Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 35

Tổng truy cập: 1378888

NƠI BẠN THUỘC VỀ

Nơi bạn thuộc về – Peter Feldmeier

(Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

“Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết các chiên tôi và các chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14)

Vài năm trước, tôi có dịp nói chuyện với một anh bạn. Vợ anh ta vừa chết và mới được chôn cất. Cuộc sống của anh ta trước đây khá bệ rạc, và anh đã đối xử với vợ con rất tồi tệ. Anh ta hỏi tôi, theo tôi nghĩ, liệu anh ta có được lên thiên đàng hay không. Đây không phải là một câu hỏi khó trả lời, vì việc cứu rỗi chẳng phải là vấn đề quá nan giải. Chính Đức Giêsu đã quả quyết ai tin sẽ được sống đời đời. Hiển nhiên, không phải như nhiều người cứ đinh ninh rằng ơn cứu rỗi sẽ được tặng ban một cách nhưng không, chẳng cần con người cộng tác chút nào.

Sau khi đã hiểu khá rõ cuộc sống của anh, tôi trả lời. Nhưng trước hết tôi hỏi lại anh ta: Thế bây giờ anh sống ra sao, có biến chuyển khá hơn trước hay không? Anh trả lời “Tôi nghĩ, khó thay đổi. Tôi còn có nhiều buồn bực và vẫn hay uống rượu để giải khuây”. Tôi hỏi tiếp “Anh có đến nhà thờ thường xuyên không? Anh ta đáp: “Không. Trừ hôm an táng vợ tôi, đã 30 năm nay, tôi không đến nhà thờ nũa. Tôi nghĩ cuộc sống tôi vẫn vậy, chẳng thể thay đổi”. Tôi hỏi vặn lại “Nhưng vì anh đã bỏ nhà thờ, bỏ cả Chúa? Trước đây cuộc sống anh có tồi tệ như thế đâu.” Anh ta nói “Tôi biết, cuộc sống tôi hiện nay như là hỏa ngục thực sự, không phải như nhà thờ mà tôi đã bỏ suốt 30 năm qua”. Tôi tiếp tục hỏi anh “Thế ít nhất, anh có cầu nguyện không?” Anh trả lời “Hầu như không, tôi cũng chẳng còn tha thiết cầu nguyện như trước đây nữa.”

Tôi động viên anh hãy đến tòa cáo giải và trình bày tất cả. Tôi nhẹ nhàng khuyên anh hãy cố gắng sửa chữa và hàn gắn lại những đổ vỡ trong những tháng ngày còn lại của cuộc đời. Tôi gợi mở cho anh con đường trở về, song từ trong thâm tâm, tôi cũng lấy làm lạ và tự hỏi, tại sao một con người chẳng thiết tha gì đến Thiên Chúa như thế, nhưng vẫn mong muốn được vào thiên đàng. Họ không hiểu rằng thiên đàng chính là tình trạng con người gắn kết với Thiên Chúa và thuộc về Ngài trọn vẹn hay sao.

Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, Thánh Gioan đã viết “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con cái Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy (1Ga 3,2). Đó chính là thiên đàng thực sự của chúng ta, là tình trạng con người kết hiệp với Thiên Chúa và trở nên giống Ngài.

Thánh Phêrô tông đồ diễn tả trạng thái căn bản về việc Thiên Chúa hiện thực tròn đầy lời hứa cứu độ, khi Ngài viết “Chúng ta sẽ được thông phần bản tính Thiên Chúa (2Ph 1,4). Giáo hội gọi đó là sự “Thần hóa” Theosis, một khi chúng ta qua ân sủng được sống chính sự sống của Thiên Chúa, sống như Ngài đã sống, và yêu như Ngài đã yêu.

Nếu cách diễn đạt này xem ra có vẻ trừu tượng và khó hiểu, chúng ta sẽ dễ thấu triệt hơn khi đọc lại bài Tin mừng hôm nay. Đức Giêsu nói cho đám đông, Ngài là Mục Tử Nhân Lành. Không như các mục tử bất cẩn khác đã bỏ chiên để tháo chạy vào những thời khắc nguy hiểm, vị Mục Tử tốt lành đã liều cả mạng sống để bảo vệ đoàn chiên của mình. Chủ đề về chăn chiên được nói đến khá nhiều, và dàn trải đều khắp trong cựu ước. Ezekiel chương 34 là một đoạn văn cổ, qua đó vị tiên tri nặng nề cảnh báo các mục tử xấu xa, ám chỉ các vị lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ, đã bỏ rơi các con chiên, tức dân Israel, và chểnh mảng việc chăm sóc chúng. Ezekiel tiên báo rằng chính Thiên Chúa sẽ chăn dắt và săn sóc đàn chiên của Ngài (Ez 34,15-23). Đức Giêsu là Đấng sẽ thực hiện lời hứa đó, và Ngài sẽ là mục tử đích thực về cả hai phương diện: Chăn dắt và nuôi sống đoàn chiên.

