Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 43
Tổng truy cập: 1379421
ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA
Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô
Luca muốn loan báo tác vụ của Gioan Tẩy Giả, người dấn thân khai mở cho tác vụ của Đức Giêsu. Đây là sự can thiệp rõ ràng của Thiên Chúa trong lịch sử. Hành động của Thiên Chúa không “ở bên ngoài” thế gian, trên mây gió, nhưng hành động này diễn ra, một cách ẩn kín bên trong những biến cố thế tục. Một “lịch sử Thánh” phát triển giữa những biến cố thế giới. Như Luca chúng ta có tin rằng, Thiên Chúa “nói” và “hành động” trong những biến cố của chúng ta, trong hiện tình kinh tế chính trị, xã hội và văn hóa ngày nay không?
Luca kỹ lưỡng nói với chúng ta rằng, Đức Giêsu đã sinh ra dưới thời Hoàng đế Xê-da Au-gút-tô (Lc 2,1). Bây giờ ông lại nói với chúng ta, Chúa bắt đầu tác vụ, như một người trưởng thành, vào năm 15 Triều Đại Tibêriô, nghĩa là khoảng năm 28 hay 29.
Đức Giêsu, một người Do Thái thấp cổ bé miệng, vô danh tiểu tốt đang đối diện với Hoàng đế đầy uy quyền của Rôma! Đối diện với kẻ đang bá chủ thế giới! Đế quốc của Tibêriô bắt đầu từ bờ Bắc Hải đến cùng tận Địa Trung Hải, hiện nay được 15 quốc gia vây quanh nhưng lúc bấy giờ như một biển hồ của Rôma. Tất cả những gì Luca bàn đến đâu minh chứng cho chúng ta thấy, “Tin Mừng”, phát xuất từ Giêrusalem, sẽ đến tận Rôma: Ở đó, sẽ kết thúc “Công vụ Tông Đồ” (29,16-31). Trong lúc này, ta mới chỉ gợi lên tầm lớn rộng của chương trình Thiên Chúa: Đức Giêsu… Hoàng đế Tibêriô.
Thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giu-đê
Cùng với Đức Maria, ông Phongxiô Philatô, là người duy nhất có chỗ đứng trong kinh Tin Kính của chúng ta: “Đức Giêsu, sinh bởi đức Nữ Đồng Trinh Maria đã chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô… Phongxiô Philatô, tổng trấn Rôma tại Giêrusalem giữa năm 26 và 36, là con người “cứng rắn và không xót thương”, theo người lân cận của ông là Hêrôđê Ác-ríp-pa I đã nói. Ông bị Rôma cất chức vì đã sát hại hàng ngàn người Samari tụ họp trên núi Garizim. Các sử gia thời đó (Plavius Josèphe và Philon) mô tả ông như người cai trị xứ sở của mình bằng tham nhũng, khủng bố, cướp bóc do chính cảnh sát của mình tra tấn và hành quyết.
Ngày nay, chúng ta thường than phiền về những khó khăn của thời đại chúng ta: Thế mà Đức Giêsu đã sống trong một miền đất bị kẻ thù chiếm đóng và đàn áp không chút nương tay thế đó!
Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên
Đó chỉ là những ông vua chư hầu bù nhìn, và là những người “hợp tác”. Uy quyền thực sự vẫn thuộc Rôma. Luca nhất mạnh đến lãnh thổ mà Tin Mừng sẽ được phổ biến: ông để ý nêu rõ hai miền có đông dân cư là “con cái Israel” (Giuđê và Galilê), và hai miền có dân “ngoại giáo” (Iturê – Trakhonít và Abilên). Đối với Luca, đệ tử của Phaolô thì đây là một chỉ dẫn “thần học”: Sứ điệp của Đức Giêsu không chỉ dành riêng cho một số người nào đó! Tôi có tự giam mình trong một khu riêng biệt Kitô giáo nhỏ bé không? Và như vậy tôi đâu còn ở trong luồng khí Tin Mừng nữa.
Khanan và Caipha làm thượng tế
Sau những lãnh tụ chính trị, đây là những lãnh tụ tôn giáo, chịu trách nhiệm về Do Thái giáo thời bấy giờ, mà vài năm sau Đức Giêsu sẽ gặp lại.
