thập giá để nên một với Đức Ki-tô. Đó mới là cắt bì đích thật. Thập giá là nguồn ơn cứu độ duy nhất. Nghi thức xưa không còn có nghĩa lý gì nữa; chỉ duy một điều đáng kể đó là “trở thành một thọ tạo mới”

2.Dân Ít-ra-en mới:

Thánh Phao-lô cầu chúc bình an và xót thương cho tất cả những ai bước theo con đường này, con đường của những ai biết đoạn tuyệt với Do thái giáo. Thánh nhân liên kết những Ki-tô hữu gốc lương dân với “Ít-ra-en của Thiên Chúa”, họ cũng trở nên con cái của Lời Hứa, như thánh nhân đã nói trước đó: “Nếu anh em thuộc về Đức Ki-tô, thì anh em là dòng dõi ông Áp-ra-ham, những người thừa kế theo lời hứa” (Gl 3: 29).

3.Tông Đồ đích thật:

 “Từ nay, xin đừng có ai gây phiền toái cho tôi”. Lời phiền hà này được ngỏ với vài tín hữu Ga-lát, họ đặt vấn đề tính chính thống tước vị Tông Đồ của thánh nhân. Thánh Phao-lô đáp lại khi nhắc nhở rằng thánh nhân “mang trên mình những dấu tích của Đức Giê-su”, ám chỉ đến đòn vọt và những hành động hung bạo mà thánh nhân đã phải chịu ở Ga-lát (Cv 14: 19-20; x. 2Cr 6: 4-10). Những dấu tích này không phải là những dấu chỉ của tước vị Tông Đồ chính thống của thánh nhân sao?
Lời chào cuối thư đặc biệt ngắn. Đây là lời chào duy nhất ở đó những người nhận thư được gọi “anh em”. Đây là lời nguyện xin sau cùng cho sự hiệp nhất.

TIN MỪNG (Lc 10: 1-12, 17-20)

Chỉ duy một mình thánh Lu-ca kể cho chúng ta câu chuyện “Chúa Giê-su sai bảy mươi hai môn đệ ra đi thi hành sứ vụ”. Như thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, trước đó thánh Lu-ca cũng đã thuật lại câu chuyện “Chúa Giê-su sai nhóm Mười Hai ra đi thi hành sứ vụ” (Lc 9: 1-6; Mt 10: 5-15; Mc 6: 7-13). Những lời khuyên bảo và những chỉ thị Chúa Giê-su ban cho trong hai trường hợp sai đi gần như tương tự nhau. Tại sao lại có sứ vụ mới này?
1.Dấu chỉ phổ quát:

Con số bảy mươi hai (hay bảy mươi, theo vài thủ bản) rõ ràng quy chiếu đến bản liệt kê các dân tộc trên mặt đất của chương 10 sách Sáng Thế. Tất cả nhân loại đều là con cháu của ông Nô-ê và bị phân tán thành bảy mươi dân tộc theo bản Kinh Thánh Hy-bá, hay thành bảy mươi hai dân tộc theo bản Kinh Thánh Hy-ngữ.  
Sứ vụ của nhóm bảy mươi hai môn đệ báo trước việc loan báo Tin Mừng khắp tận cùng thế giới; sứ vụ này chuẩn bị “các nơi mà chính Người định đến”. Sứ vụ bao la đến độ Đức Giê-su phải nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin Chủ ruộng sai thợ ra gặt lúa về”.