Đức Giêsu đã đến và nuôi dưỡng chúng ta. Ngài bảo vệ, dẫn dắt và yêu thương chúng ta. Điều đánh động chúng ta sâu xa nhất, chính là Đức Giêsu đã hai lần nhắc đến sự tương giao thân tình giữa Ngài và các học trò, tức giữa người chăn chiên và các con chiên trong đàn. Ngài nói “Tôi biết chiên tôi và chiên của tôi biết tôi”, đồng thời Ngài nói tiếp “Chúng sẽ nghe tiếng tôi”. Qua hình ảnh người chăn chiên nhân lành, Đức Giêsu bộc lộ sự hiền dịu sâu xa nơi chính Ngài. Về phía chúng ta, khi chúng ta biết Ngài và để Ngài biết chúng ta, chúng ta sẽ đi vào sự gắn kết sâu xa với Ngài, và thuộc trọn về Ngài.

Khi còn là sinh viên, có lần tôi được trao cho một quyển sổ nhỏ có ghi một câu hỏi để tôi trả lời: “Khi đến trước cổng thiên đàng, để được đón nhận vào, bạn phải nói điều gì?” Chắc chắn câu trả lời là “Tôi tin, vì Đức Giêsu đã chết cho tôi”. Bài Tin mừng hôm nay còn vạch dẫn cho ta một câu trả lời khác: “Vì nơi đó chính là chỗ tôi thuộc về”. Cũng như đối với gã đàn ông ngược ngạo kia đã hỏi tôi như tôi nói ở đầu, tôi sẽ trả lời cho anh ta “thế thì bạn, bạn đang thuộc về đâu?”


 

14. Ý nghĩa của cuộc sống

Bài đọc I (Cv 4, 8-12): Thánh Phêrô tuyên bố trước những nhà lãnh đạo Do thái rằng: Chúa Giêsu Phục Sinh là Đấng Cứu Độ duy nhất. Ngài chính là chính là viên đá góc tường của toà nhà mới mà người ta loại bỏ. Động lực nào đã làm cho thánh nhân can đảm lạ thường? Phải chăng ông đã cảm nhận được tình yêu mà Chúa Giêsu đối với ông, một người phản bội!

Bài đọc II (1Ga 3, 1-2): Vì yêu thương mà Thiên Chúa đã chọn gọi chúng ta làm con Chúa trong Chúa Giêsu. Để chúng ta được thông phần hạnh phúc với Chúa, đồng thời mời gọi chúng ta hãy vui mừng và biết chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao ấy cho nhân loại.Vì chưng, ơn gọi của người Kitô hữu là ơn gọi để yêu thương.

Bài Tin Mừng (Ga 10, 11-18): Cho thấy Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, Ngài biết chiên của Ngài, và chúng cũng nhận ra Ngài. Không giống như người chăn thuê, Chúa Giêsu sẵn sàng hiến mạng sống của mình để bảo vệ đoàn chiên.

Ba bài đọc đã cho ta một cái nhìn mới về ý nghĩa của cuộc đời. Cuộc sống của chúng ta hôm nay phần lớn được bao bọc bởi công việc. Vì vậy chúng ta hãy xem công việc hiện nay của tôi đang làm có tầm quan trọng và có ý nghĩa như thế nào? Nếu công việc tôi đang làm thật sự có ý nghĩa cho xã hội, thì quả thật đây là một diễm phúc cho ta. Còn nếu nó không mang một ý nghĩa nào, hay có nhưng rất ít thì thật là vô phúc.

Người ta nói: vấn đề đầu tiên của chúng ta trong cuộc sống là hãy tìm một việc làm có ý nghĩa. Khi đó nó sẽ thay đổi cuộc đời chúng ta. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lặp đi lặp lại hai danh từ đối lập: Chủ chăn và người chăn thuê. Vậy đâu là sự khác biệt giữa vị mục tử nhân lành và người chăn thuê? Đó chính là hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên. Người chăn thuê làm công việc này vì đây là một sự bắt buộc, làm để lãnh lương. Đối với anh ta đây chỉ là cái nghề, vì thế anh ta không đặt con tim của mình vào trong công việc. Còn vị mục tử nhân lành làm công việc chăn dắt đoàn chiên vì anh ta yêu mến nó, đó chính là lý tưởng của anh. Vì vậy, anh ta làm với một con tim nhiệt thành và hoàn toàn tự nguyện.

Người ta yêu vị mục tử nhân lành vì cuộc sống của anh ta hoàn toàn vì lợi ích của đoàn chiên. Đối với vị chủ chăn nhân hậu, anh ta tìm thấy một cái gì quý giá thật sự khi được chăm sóc đoàn chiên. Đối với anh ta đây không chỉ là công việc mà còn là một ơn gọi, một lý tưởng của cuộc đời.

Vì vậy anh ta đặt tất cả mọi tâm quyết cho công việc và làm hết khả năng. Khi đó anh ta sẽ có đủ sáng kiến để thực hiện hoài bảo, nhờ đó mà tài năng bắt đầu được nở rộ. Dù cho công việc có nhiều khó khăn trắc trở nhưng nhờ có lý tưởng và có động lực là tình yêu nên mọi chuyện đều trở nên nhẹ nhàng và đơn giản không gì là nặng nhọc. Chúng ta không thể có được hạnh phúc từ cuộc sống dễ dãi. Trách nhiệm nặng nề trong việc tự nguyện phục vụ tha nhân sẽ làm cho cuộc sống yêu thương sẽ càng có giá trị.