Đó là bối cảnh lịch sử và tôn giáo. Những dữ kiện hoàn toàn chính xác, đã được các sử gia thời cổ xác nhận. Người ta đã tìm được tại Xêdarê chỗ ngồi của Philatô trong một nhà hát: Một hàng chữ được khắc ghi vào băng đá dành cho Tổng trấn ngồi, giữa hí trường hình tròn.
Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan
Không phải những chức sắc nêu trên sẽ làm nên lịch sử thực sự: mà là một “phát ngôn viên”, một “ngôn sứ”, Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ cuối cùng, nhân chứng đầu tiên của Đức Giêsu Kitô. Chính từ “bên trong” những thực tại của con người mà sự thay đổi được thực hiện, nhưng tất cả những động lực của sự thay đổi đó không thể đến từ sự tôn thờ những ý thức hệ và những người đang nắm quyền lực, cũng không từ cơ cấu chính trị. “Chúa lật đổ những người quyền thế xuống khỏi ngai vàng” (Lc 1,52). Một “lời”, từ nơi khác đến từ Thiên Chúa, sẽ tạo nên sự mới lạ thực sự làm thay đổi dòng lịch sử – Tôi có để cho Lời Chúa nắm bắt tôi, như Gioan Tẩy giả không?
Trong hoang địa
Đôi khi ta có cảm tưởng về hoang địa như cái gì trống rỗng. Sự cô tịch khó chịu này không phải là điều ngược đời sao? Xa thế gian quay cuồng, xa những tiếng ồn ào náo động, để có thể nghe thấy một Lời mầu nhiệm? “Hãy nghe đây! nghe đây! ngươi chớ có gây tiếng động? gần ngươi, có người đang đi trên đường, có người đang đến gặp ngươi!”. Vậy thì, riêng tôi, tôi đã dành cho sự cô tịch, tình trạng hoang vắng thế nào trong cuộc sống náo nhiệt của tôi?
Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan
Lời Chúa, phải vận hành. Đó là một chuyển động. Gioan là một nhà giảng thuyết di động, cũng như Đức Giêsu sắp thể hiện như vậy. Còn chúng ta thì sao?
Gioan đã rời hoang địa hạnh phúc của ông, nơi ông dùng để chuẩn bị, để lắng nghe Lời Chúa, để đi gặp các đám đông, để làm việc này, ông chọn một nơi mà có đủ mọi thứ người qua lại: Chỗ cạn của một dòng sông, nơi mà mọi người phải ngang qua; lối nhỏ giao lưu cho cả đoàn người; bến Bêthama, trên tả ngạn sông Giođan, phía đông thành Giêrikhô (Ga 1,28), nơi mà người Anh đã xây cầu Allenby chỗ duy nhất có thể vượt sông được. Sau khi sống cô tịch, tôi có tìm cách để tiếp gặp kẻ khác không?
Rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối
Dựa vào nguyên ngữ Hy Lạp có thể dịch câu trên – như sau: “Ông kêu gọi người ta dìm mình xuống nước để quay trở lại”.
Người phát ngôn của Chúa không phải là một con người nhỏ bé trầm tĩnh, nhưng đó là một cái “loa phóng thanh” với âm lượng được vặn tối đa. Chữ Hy Lạp “Kérygme” có nghĩa là “tiếng la”, lời “tuyên bố”. Cuộc sống của tôi có kêu lên điều gì không?
Không thể có ảo tưởng được. Người ta không thể gặp Chúa “như thế”, nghĩa là không biết Ngài, hay không muốn Ngài. Về phía Chúa, phải “lao mình” vào Ngài! Chữ “batisma” phép rửa, gọi lên hình ảnh những kiểu tắm rửa theo nghi thức, mà những thành viên cộng đoàn lân cận Qumran thường thi hành mỗi ngày để thanh tẩy thân thể mọi nhơ bẩn và thôi thúc tâm hồn họ cũng phải thanh tẩy thiêng liêng: Người ta dìm toàn thân mình trong hồ bơi hay dòng sông. Hoán cải không phải chỉ lâ một tư tưởng thầm kín, không thuộc phạm vi trí não, nhưng đó là một bước đi có ý nghĩa, được thể hiện ra bên ngoài đối với mọi người qua một hành vi công khai theo nghi lễ: “Tôi muốn thay đổi cuộc sống… và trước mặt các bạn, tôi thực hiện cử chỉ tượng trưng, biểu hiện sự trở lại của tôi. Tôi dìm xuống nước cuộc sống trước của tôi, cho nó chết chìm để một sự sống mới phát sinh”.