2.Ý nghĩa của việc sai đi:

Sự kiện một kinh sư sai các môn đệ của mình ra đi thi hành sứ vụ là một điều mới mẻ. Không một kinh sư nào ở Ít-ra-en, dù có đông đảo các môn đệ đến thế nào đi nữa, lại nẩy sinh ý tưởng là sai các môn đệ ra đi truyền bá sứ điệp của mình. Ấy vậy, Đức Giê-su “sai phái” các môn đệ ra đi thi hành sứ vụ. Trong Cựu Ước, chính Đức Chúa “sai phái” các sứ giả của Người ra đi thi hành sứ vụ, vì thế ngôn từ tự nó đã mặc lấy cung giọng thời thiên sai. Đức Giê-su là “Đấng được Chúa Cha sai phái” để rồi đến lượt mình, Ngài sai phái các môn đệ của Ngài. Các tác giả Tin Mừng nhiều lần kể ra cử chỉ này của Đức Giê-su.
Ở đây, Đức Giê-su sai các môn đệ cứ từng hai người như Ngài đã làm như vậy đối với nhóm Mười Hai. Nếu có hai người cùng nhau làm việc, thì công việc sẽ dễ dàng hơn; nhưng nhất là, theo Lề Luật, một biến cố chỉ được chứng thực nếu có ít nhất hai nhân chứng. Ngoài ra, sứ điệp Tin Mừng không là công việc của một cá nhân, nhưng một tập thể, một cộng đồng, toàn thể Giáo Hội.
3.Tinh thần siêu thoát:

Các môn đệ có nguy cơ gặp phải một thế giới thù nghịch: “Này Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói”. Chẳng quan trọng gì. Sự khó nghèo và niềm cậy trông vào ơn Quan Phòng của Chúa, đó phải là dấu hiệu của vị thừa sai. Không túi tiền bạc, không bao bị để đựng vài vật dụng cá nhân hay thức ăn, thậm chí giày dép cũng không. 
“Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường”. Đây là lời khuyên thích hợp cho những người Đông Phương, vốn thích những hình thức chào hỏi xã giao dài dòng. Người môn đệ chỉ có một hành trang đích thật, đó là sự bình an tự tại mà người ấy có thể truyền đạt. Bình an mà người môn đệ Chúa Giê-su trao ban vượt quá lời chào bình an (shalom) của người Do thái, vì đó là sự bình an bắt nguồn từ Chúa. Sự bình an này được nhân cách hóa; nếu sự bình an này bị khước từ, nó “sẽ trở về với anh em”.

4.Ở giữa dân ngoại: 

Chúa Giê-su căn dặn nhóm bảy mươi hai môn đệ: “Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó”. Một huấn thị thật ý nghĩa trong khi thi hành sứ mạng giữa muôn dân, nhưng không được gặp thấy trong những lời dặn dò cho nhóm Mười Hai. Huấn thị này hàm chứa một bữa ăn được dọn tại nhà dân ngoại. Thánh Phao-lô cũng sẽ phát biểu như thế: “Nếu có người ngoại nào mời anh em…, thì cứ ăn tất cả những gì người ta dọn cho anh em, không cần phải đặt vấn đề lương tâm” (1Cr 10: 27), vì“trái đất và muôn loài muôn vật trên trái đất đều là của Chúa” (1Cr 10: 26). Ngay từ bây giờ, Chúa Giê-su loan báo rằng người Ki-tô hữu được phép ăn mọi thứ thức ăn, không còn phân biệt những thức ăn thanh sạch với thức ăn không thanh sạch nữa. Hiển nhiên, huấn thị của Ngài nhắm đến công cuộc loan truyền Tin Mừng ở giữa muôn dân.

5.Những thất bại:

Đức Giê-su báo trước cho các môn đệ những thất bại, tuy nhiên những thất bại sẽ không ngăn cản được công việc loan truyền Tin Mừng: “Vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra ngoài đường phố mà nói: ‘Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại cho các ông. Tuy nhiên các ông biết điều này: Triều đại Thiên Chúa đã đến gần”
Việc “phủ bụi chân” là cử chỉ người Do thái thường làm khi trở về đất Pa-lét-tin, để không đưa bụi trần vào đất thánh của họ (như tín đồ Hồi Giáo cởi giày dép trước khi bước vào đền thờ). Thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba, bị trục xuất khỏi thành An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, “liền giũ bụi chân” (Cv 13: 51), cử chỉ này không bày tỏ sự khinh bĩ nhưng bày tỏ thái độ đoạn tuyệt.