Chúa Giêsu đã tìm thấy lý tưởng của Ngài Khi Ngài khẳng định: Ta là mục tử nhân lành của đoàn chiên mà Chúa Cha trao phó. Hai đặc tính nổi bật trong sự liên hệ giữa chủ chăn và đoàn chiên là: Ngài chăm sóc đoàn chiên tận tình, sẵn sàng hiến mạng sống để bảo vệ đoàn chiên. Và Ngài biết các chiên của Ngài và chúng cũng biết Ngài. Đây là sự gần gũi giữa chủ chăn và đoàn chiên. Thiếu điểm này thì sự lãnh đạo trở thành sự áp bức.

Mỗi người chúng ta cũng phải chọn cho mình một lý tưởng. Khi có lý tưởng chúng ta sống và làm việc với một thái độ hoàn toàn khác hẳn với người không có định hướng, không có lý tưởng. Khi chúng ta thực hiện một công việc hay một bổn phận với một con tim héo úa mà không có động lực yêu thương chắc chắn chúng ta sẽ thất bại. Và quả thật, đây là một nỗi bất hạnh lớn nhất trong cuộc sống. Vì chúng ta không tìm thấy niềm vui và hạnh phúc từ trong công việc, và khi đó cuộc sống quả là gánh nặng.

Nhưng để chọn cho mình một lý tưởng không phải là vấn đề đơn giản. Vì chọn lựa nào cũng phải từ bỏ, chọn lựa nào cũng làm cho chúng ta phải nuối tiếc và mang lại đau thương. Nhưng chúng ta phải can đảm chấp nhận vì hiểu rằng chúng ta chỉ có hạnh phúc thật sự khi đi đúng con đường, đúng lý tưởng.

Khi đó chúng ta mới yêu mến công việc của mình. Vì chưng thánh giá nào cũng nặng, nhưng điều quan trọng là thái độ của chúng ta đối với thánh giá cuộc đời. Nếu chúng ta nhìn công việc của mình như là quà tặng và phương tiện nên thánh thì mọi chuyện sẽ trở nên nhẹ nhàng. Chúa Giêsu là người sống có định hướng và lý tưởng hơn ai hết, khi Ngài đưa ra dụ ngôn mục tử nhân hậu và người chăn thuê. Người mục tử thì yêu mến công việc của mình, đảm nhận cônmg việc chăn dắt vì tình yêu. Đây không phải là điều dễ dàng. Nhưng cho dù gặp nhiều khó khăn gian khổ anh cũng dễ dàng vượt qua. Vì tình yêu đã cho anh sức mạnh.

Mỗi người chúng ta đều là mục tử trong địa vị và bổn phận của mình. Vì vậy chúng ta phải đối xử với nhau cách có trách nhiệm và hoàn toàn vì yêu thương. Tránh thái độ thờ ơ đối với nổi khổ của anh em, cũng như hành quyền trên người khác. Vì Chúa Giêsu đã chết và phục sinh cho tất cả chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, là vị mục tử nhưng Ngài lãnh đạo dân Ngài bằng tình yêu chớ không bằng quyền lực.

Lạy Chúa là Đấng nhân hậu và hay thương xót. Xin cho chúng con vững tin vào tình yêu của Đức Kitô phục sinh, vị mục tử nhân hậu đã thí mạng vì chúng con. Xin cho chúng con tỏ lòng biết ơn Chúa qua việc đối xử tốt với anh em. Xin Chúa cũng ban thêm cho chúng con có nhiều vị mục tử biết quảng đại dấn thân hoàn toàn vì lòng yêu mến Chúa và các linh hồn. Amen.


 

15. Mục tử tốt – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tình yêu Chúa cao vời biết bao, ngút cao như mây trời và mênh mang như biển cả. Chúa yêu thương con người qúa bội. Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu độ và đã thực hiện trọn vẹn lời hứa. Chúa Giêsu đã xuống thế mang thân phận con người để hoà nhập cuộc sống. Thiên Chúa làm người để cùng chia sẻ mọi nỗi truân chuyên, cơ cực, khổ đau, chối bỏ và ruồng rẫy trong thân phận người. Ngài đã dám hy sinh xả thân vì đàn chiên. Hình ảnh người mục tử chăn chiên thật ấn tượng. Chủ chiên đi trước và đoàn chiên theo sau. Chủ chiên mong tìm nguồn suối mát để chiên được giải khát. Chủ chiên đi tìm cánh đồng cỏ xanh tươi để chiên bồi dưỡng, nghỉ ngơi. Chúa Giêsu ví Ngài như người Chủ Chiên nhân lành.