Phép rửa là một tự nguyện dìm chết “con người cũ” để cho “con người mới” tái sinh (Rm 6,6-7,6 – Ep 4,22 – Cl 3,9). Đó là hình ảnh thực sự của Bí tích sám hối là phép rửa thứ hai… mà có thể chúng ta muốn lãnh nhận để cử hành lễ Giáng sinh.
Và hoán cải mà chúng ta đang nói ở đây (metnoia: Sự trở lại) là một sự quay trở lại với Thiên Chúa. Nếu hoán cải chỉ là một sự thay đổi luân lý hay xã hội, thì cuộc sống Kitô hữu có lẽ chỉ là một thứ nhân bản như những học thuyết khác, có khi lại không hoàn hảo bằng chứng học thuyết đó. Nhưng đúng ra là ta “quay trở lại với Chúa” cùng với những hậu quả luân lý và xã hội: chống lại tính ích kỷ, bất công, khuynh hướng duy vật thực dụng, sự nô lệ lạc thú và tiền bạc, nếp sống thiếu trong sạch, tính lười biếng, thái độ chế ngự kẻ khác, v.v…
Phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
Sự tha thứ? Hành vi của Thiên Chúa luôn luôn tặng ban cho tất cả mọi người, nhưng chỉ hữu hiệu nếu chúng ta đón nhận sự tha thứ đó cách tự do. Luật trời phong bao giờ ngừng chiếu sáng, nhưng chúng ta có thể đóng cửa nhà chúng ta. Hành vi của Thiên Chúa được thể hiện do “thừa tác viên” thi hành bí tích, nói “nhân danh chính Chúa Kitô” (in persona Christi). Hành vi tự do của con người được thể hiện qua thái độ hối nhân, đặc biệt qua sự thú nhận cá nhân hay tập thể.
Mỗi cử hành Thánh Thể cũng giúp chúng ta thông hiệp với Đức Giêsu trong chính hành vi Người “Tự hiến để tha thứ tội lỗi”, trong hành vi cứu chuộc nhờ thái độ triệt để sẵn sàng và hoàn toàn vâng phục Chúa Cha: Đó là hành vi Ngài hoàn toàn và triệt để “hướng về” Thiên Chúa.
Như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.
Máy ủi to lớn làm sao! Công trường sửa đường vĩ đại làm sao! Công trình thật là quá sức tưởng tượng! Và chúng ta thì chỉ có “xưng tội riêng”, không đau đớn gì?
Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đây là mục tiêu phổ quát, rất đặc trưng của Luca, người đồng hành với thánh Phaolô. Công trình của Thiên Chúa không phải là lên án, mà là “Cứu chuộc”. Lịch sử Thánh, lịch sử con người mà trong đó Chúa hành động, không thể kết thúc không lối thoát. Cho dù chúng ta “hôm nay đang gieo trong nước mắt, nhưng sẽ gặt trong ca mừng”.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
ƠN CỨU ĐỘ PHỔ QUÁT (*)- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng chuẩn bị cho người tín hữu tâm tình chờ đón Chúa đến. Giáo Hội mời gọi người Ki-tô hữu tìm lại ý nghĩa của việc Chúa đến qua những bản văn Kinh Thánh.
Br 5: 1-9
Bài Đọc I, trích từ một bản văn rất muộn thời, mô phỏng lại những đề tài về cảnh giam cầm tại Ba-by-lon và cuộc hồi hương trở về. Thiên Chúa sẽ đích thân đến cứu dân Người và dọn sẵn một con đường để dẫn họ trở về thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Pl 1: 4-11
Bài Đọc II được trích từ thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh Phao-lô kêu mời người Ki-tô hữu hãy thăng tiến trên con đường thánh thiện và mở rộng lòng mình trước ân sủng để sống trong tâm thế sẵn sàng chờ đón ngày Đức Ki-tô trở lại.