6.Niềm vui đích thật:

Bảy mươi hai môn đệ trở về, lòng hớn hở; họ đã chứng kiến uy quyền của triều đại Thiên Chúa và sự thất bại của những quyền lực sự ác. Nhân danh Chúa Giê-su, họ đã trục xuất ma quỷ.

Chúa Giê-su khẳng định với các môn đệ rằng Ngài có quyền trên ma quỷ và Ngài thông ban quyền này cho họ. Ở đây, Ngài sử dụng kiểu nói thánh vịnh và ngôn ngữ khải huyền để cho họ thoáng hiểu rằng Ngài đã đến trần thế này cốt là để chiến thắng Ác Thần. Quả thật, thánh Vịnh 91 hứa với người công chính là Thiên Chúa sẽ ban ơn phù trợ: “Bạn có thể giẫm lên hùm thiêng rắn độc…”. Chính Thánh Vịnh này mà Xa-tan trích dẫn khi nó thử thách Đức Giê-su trong hoang địa (Lc 4: 10-11), vì thế, Đức Giê-su đã chiến thắng Ác Thần này ngay từ lúc ấy. Còn câu nói: “Thầy đã thấy Xa-tan từ trời sa xuống như chớp” được gợi hứng từ ngôn ngữ của các sách khải huyền nói về sự sa ngã của các thiên sứ. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su cũng loan báo bằng những ngôn từ như vậy: “Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài” (Ga 12: 31). 

Thánh Lu-ca viết chương này như tham dự trước sứ vụ của Giáo Hội trong sách Công Vụ mà chính thánh ký cũng là tác giả. Trong sách Công Vụ, thánh nhân kể ra nhiều lần các môn đệ hớn hở vui mừng. Tên của họ “đã được ghi trên trời”: ám chỉ đến Sách Sự Sống, hình ảnh kinh điển của các sách khải huyền, mà nhiều đoạn văn Cựu Ước đã gợi lên rồi (Xh 32: 32; I s 4: 3; Tv 60: 29; Đn 12: 1). Điều này muốn nói rằng họ sẽ được liệt vào số những người được chọn và chính Thiên Chúa sẽ là nguồn hạnh phúc của họ. 

CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- NĂM C

LOAN TIN BÌNH AN VÀ HẠNH PHÚC- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

“Ngài sai họ đi từng hai người một”(Lc 10,1)

Sợi chỉ đỏ :

– Bài đọc I (Is 66,10-14c) : Khi dân do thái đang vừa trở về từ chốn lưu đày, ngôn sứ Isaia loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban bình an và hạnh phúc tràn trề cho họ.

– Đáp ca (Tv 65) : Ca tụng những phúc lành của Thiên Chúa.

– Tin Mừng (Lc 10,1-12.17-20) : Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi khắp nơi loan báo Tin Mừng.

– Bài đọc II (Gl 6,14-18) : Thánh Phaolô loan báo những phúc lành mà Thập giá Chúa Giêsu ban cho các tín hữu.

  1. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến

Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi khắp nơi như những sứ giả của sự bình an và hạnh phúc. Ngày nay Chúa cũng sai chúng ta như thế. Nhưng muốn là những sứ giả của bình an và hạnh phúc thì trước tiên chúng ta phải có bình an và hạnh phúc trong lòng chúng ta. Đó là hai ơn rất quý mà chúng ta hãy xin Chúa ban trong Thánh lễ này.

  1. GỢI Ý SÁM HỐI

– Chúng ta chỉ lo đến phần rỗi của riêng mình mà không nghĩ đến việc cứu rỗi người khác.

– Trong cuộc sống chung đụng với người khác, chúng ta chưa thực sự là những người mang lại bình an và hạnh phúc cho họ.

– Chúng ta chưa được như Thánh Phaolô, biết sung sướng hãnh diện vì Thập Giá Đức Kitô.