Người mục tử tốt lành lo chu đáo cho mọi nhu cầu của đoàn chiên. Đối với người Dothái, hình ảnh người chăn chiên rất quen thuộc. Họ hiểu trọn vẹn ý nghĩa về vai trò của người chủ chiên và người làm thuê. Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Tác giả sách Tông đồ Công vụ đã viết về Chúa Giêsu chủ chiên tốt lành: “Chính Người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên đá góc tường”. Để được ơn cứu độ sẽ không có một Danh nào khác, mà chỉ nhờ Danh Chúa Giêsu Kitô.

Thư của Thánh Gioan Tông Đồ đã minh chứng rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta là dường nào. Ngài cho chúng ta được quyền làm con cái Thiên Chúa và hưởng nhờ ơn cứu độ. Ngài chăn dắt chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình. Thánh Gioan đã viết: “Chúa phán: Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10,14). Chúa biết nhu cầu tâm linh của từng con chiên. Mục đích tối hậu là dẫn dắt mọi người về chung hưởng hạnh phúc viên mãn trong một đàn chiên theo một Chúa Chiên: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16).

Chúng ta biết rằng nhu cầu cuộc sống thì vô vàn và sức lực cùng khả năng của con người thì giới hạn. Sống giữa một xã hội đổi thay và hỗn hợp văn hoá, tuyền thống, ngôn ngữ và tôn giáo, chúng ta khó có thể đáp ứng thoả đáng mọi nhu cầu của con người. Để tìm một một nguồn dưỡng nuôi thích đáng, mỗi người đều phải cộng tác nâng đỡ và mở cửa tâm hồn đón nhận. Sống trong một nền văn hoá đa dạng có các phương tiện truyền thông tốc độ, người có trách nhiệm giáo dục và hướng dẫn cần tỉnh thức nhiều hơn. Đàn chiên không đơn thuần nhập đàn theo nhau tìm đến dòng suối mát hay cánh đồng tươi xanh để cùng ăn uống thoả thuê. Nhu cầu cuộc sống không đơn giản đi theo bầy đàn.

Sứ mệnh mục tử được lan trải và áp dụng trong các vai trò cụ thể qua sự dưỡng nuôi và giáo dục. Chúng ta đang cần có các mục tử tốt trong mọi bước đi của cuộc đời. Chúng ta cùng chia sẻ vai trò quan trọng này trong chức vụ là cha mẹ, huynh trưởng, nhà giáo dục, các thầy thuốc, bác sĩ, các công nhân viên, các quan chức chính phủ và các nhà giáo dục tôn giáo.

Tại gia đình, vai trò giáo dục chủ yếu là của cha mẹ, phụ huynh lo lắng cho con cái về mọi mặt. Hãy yêu thương và dùng thời gian ở bên để chia sẻ buồn vui và những khó khăn với con cái. Đôi khi có những đứa con ngỗ nghịch, chúng ta cần kiên nhẫn dạy bảo với tình thương bao dung. Cha mẹ phải luôn là mục tử gương mẫu dám hy sinh cho đàn con.

Nơi nhà trường, chúng ta cần các thầy cô. Các thầy cô cần học biết hoàn cảnh và nhu cầu của từng học sinh. Các em không phải là một đám học trò nhưng là từng cá vị có những khả năng riêng biệt cần phát triển. Kiến thức, văn hoá và đạo đức là tinh hoa cần được trau dồi và truyền đạt cho các thế hệ tiếp nối.

Trong nhà thương, cần có các bác sĩ và y tá như là từ mẫu. Các bác sĩ chăm sóc và chữa lành bệnh nhân và đối xử với họ đầy phẩm chất của một con người. Đem tình yêu thương để phục vụ đồng loại với lương tâm ngay chính. Chữa lành và cứu sống chứ không huỷ hoại và tiêu diệt.

Nơi công cộng và xã hội, chúng ta cần các nhân viên công chức lo cho sự an ninh trật tự, an vui và hạnh phúc chung của mọi người hơn là chỉ vì lợi ích riêng tư. Các nhân viên chính quyền lo cho dân như phụ mẫu.

Trong Giáo Hội, nơi nhà thờ và các trung tâm mục vụ, cần các tu sĩ nam nữ, các giám mục và linh mục phục vụ mọi người trong yêu thương. Hướng dẫn con đường tâm linh chính thật. Không gây hoang mang mập mờ làm lung lạc đức tin. Biết nêu gương sáng và chăm sóc lo lắng đời sống tâm linh cho các tín hữu. Đời sống phải đi đôi với lời giảng dạy. Giáo dân cần thấy bài giảng hơn là nghe bài giảng. Sống niềm tin một cách chân thành và trong sáng. Dám hy sinh xả thân vì anh chị em.

Trong gia đình nhân loại, mỗi thành viên đều nhận những vai trò khác nhau từ đời sống trong gia đình ra ngoài xã hội. Chúng ta không phân biệt giai cấp, chức vụ hay nguồn gốc, mỗi người đều có trách nhiệm và bổn phận lo xây dựng một cuộc sống xã hội tốt đẹp chung. Vì thế, chúng ta không thể đổ trách nhiệm cho riêng một thành phần nào. Ai cũng được kêu gọi đóng góp công sức và khả năng của mình để làm cho cuộc sống con người tươi đẹp hơn.