Lc 3: 1-6
Tin Mừng tường thuật bước khởi đầu sứ vụ của thánh Gioan Tẩy Giả. Vị Tiền Hô khuyên bảo mọi người hãy sống trong tâm thế sẵn sàng đón chào Đức Ki-tô sắp ngự đến.
BÀI ĐỌC I (Br 5: 1-9)
Ông Ba-rúc là “bạn tâm giao” và là “thư ký” của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, nhưng không là tác giả của sách mang tên ông. Sách Ba-rúc này được viết rất muộn thời, chắc chắn từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Sách này thật sự là một tuyển tập: những phần khác nhau của sách không do cùng một tác giả và cũng không thuộc cùng niên biểu.
Bối cảnh:
Dù thế nào, sách Ba-rúc đưa chúng ta trở về thời kỳ trào lưu ngôn sứ vắng bóng từ lâu, người ta lấy lại những bản văn cũ, suy niệm chúng và thích ứng chúng (như chúng ta đã đọc bản văn của Giê-rê-mi-a được sửa đổi ở Chúa Nhật I Mùa Vọng). Người ta cố gắng hiện tại hóa sứ điệp khi đặt nó dưới sự bảo trợ của một nhân vật quá khứ nổi tiếng. Tác giả của sách Ba-rúc cũng theo một cách thức như vậy (thể loại văn chương này được gọi là “trào lưu ngôn sứ ẩn danh”).
Tác giả chọn cảnh giam cầm tại Ba-by-lon làm khung cảnh lịch sử, bằng cách tưởng tượng ông Ba-rúc ở giữa những người lưu đày, để báo trước cho họ biết họ sắp được trở về quê cha đất tổ và kêu mời Giê-ru-sa-lem hân hoan vui mừng. Thật ra, ông Ba-rúc cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã không bị phát lưu sang Ba-by-lon. Những đề tài, hình ảnh, ngôn từ được mượn ở I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ an ủi những người lưu đày, cũng như ở I-sai-a đệ tam (Is 56-66), vị ngôn sứ của thời kỳ những người lưu đày được hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem.
Sấm ngôn:
Rất dễ nhận ra đoạn văn Ba-rúc này mô phỏng vài bản văn của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) và I-sai-a đệ tam (Is 56-66), ở đó chúng ta gặp thấy cũng một lời mời gọi thành thánh Giê-ru-sa-lem hãy vui lên như thế: “Hỡi Xi-on, thức dậy, thức dậy đi, hãy biểu dương sức mạnh! Hỡi thành thansah Giê-ru-sa-lem, hãy mặc lễ phục huy hoàng! Vì từ nay kể không cắt bì cũng như người ô uế sẽ không còn bước vào thánh điện nữa. Hỡi Giê-ru-sa-lem bị tù đày, hãy giũ bụi, đứng lên! Nào thiếu nữ Xi-on bị tù đày, hãy mở tung xích xiềng buộc cổ!” (Is 52: 1-2).“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông” (Is 60: 1-4).
Và cũng ở đó chúng ta cũng gặp thấy chính thành thánh Giê-ru-sa-lem hân hoan vui mừng như vậy: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi đức chính trực công minh, như chú rễ chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang” (Is 61: 10).
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã sánh ví rồi cuộc hồi hương của những người lưu đày với cuộc Xuất Hành mới ở đó Thiên Chúa còn thực hiện những điều kỳ diệu cho dân Ngài: “Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu” (Is 40: 4), “trong vùng hoang địa, Ta sẽ trồng bá hương, keo, sim với ô-liu; trên những dải đất hoang, Ta sẽ cho mọc lên một trật nào trắc bá, nào du, nào hoàng dương” (Is 41: 19).