III. LỜI CHÚA

  1. Bài đọc I(Is 66,10-14c)

Vua Cyrus nước Ba Tư vừa tiêu diệt đế quốc Babylon và ký sắc lệnh cho phép dân do thái hồi hương. Trong bầu khí phấn khởi vui mừng đó, ngôn sứ Isaia nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ ban phúc lành cho dân. Điều đáng lưu ý là phúc lành quý giá nhất chính là ơn bình an : “Ta sẽ làm cho bình an chảy đến nó (Giêrusalem) như con sông”.

  1. Đáp ca(Tv 65)

Tv này reo mừng Thiên Chúa và ca ngợi về những ơn lành của Ngài.

  1. Tin Mừng(Lc 10,1-12.17-20)

Đoạn Tin Mừng này đã được Phụng vụ cắt bớt khúc giữa (cc 13-16), để chỉ còn lại hai phần chính : Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng (cc 1-12), và các môn đệ rao giảng xong trở về kể chuyện cho Ngài nghe (cc 17-20)

a/ Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng :

– Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72. Đây là số dân của loài người mà St 10 đã liệt kê.

– “Từng nhóm hai người” : Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.

– “Hãy cầu xin” : Việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.

– “Như chiên non vào giữa sói rừng” : Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.

– “Đừng chào ai dọc đường” : việc chào hỏi của người Phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp.

– “Bình an cho nhà này” : đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều nó chúc (Is 45,23). Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.

– “Cứ ở lại nhà ấy” : gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình.

– “Ăn uống của người ta cung cấp cho mình” : sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những gì của ăn uống người ta lo cho mình).

– “Thợ đáng trả lương” : đây là một nguyên tắc (1Tm 5,18 ; 1Cr 9,11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9,14-18).

– “Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy” : Người rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10,27).

– “Hãy chữa lành các bệnh nhân : đây là dấu hiệu Nước Thiên Chúa gần đến.

– “Phủi bụi chân” : người Do Thái thường phủi bụi chân khi từ một vùng đất ngoại trở về đất Palestina vốn được coi là đất thánh. Cử chỉ này có nghĩa là không có chung đụng giữa Israel và dân ngoại. Thành nào không đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu thì cũng cắt đứt liên hệ với dân Thiên Chúa, trách nhiệm là thuộc về họ.

– Thành đó sẽ đáng chịu phán xét trong ngày chung thẩm, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề còn hơn Sôđôma ngày xưa. Việc các thừa sai đến loan Tin mừng là cơ hội cho người ta chọn lựa để hoặc được cứu độ hoặc bị luận phạt.

b/ Sau một thời gian đi truyền giáo trở về, các môn đệ vui mừng kể lại cho Chúa Giêsu nghe những thành công của mình. Nhân dịp này Chúa Giêsu nhận xét về kết quả ấy của họ : Ngài chia vui với họ vì những thành công ấy. Nhưng Ngài cho biết họ càng nên vui mừng hơn vì Thiên Chúa đã coi họ là công dân của Nước Trời (“tên các con được ghi trên trời”)

  1. Bài đọc II(Gl 6,14-18) (Chủ đề phụ)

Trong đoạn thư này gởi tín hữu Galata, Thánh Phaolô chia xẻ cho họ biết một Tin Mừng đặc biệt mà Ngài khám phá ra, đó là giá trị tuyệt vời của thập giá Đức Kitô :

– Thập giá đã mang lại ơn cứu độ cho mọi người

– Thập giá trở thành lẽ sống của Phaolô

– Thập giá là nguồn bình an và hạnh phúc của Ngài.

  1. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Những kẻ mang bình an

Lời đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải nói khi vào một nhà nào là “Bình an cho nhà này”. Như thế nghĩa là họ sẽ làm những sứ giả của sự bình an. Nói cách khác, làm sứ giả của bình an là sứ mạng đầu tiên của người môn đệ Chúa.