Chúng ta thường có khuynh hướng gán trách nhiệm, những lời trách móc và đổ lỗi cho người khác hơn là quy chiếu trách nhiệm cho chúng ta. Dễ dàng so sánh và phê bình người khác hơn là xét lại những ngôn hành của chính mình. Chúng ta nên nhớ rằng từ sự suy tư, lời nói đi tới hành động có một khoảng cách rất lớn. Mỗi người cần có một sự dấn thân tu tâm và quyết chí thực thi lời dạy hằng ngày. Nếu lời nói không đi đôi với việc làm thì ngôn hành trở thành bất nhất. Chỉ nói mà không làm. Ai trong chúng ta cũng có những kinh nghiệm tiêu cực này.

Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành. Chúng ta gẫm suy về những lời truyền dạy và thực hành của Chúa. Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt vời giúp chúng ta tu tập sống đạo. Chúa đã giảng và sống lời giảng qua sự cầu nguyện, yêu thương, hy sinh, tha thứ, khiêm nhường, từ bỏ và công bằng chân thật. Chúng ta cần tu tâm tích đức, tu tâm luyện tính và tu tâm hành đạo. Chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu là Chúa, là Mục Tử và là Đấng Cứu Độ. Bước theo Chúa Chiên, chúng ta sẽ tìm được nguồn sống thật và no thoả trong nguồn suối ân tình.

Chúa Giêsu là Chủ Chiên và là cửa chuồng chiên. Đức Giêsu nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7). Trong cuộc sống, có rất nhiều cánh cửa mở rộng đón mời chúng ta vào. Có những cánh cửa dẫn chúng ta vào con đường lầm lạc và hư mất. Có những cánh cửa đưa dẫn chúng ta xa lạc trong thế giới tục hoá với nền văn minh sự chết. Có những cánh cửa mở ra cho chúng ta tìm những thoả mãn hưởng lạc và vui thú truỵ lạc. Có những cánh cửa đưa chúng ta vào chung hưởng nguồn vui an lạc thật sự. Chúa Giêsu nói: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9). Chúa Giêsu là cửa. Cửa của sự sống và sự sống lại. Đến với Chúa Giêsu và qua Ngài, chúng ta sẽ tìm được nguồn sống chan hoà trong niềm an vui, hy vọng và hoan lạc muôn đời.


 

16. Thái độ đối với công việc

Tin Mừng Chúa Nhật 4 Phục Sinh cho chúng ta hai cái nhìn của hai con người về cùng một công việc. Đó là chủ chăn là người chăn thuê.

Chúa Giêsu đưa ra hai tiêu chuẩn để phân biệt đâu là chủ chăn thật sự và người chăn thuê. Chủ chăn thật sự thì sẵn sàng hiến mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên. Còn người chăn thuê thì không. Anh ta chỉ làm công. Và tiền lương là động lực duy nhất để lôi kéo anh ở lại với đàn chiên. Khi gặp nguy hiiểm, anh ta lập tức quay đi mặc tình cho đàn chiên phải đối diện với nguy hiểm.Cùng một công việc là chăn chiên. Nhưng hai người có hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau.

Vậy động lực nào đã làm cho người chủ chăn thật có thể quên mình vì đoàn chiên? Tôi thiết nghĩ, có lẽ vì anh ta yêu mến công việc của mình, và xem nó như là một hoài bảo, một phần của cuộc sống, một ơn gọi trong cuộc đời mà anh hằng tìm kiếm. Chăm sóc đoàn chiên đối với anh không phải là cái nghề, cũng không vì lương bổng nhưng tất cả chỉ vì lý tưởng.

Còn người chăn thuê thì không như vậy. Trong thâm tâm anh chỉ là người làm thuê. Nên hay xo đo, tính toán, ngại khó khại khổ... Nên công việc đối với anh luôn là gánh nặng.

Chúng ta thấy, cùng một công việc là chăn chiên nhưng hai người có hai cách nhìn hoàn toàn trái ngược nhau. Không phải công việc nặng nhọc nhưng nặng hay nhẹ là do tự mình cảm nhận. Người ta kể rằng: có anh chàng kia vác thập giá về thiên đàng. Cùng đi với anh là cả một đoàn người. Không ai bảo ai. Với cây thập tự trên vai. Mọi người cứ âm thầm tiến bước.

Nhưng anh chàng này thấy những người kia vác thập giá như mình sao họ lại đi cách nhanh nhẹn và vui vẻ. Nên anh cằn nhằn Chúa vì nghĩ rằng: Thiên Chúa thật bất công khi trao cho anh một thánh giá nặng hơn thánh giá của những người khác. Cứ thế, đi một quảng, anh dừng lại và tỏ thái độ không bằng lòng với Thiên Chúa. Cuối cùng Chúa hiện ra với anh và bảo: Không phải thánh giá của con nặng hơn của nhưng người kia đâu. Thánh giá của mọi người đều như nhau cả. Con hãy cố gắng lên.