Những danh hiệu biểu tượng:
Những danh hiệu mà tác giả sách Ba-rúc gán cho Giê-ru-sa-lem như “Bình-an-xây-dựng-trên-công-chính” hay “Vinh-quang-phát-xuất-từ-lòng-kính-sợ-Thiên-Chúa”, được định vị vào hàng những danh hiệu thuộc trào lưu ngôn sứ: ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã trao cho Giê-ru-sa-lem danh hiệu “Đức-Chúa-là-sự-công-chính-của-chúng-ta” (Gr 33: 16); ngôn sứ I-sai-a đệ tam gọi thành thánh là “Xi-on-của-Đức-Thánh-Ít-ra-en” (Is 60: 14) hay “Thành-không-bị-bỏ-rơi” (Is 62: 12), vân vân.
Bù lại, việc Thiên Chúa được gọi là “Đấng Vĩnh Hằng” là một nét mới và đặc thù của sách Ba-rúc. Danh hiệu này được lập đi lập lại đến bảy lần trong toàn bộ bài thơ; đây là một ví dụ độc nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Qua đó tác giả nhấn mạnh: tất cả những gì Thiên Chúa làm đều “vĩnh hằng”: “mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi”, “Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi…”.
Hiện tại hóa sứ điệp:
Vấn đề tất yếu được nêu lên: tại sao có sự mô phỏng này? Tại sao mô phỏng theo cách thức này? Tại sao “loan báo” cuộc hồi hương vốn đã xảy ra bốn trăm năm trước đó? Tại sao thánh thánh Giê-ru-sa-lem lại được tán dương nhiều thế kỷ sau này? Phải đọc ẩn dụ này như thế nào để gặp lại độ nhạy bén của những người đương thời mà tác phẩm được gởi đến?
Thay vì đọc và nghĩ đến “những người Do thái lưu đày”, chúng ta nên đọc và nghĩ đến “những người Do thái tha hương”, điều này giúp chúng ta giải đáp được một phần điều bí ẩn này. Đây là những cộng đoàn Do thái Hải Ngoại gởi gắm những tâm tư nguyện vọng của mình vào nơi sách Ba-rúc. Bị phân tán trong thế giới Hy-La và trong miền Trung Đông, sống xa thành thánh Giê-ru-sa-lem, các cộng đồng này cảm thấy mình như “những kẻ lưu đày”; tuy xa mặt nhưng không cách lòng: mọi tâm tư tình cảm của họ đều hướng về Thành Thánh; họ hiệp nhất với Thành Thánh qua lời cầu nguyện (phần thứ nhất của sách Ba-rúc), qua việc thực hành Lề Luật, tức sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa (phần thứ hai của sách) và qua niềm hy vọng (phần thứ ba, từ đó đoạn trích dẫn của chúng ta).
Giê-ru-sa-lem thời Mê-si-a:
Bản văn được đọc lại trong viễn cảnh này: bài thơ ngợi tán dương thánh thánh Giê-ru-sa-lem thời Mê-si-a. “Ánh vinh quang vĩnh cửu của Thiên Chúa” sẽ được biểu lộ trong Thành Thánh. Thành Giê-ru-sa-lem sẽ là Thành Đô Bình An vì được xây dựng trên sự công chính, tức là sự thánh thiện của Thiên Chúa; Thành Thánh sẽ rạng ngời vinh quang của Thiên Chúa, do “lòng kính sợ Thiên Chúa”. Chính “Lời Đấng Thánh” sẽ quy tụ mọi con cái Thiên Chúa. Kỷ nguyên Mê-si-a này sẽ là Triều Đại chứa chan niềm vui, tràn ngập ánh sáng “của lòng từ bi và sự công chính của Người”.
Người Do thái đã đọc lại bài thánh thi này vào năm 63 trước Công Nguyên, để lấy lại can đảm sau khi tướng Rô-ma là Pom-pê đánh chiếm Giê-ru-sa-lem; họ cũng đã đọc lại bài thánh thi trong nước mắt vào ngày kỷ niệm các đạo binh của tướng Ti-tô phá hủy Đền Thờ thành bình địa vào năm 70; như vậy họ khẳng định niềm hy vọng muôn đời bất biến của họ.