Bắc Ai Len là một đất nước mà hai khối dân Công giáo và Tin lành thù ghét nhau và nhiều lần bắn giết nhau. Vào một dịp lễ Giáng sinh, một Linh mục công giáo đi sang bên kia đường để đến thăm một Mục sư Tin Lành. Vị Mục sư rất cảm động, đón tiếp vị Linh mục rất niềm nỡ. Ít lâu sau Vị Mục Sư cũng sang bên kia đường để thăm vị Linh mục. Tình thân giữa hai người ngày càng thắm thiết hơn. Tuy nhiên một vài tín đồ lớn tuổi thì nổi giận. Họ tìm đủ cách để cấp trên của Giáo Hội thuyên chuyển vị Mục sư ấy đi nơi khác.

Vị Linh mục và Vị Mục sư trên chỉ làm điều mà tất cả các môn đệ Chúa Giêsu phải làm, đó là làm những sứ giả của bình an và hòa giải trong một xã hội có nhiều chia rẻ.

Bình an không phải là một cái gì tiêu cực do không có chiến tranh và thù hận. Nó đòi phải có tinh thần cởi mở, tình huynh đệ, lòng khoan dung, thiện chí và ước muốn hòa giải. Nó buộc chúng ta đi đến với người khác. Nó giúp chúng ta gỡ bỏ những rào cản của nghi kỵ, sợ hãi, thành kiến và óc cố chấp.

Trước lúc Rước Lễ, chủ tế chúc “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”. Đây thực là một món quà quý giá mà thế gian không thể ban tặng được. Tiếp đó chủ tế kêu gọi “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Đáp lời Ngài, chúng ta chào nhau, đến bắt tay nhau hoặc ôm hôn nhau. Ước chi những cử chỉ đó không phải chỉ là hình thức mà thực sự bày tỏ lòng thân thiện của chúng ta. Cuối Thánh lễ, chủ tế lại chúc “Chúc anh chị em ra về bình an”. Câu này có nghĩa là chúng ta đã đến nhà thờ lãnh nhận bình an của Chúa, vậy khi ra về chúng ta cũng hãy mang bình an ấy đến cho mọi người chúng ta sẽ gặp gỡ.

* 2. Mênh mông lúa đồng

Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói : “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.

Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp : “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên : “Đã thấy !” Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên : “Đã thấy !”

Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích : “Ánh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy”.

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh : “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên !” Bỗng chốc, cả vận động trường rực sáng.

Ông John Kener kết luận : “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.

Đã qua 2000 năm nhưng lời dạy của Chúa Giêsu vẫn như đang nói với chúng ta hôm nay : “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2). Thế giới có trên 6 tỉ người, mà kẻ tin vào Chúa mới chỉ hơn một tỉ. Riêng tại Á Châu, chiếm 2/3 dân số thế giới, nhưng người Công giáo chỉ không tới 3%.

Cánh đồng lúa mênh mông còn bị bỏ hoang không thợ gặt hái. Thế giới này dường như vẫn còn mò mẫm trong bóng đêm dày đặc của sự dữ, của tranh chấp, của oán thù ; rất cần những đốm sáng của tình thương, của khoan dung, của tha thứ. Thế nên, không lạ gì Chúa Giêsu đã nói : “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói” (Lc 10,3) (…)

“Ra đi” chứ không phải “ở lại”, đó là một lệnh truyền. Cả cuộc đời của Thầy là một hành trình : Sinh ra ngoài đường, sống và rao giảng ngoài đường, cuối cùng chết cũng ngoài đường. Thầy luôn lên đường và không ngừng ra đi. Công đồng Vaticano II cũng long trọng khẳng định : “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Đức Thánh Cha Gian Phao lô II cũng quả quyết : “Không một ai trong những người rin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này : Đó là toan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).

Vậy ơn gọi của người tín hữu Kitô là “Ra đi”.

Ra đi đem “bình an” đến cho các dân tộc, bình an giữa mọi người với nhau, bình an với Chúa.

Ra đi chữa lành bệnh nơi thể xác cũng như trong tâm hồn.

Ra đi loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần, nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an.