Nhưng anh ta vẫn không chịu, nhất quyết cho là thánh giá của mình nặng hơn. Cuối cùng Chúa chìu anh ta nên Ngài nói: nếu con cảm thấy nặng thì con hãy cưa bớt đi. Vẻ mặt anh ta trở nên vui tươi hớn hở và anh nói: nếu Chúa cho phép con sẽ làm ngay. Ngay lập tức anh ta cưa bớt thánh giá của mình một khúc. Rồi anh vui vẻ lên đường.

Khi đến trước cổng thiên đàng mọi người đều dừng lại vì phía trước họ là một con sông. Muốn qua sông để vào thiên đàng thì mọi người phải lấy thánh giá của mình làm cầu để đi qua. tất cả đã qua sông và vào được thiên đàng. Sau cùng anh chàng này cũng đến. Anh dùng thánh giá định bắc qua sông để vào thiên đàng. Nhưng hỡi ôi! Vì bị cưa đi một khúc nên thánh giá của anh không thể nào chạm được bờ bên kia của thiên đàng nên anh đành đau khổ khi thấy những người khác vui vẻ ở bên kia.

Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta giống như anh thanh niên trong câu chuyện trên. Chúng ta hay phiền trách Chúa tại sao để cho tôi đau khổ như thế này? Hay tại sao Chúa gởi thánh giá cho con nặng như vậy?

Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho chúng ta hiểu vấn đề này một cách thấu đáo. Vấn đề quan trọng không phải là thánh giá nặng hay nhẹ nhưng là ở thái độ của chúng ta đối với thánh giá. Nếu chúng ta đón nhận công việc với thái độ tự nguyện, vui tươi thì cho dù có nặng nề nhưng nhưng ta cũng cảm thấy nhẹ.

Vì hiểu rằng công việc làm tăng phẩm giá con người, làm cho con người trưởng thành hơn. Chính nhờ lao động mà con người phát huy hết tiềm năng mà Thiên Chúa đã ban.

Lạy Chúa! Xin cho chúng con hiểu rằng thánh giá là cái giá phải trả cho sự nên thánh. Xin cho con đón nhận tất cả nhưng gì Chúa gởi đế với tinh thần tự nguyện, chấp nhận tất cả với thái độ vui tươi, nhờ đó mà mỗi ngày chúng con được lớn lên.


 

17. Chủ chăn hoàn hảo – AM Trần Bình An

Người ta đã nghe các lời Đavít nói và thuật lại cho vua Sa un. Vua cho gọi Đavít đến. Đavít nói với vua Sa un: “Đừng ai ngã lòng vì nó. Tôi tớ ngài đây sẽ đi chiến đấu với tên Philitinh ấy.” Vua Sa un nói với Đavít: “Con không thể đến với tên Philitinh ấy để chiến đấu với nó, vì con chỉ là một đứa trẻ, còn nó là một chiến binh từ khi còn trẻ.”

Đavít thưa với vua Saun: “Tôi tớ ngài là người chăn chiên dê cho cha. Khi sư tử hay gấu đến tha đi một con chiên trong bầy gia súc, thì con ra đuổi theo nó và giật con chiên khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì con nắm lấy râu nó, đánh cho nó chết. Tôi tớ ngài đã đánh cả sư tử lẫn gấu, thì tên Philitinh không cắt bì này cũng sẽ như một trong các con vật đó, vì nó đã thách thức các hàng ngũ của Thiên Chúa hằng sống.” Đavít nói: “Đức Chúa là Đấng đã giật con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay Philitinh này.” Vua Sa un nói với Đavít: ”Con hãy đi, xin Đức Chúa ở với con!” Vua Sa un lấy y phục của mình mặc cho Đavít, đội mũ chiến bằng đồng lên đầu và mặc áo giáp cho cậu. Đavít đeo gươm của vua ngoài y phục, rồi thử bước đi, vì cậu không quen. Đavít nói với vua Sa un: “Con không thể bước đi với những thứ này được, vì con không quen.” Rồi Đavít bỏ những thứ đó ra. Cậu cầm gậy trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới suối, bỏ vào túi chăn chiên, vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến về phía tên Philitinh. (1 Sm 17, 31- 40)

Trích đoạn trong sách Samuen thứ nhất phác họa phần nào chân dung mục tử nhân lành. Đavít thuở thiếu thời đã dũng cảm chiến đấu với sư tử và gấu, để bảo vệ đoàn chiên chăn dắt. Nay sẵn sàng thân chinh giết Philitinh, Đavít dám hy sinh mạng sống cứu đoàn chiên của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay, Đức Giêsu tuyên xưng là Mục Tử nhân lành với tất cả tình cảm, trách nhiệm và chịu chết để cứu đoàn chiên. “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 14)

Đức Giêsu hiểu biết rành mạch từng con chiên trong đoàn chiên đông đảo vô số. Không những biết mặt mũi, vóc dáng, tên tuổi từng con, mà còn thấu hiểu cả tâm tính, đức hạnh để kỹ lưỡng chăm sóc, băng bó, dìu dắt, cứu giúp và hy sinh để chiên sống khỏe mạnh: “Ta đến để chúng được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 10)