Người Ki-tô hữu đọc bản văn này bởi vì họ hiểu được tầm quan trọng mang tính ngôn sứ của bài thơ này: Thiên Chúa sắp viếng thăm dân Ngài “để dân Ngài tiến bước bình an dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người”.
BÀI ĐỌC II (Ph 1: 4-6, 8-11)
Thánh Phao-lô sáng lập cộng đoàn Ki-tô hữu đầu tiên ở thành Phi-líp-phê thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a, trên vùng đất Châu Âu vào năm 49-50, khi thánh nhân dự tính thực hiện một cuộc mạo hiểm lớn: vượt qua biển Ê-gi-ê để loan báo Tin Mừng cho một lục địa khác.
Bối cảnh:
Thành Phi-líp-phê được đặt tên theo vua Phi-líp-phê II, thân phụ của A-lê-xan-đê đại đế. Sau khi đã sáp nhập miền này vào năm 360 trước Công Nguyên, vị đại đế Hy lạp này đã tái thiết và phát triển thành phố. Vào năm 42 trước Công Nguyên, hai tướng Rô-ma, Mác-cô An-tô-ni-ô và Ốt-ta-vi-a-nô (Âu-gút-tô), đã đánh bại Bru-tô và Ca-xi-ô, và đã thiết lập một khu cho các cựu chiến binh thuộc các binh đoàn chiến thắng. Vào thời thánh Phao-lô, thành phố đã trở thành một đô thị Rô-ma, có những quan tổng trấn Rô-ma cai trị và được cấu trúc theo kiểu thành thị Rô-ma.
Vào năm 56 hay 57, thánh Phao-lô có dịp gởi một bức thư cho các Ki-tô hữu Phi-líp-phê. Đối với thánh nhân đó là một niềm vui, vì ngài rất quý mến giáo đoàn này, vả lại họ đã chứng tỏ tấm lòng trung thành đến cảm động. Thánh nhân đã hai lần chấp nhận sự hỗ trợ vật chất của các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu này, trong khi ngài từ chối bất kỳ sự hỗ trợ nào từ phía các cộng đoàn Ki-tô hữu khác. Thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê bộc lộ lòng quý mến của thánh nhân đối với giáo đoàn này mà không có bất kỳ hậu ý trách cứ cũng như vấn đề đạo lý; bức thư này cũng là bức thư hấp dẫn nhất.
Phụng Vụ chọn đoạn văn hôm nay vì nó gợi lên ngày Đức Giê-su trở lại và cách thức người Ki-tô hữu chuẩn bị chờ đón. Đoạn văn này gồm có hai phần, chứa đựng một suy tư thần học có tầm mức lớn lao theo hình thức tạ ơn và khuyến dụ.
Công trình của Đức Giê-su:
Trước hết, thánh Phao-lô nói lên niềm vui và lòng biết ơn của mình đối với các tín hữu Phi-líp-phê vì họ nhiệt tâm đối với Tin Mừng và góp phần vào sứ mạng tông đồ của ngài; thánh nhân nhận ra đó là công việc tốt lành của Thiên Chúa ở nơi họ. Viễn cảnh này vẫn là một quan điểm thường hằng của thánh nhân: chúng ta không thể tự mình thánh hóa chính mình bằng sức riêng của mình, như vậy thánh Phao-lô khẳng định “quyền ưu tiên của ân sủng”.
Tuy thế, người Ki-tô hữu phải luôn luôn sống trong tâm thế sẵn sàng, đó là điều tất yếu. Thánh nhân cũng gởi đến các tín hữu Phi-líp-phê những khuyên nhũ khẩn thiết bằng những lời lẽ trìu mến.
Sự cộng tác của con người:
Sau khi bày tỏ niềm vui, thánh Phao-lô nói lên tâm tình của mình: thánh nhân nhắc các tín hữu Phi-líp-phê nhớ đến tấm lòng của ngài đối với họ: “Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi, là tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Giê-su Ki tô”. Từ ngữ Hy lạp diễn tả “tình thương của Đức Ki-tô” theo nghĩa rất mạnh; nó gợi lên “tình phụ tử”; Đức Ki-tô đã sinh ra họ trong đức tin qua sứ vụ của vị tông đồ của Ngài; vị tông đồ yêu thương họ bằng tình yêu có nguồn gốc ở nơi tình yêu của Đức Ki tô.