Thánh Phao lô đã phải thốt lên : “Khốn cho thân tôi : nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Nhưng việc làm mới chứng thực cho lời rao giảng, và lời rao giảng sẽ soi sáng cho việc làm. Ra đi là để làm chứng, và lời chứng sáng giá nhất chính là việc làm. Đúng như L. Moody đã nói : “Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng”.(TP)

* 3. “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít

Catherine de Hueck Doherty làm việc trong một quán bar ở Mahattan. Đến 4 giờ sáng, cô nói lời tạm biệt với các khách uống rượu. Một người hỏi :

– Cô đi đâu ?

– Tôi phải đu Nhà thờ dự Thánh lễ, vì hôm nay là Chúa nhật.

– Thế cô là người công giáo hả ?

– Đúng vậy.

Nhiều người trong đám khách rất ngạc nhiên vì không ngờ Catherine có thể vừa là một người công giáo ngoan đạo vừa làm việc tại một nơi phức tạp như vậy. Vài tuần sau, một người trong đám khách trở lại nói với Catherine : “Cô đã khiến tôi suy nghĩ nhiều. Cô có thể vừa sống đạo tốt vừa làm việc ơ một nơi như thế này, thì tại sao tôi không thể !” Và người ấy đã trở lại nhà thờ.

Lần khác, Catherine đang trên đường tới trạm xe điện ngầm thì gặp một bà cụ. Bà cụ mở lời “Cô có vui lòng nói chuyện với tôi giây lát không ?” Cô vui vẻ nhận lời. Hai người đã nói chuyện với nhau trong suốt chặng đường. Sau đó hai người còn kết thân với nhau và Catherine thường xuyên tới thăm viếng bà cụ cho tới ngày bà cụ qua đời.

“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Một kitô hữu có ý muốn làm thợ gặt như cô Catherine thì không bao giờ thiếu dịp để gặt lúa cho Chúa.

* 4. Mảnh suy tư

Tông đồ là kẻ được sai đi.

Vì thế làm tông đồ rất khác với làm chuyên viên. Làm chuyên viên thì cần phải có tài năng. Còn làm tông đồ thì chỉ cần đi theo lệnh Chúa sai, đến với người Chúa sai mình đến, và mọi việc khác hầu như Chúa sẽ làm tất cả.

  1. Chuyện minh họa

a/ Đi giảng

Ngày kia, thánh Phanxicô Assadi nói với một thày dòng : “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo.” Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thày dòng thắc mắc hỏi : “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà !” Thánh Phanxicô đáp : “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó ! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao ?”

Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô-hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ.

b/ Khuôn vàng thước ngọc

“Hãy nói về Chúa cho những người quanh bạn nghe ; và hãy nói về những người quanh bạn cho Chúa nghe”.

  1. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi người Kitô hữu cộng tác vào công cuộc cứu chuộc của Người. Với ước mong trở nên những sứ giả Tin mừng cứu độ, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :

  1. Hội thánh là dấu chỉ ơn cứu độ Chúa sẵn sàng ban cho hết thảy mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa gửi nhiều thợ gặt lành nghề / đem tin mừng đến cho mọi loài thọ tạo.
  2. Khát vọng sâu xa nhất của con người ở mọi thời đại / là được sống bình an và hạnh phúc / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh / để hết thảy mọi người đều được sống hạnh phúc và an bình.
  3. Tin tưởng vào Chúa quan phòng là thái độ người Kitô hữu cần có suốt cuộc đời của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa / mỗi khi gặp thử thách gian truân.
  4. Số linh mục trên thế giới ngày nay thiếu hụt trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết góp phần vào việc đào tạo linh mục tương lai của các giáo phận / bằng lời cầu nguyện / cũng như bằng việc rộng rãi giúp đỡ Chủng viện.

Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa sai chúng con đem Tin mừng cứu độ, mang sứ điệp yêu thương đến cho biết bao anh chị em chưa nhận biết Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết dùng đời sống bác ái yêu thương và phục vụ tận tụy, mà làm tròn sứ mạng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

home Mục lục Lưu trữ