Chủ Chiên phục vụ

Dĩ thực vi tiên, được ăn no đã là sung sướng như được ở cõi tiên rồi. Thế gian vẫn quan tâm nhiều đến cái ăn cái mặc, dĩ nhiên đó là nhu cầu chính đáng, nhưng sự lo lắng thái quá sẽ dễ quên đi điều còn vô cùng quan trọng và cấp bách hơn, như Đức Giêsu đã khẳng định với ma quỷ cám dỗ: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4, 4)

Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không nỡ để những ai theo Người chịu mãi cảnh đói khát, một khi đã bỏ mọi sự mà theo Người. Hai lần Người hóa bánh và cá ra nhiều cho hằng ngàn người được ăn no nê. Một lần sau khi Phục Sinh, Người cũng hóa bánh và cá phục vụ các môn đệ được sau đêm chài lưới đói khát, mệt nhọc, vất vả.

Đức Giêsu đã chăm lo đoàn chiên toàn tâm toàn ý với trách nhiệm rất cao, như sách Êdêkien đã ghi sấm ngôn của Đức Chúa: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ.” (Ed 34, 14)

Người ân cần chăm sóc mọi bề, sao cho đoàn chiên luôn ấm no, hạnh phúc: “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.” (Tv 23,1)

Từ lương thực và nước uống vật chất, hữu hình, Đức Giêsu, Mục Tử Nhân Lành dẫn dắt tín hữu, con chiên đến nước trường sinh: “Ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4, 14) và lương thực đến sự sống đời đời là vâng phục theo Thánh Ý Thiên Chúa: “Lương thực của Thầy là thực hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 14, 34)

Chủ Chiên yêu thương

Mục Tử Nhân Lành chan chứa tình yêu, tận tụy với đoàn chiên: “Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.” (Is 40, 11)

Với tình yêu nồng nhiệt, Chủ Chiên đích thực không chỉ chăm lo, nuôi nấng, mà còn tận tình chăm sóc, quan tâm đến con đi lạc bầy, đau yếu, bệnh hoạn, để đi tìm về, cứu chữa, dưỡng nuôi, bảo vệ, gìn giữ: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng.” (Ed 34, 16)

Đoàn chiên luôn được Chủ Chăn bảo vệ bình an, yên lành, trước những cơn bão táp cuộc đời hung hăng, dữ tợn, hiểm nguy, ào ạt đe dọa tràn đến: “Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.” (Tv 23,4)

Mục Tử chân chính không chạy theo số đông, mà quên đi một con chiên đi lạc. Một con chiên lạc đối với Người cũng giá trị không kém chín mươi chín con ở lại: “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc.” (Mt 18, 12-13)

Với trái tim nhân ái, vị Mục Tử Nhân Lành không muốn bất cứ ai bị hư mất. Nên Người quan tâm chiên đi lạc, chăm sóc chiên ốm yếu, bệnh tật, hoạn nạn, thương tích: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5, 32). Mặc dù, Chủ Chiên nhìn thấu suốt đáy lòng những con chiên giả hình, kiêu ngạo, tham lam, cố chấp, ỷ lại, bất nghĩa, bất tín, bất trung, nhưng Người thương xót, không phạt vạ ngay, mà chỉ ân cần kêu gọi sám hối, ăn năn, cải tà quy chánh, với lòng thương xót để hồi phục và chữa lành.

Chủ Chiên hy sinh

Sấm ngôn của Thiên Chúa qua ngôn sứ Dacaria đã khẳng định: “Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên.” (Dcr 9, 16) Nay Mục Tử nhân lành đã chu toàn thực hiện lời Thiên Chúa hứa ngàn xưa: "Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn.” (Ga 10, 11)

Thế nhưng muốn sống đời đời, con chiên phải dứt khoát quyết định đi qua cửa Chủ Chiên Nhân Lành: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.” (Ga 10, 7) Dĩ nhiên, con chiên phải bỏ lại sau lưng những thứ hư ảo, phù phiếm kềnh càng, cả chính bản thân hẹp hòi, ích kỷ, nặng nề, mà cố gắng vác thập giá, trách nhiệm, bổn phận với gia đình , cộng đoàn, tha nhân, mới được cứu rỗi vĩnh cửu.

Hơn nữa Người còn tự nguyện trở nên lương thực cho đoàn chiên được no đủ, mạnh khoẻ, giầu sinh lực, can đảm thẳng tiến trên đường hy vọng: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ." (Ga 6, 24-35)

Tuyệt đỉnh chính là cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Mục Tử Nhân Lành đã giải thoát đoàn chiên khỏi sự chết, mà dẫn vào cõi sống viên mãn muôn đời. Người chính là Chủ Chăn hoàn hảo độc nhất vô song, Người đích thực là Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên.

“Chúa không sinh con để làm đàn cừu, đàn vịt, nhưng để lãnh đạo môi trường của con. Lãnh đạo là thúc đẩy, là lôi cuốn.” (Đường Hy Vọng, số 214)

Lạy Chúa Chiên Lành, Mục Tử chí nhân chí ái, xin luôn mãi kiếm tìm chúng con trở về đoàn tụ với đoàn chiên, mỗi khi chúng con đi lạc, ham vui đi hoang. Xin dạy bảo chúng con noi gương Người, cũng trở nên chủ chiên tốt lành từ gia đình, cộng đoàn, đến xã hội, hầu dẫn dắt mọi người về với Chúa.

Lạy Mẹ Maria nhân từ, Hiền Mẫu của chúng con, xin giúp chúng con biết yêu thương, phục vụ và hy sinh, hầu dẫn dắt mọi người về đường ngay nẻo chính, hiệp nhất trong Đoàn Chiên duy nhất của Chúa Giêsu. Amen.


 

18. Chúa Nhật 4 Phục Sinh

Chăn chiên là một nghề rất thịnh hành ở Palestina từ thời Cựu Ước cho tới thời Tân Ước. Người ta nuôi chiên vì nó mang lại nhiều nguồn lợi như sữa, thịt, lông... nên người Mục tử là hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Israel.

Trong chăn nuôi vai trò và nhiệm vụ của mục tử rất quan trọng và khó khăn: vì không phải chỉ nuôi vài ba con chiên mà cả đàn lên tới mấy trăm hoặc mấy ngàn con chiên, muốn nuôi tốt một đàn chiên đông đúc như thế không phải chỉ cần đi cắt một mớ cỏ đem về là đủ, mà phải đi tìm những đồng cỏ lớn, và phải tiên liệu khi đàn chiên ăn hết đồng cỏ này thì phải dẫn đến đồng cỏ khác ngay; phải chọn những chỗ vừa có cỏ xanh vừa có bóng mát vừa có nước uống, ngoài ra còn phải bảo vệ chiên khỏi những nguy hiểm thường xuyên đe doạ như trộm cướp và thú dữ.

Có khi phải chiến đấu đến bị thương hoặc chết để bảo vệ đàn chiên, phải vất vả đi tìm những con chiên lạc. Người mục tử gắng bó mật thiết với đàn chiên nên phát sinh những tình cảm giữa chủ chăn và đàn chiên: người chăn chiên biết rõ từng con chiên với những đặc tính của nó, các con chiên cũng biết ai là chủ chăn của mình. Các chủ chăn thường đặt tên cho những con chiên làm "trưởng", ông chỉ cần gọi tên những con này, khi chúng đi theo chủ thì các con chiên khác cũng đi theo.

Ban đêm các mục tử thường nhốt chiên lại chung với nhau trên một khoảng đất trống có rào xung quanh, đến sáng các mục tử vào gọi tên các con chiên "tổ trưởng", chúng đi ra các chiên khác cùng đàn sẽ đi theo. Khi đếm đủ số, mục tử đi đầu dẫn đoàn chiên của mình ra đồng cỏ. Những con chiên không bao giờ nghe tiếng người lạ, nhưng sẽ bỏ chạy tán loạn.

Kinh Thánh thường dùng hình ảnh Mục tử hay chủ chăn để áp dụng cho những nhân vật lãnh đạo quan trọng trong Israel như Môisen, các Vua, các thẩm phán, các ngôn sứ. Đặc biệt nhất chính Thiên Chúa tự mô tả mình là mục tử (Tv 23, 80) và sau cùng Đấng Messia cũng được mô tả là Mục tử.

Quả thật, Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, mục tử tốt, mục tử chăm sóc từng con chiên một, nhất là những con chiên yếu kém. Chúa Giêsu nhiều lần đã rơi lệ xót thương dân Do thái, vì họ như đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt. Chúa giảng dạy, chỉ cho họ đường đi để có được hạnh phúc thật sự. Chúa cho họ ăn uống no nê trong những lần hoá bánh ra nhiều và dân chúng đã muốn tôn Ngài lên làm vua.

Chúa yêu thương những con chiên tật nguyền và chữa cho họ được lành bệnh chỉ nhờ vào lòng tin của họ. Đó là người mù từ thuở mới sinh, những người bị bại liệt, bị phong hủi, người đàn bà bị băng huyết, tất cả đều được Chúa Giêsu là mục tử chăm sóc chữa lành.

Những con chiên bị chết được Chúa cứu sống cho lành mạnh: đứa con gái ông Gairô, đứa con trai bà góa thành Naim, anh chàng Lagiarô bạn của Chúa, Chúa cứu chữa và thương xót những con chiên bị bệnh tật tinh thần như người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tan, Chúa đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.

Không những là chăm lo, cứu chữa mà Chúa còn hiến mạng sống vì đàn chiên của mình "không có tình yêu nào cao quý hơn là chết cho người mình yêu."

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn là mục tử tốt đối với chúng ta. Chúa không ngừng ban ơn chăm sóc chúng ta qua các Bí tích. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa không ngừng bằng đời sống thờ phượng Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em chung quanh như Lời Chúa dạy.


 

home Mục lục Lưu trữ