Qua lời khẩn nguyện dâng lên Thiên Chúa, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Phi-líp-phê hãy kiên tâm bền chí: động lực thăng tiến tinh thần của họ cốt ở nơi tình yêu, vừa lòng mến đối với Thiên Chúa vừa đức ái đối với nhau. Chính nhờ tình yêu này mà họ đạt được “ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên”. Thánh Phao-lô nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phân định: “nhận ra cái gì là tốt hơn” mà thánh nhân thường lập lại ở đây. Sự phân định này là một khía cạnh của đức khôn ngoan Ki-tô giáo, đổi mới thật sự lòng trí con người.
Ngày của Đức Ki-tô:
Trong đoạn văn này, thánh Phao-lô hai lần nhắc đến “ngày của Đức Ki-tô”. Như hai thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thư gởi tín hữu Phi-líp-phê làm chứng rằng các thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên nao nức mong chờ ngày Quang Lâm của Đức Giê-su Ki-tô sắp đến gần. Vào ngày đó, những người Ki-tô hữu phải được tinh tuyền và không làm gì đáng trách, sinh nhiều hoa trái dồi dào từ đời sống công chính nhờ Đức Ki-tô (từ ngữ công chính theo nghĩa Kinh Thánh là sống cuộc sống đạo hạnh phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa). Chúng ta gặp lại ở đây Thần Học về ân sủng. Đây là phương thức quen thuộc của thánh Phao-lô, thánh nhân thích lập lại ở phần cuối lời khẳng định ban đầu.
Tất cả cuộc sống Ki-tô hữu này, được định vị trong Đức Ki-tô, nhằm một mục đích tối hậu là “tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa”. Đây là cứu cánh của con người.
TIN MỪNG (Lc 3: 1-6)
Thánh Lu-ca giới thiệu sứ vụ của ông Gioan Tẩy Giả với lời mào đầu long trọng (3: 1-2), qua đó thánh ký định vị biến cố này vào trong lịch sử thế giới khi trích dẫn hoàng đế Rô-ma. Điều này cho thấy thánh Lu-ca quan tâm đến lịch sử, tuy nhiên thánh ký cũng muốn nói rằng lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả, loan báo kỷ nguyên cứu độ, liên quan đến hết mọi người. Chính cũng vì lý do này, khi viện dẫn Is 40, thánh Lu-ca tuân theo truyền thống Mc 1: 3 và Mt 3: 3; tuy nhiên, thánh Lu-ca đem đến một điều mới mẽ khi trích dẫn trọn vẹn sấm ngôn của I-sai-a, vì sấm ngôn này chấm dứt với những từ: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Qua câu này, thánh Lu-ca khẳng định tính cách phổ quát của ơn cứu độ mà Is 40: 6 đã loan báo, cũng như thánh Lu-ca đã nói trước ở 2: 30-31: “Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân”.
Bối cảnh lịch sử (3: 1-2a):
Lời mào đầu giới thiệu sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả trước quần chúng một cách long trọng trong bối cảnh lịch sử thế giới qua đế quốc Rô-ma; lịch sử trong và ngoài miền đất Pa-lét-tin qua ba tiểu vương, các con của vua Hê-rô-đê Cả; cũng như lịch sử dân thánh qua hai vị thượng tế vào thời đó.
– “Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô”: Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô xem ra từ ngày 1 tháng 10 năm 27 đến ngày 30 tháng 7 năm 28. “Thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng trấn miền Giu-đê”, tổng trấn Phi-la-tô đại diện chính quyền Rô-ma. Kể từ năm thứ sáu Công Nguyên, miền Giu-đa không còn có chính quyền bản địa nữa; vào năm này chính quyền Rô-ma đã truất quyền vua Ác-khê-lao, con và người kế vị vua Hê-rô-đê Cả, và nắm quyền trực tiếp trên miền Giu-đê, miền thường gây ra những cuộc bạo động. Như vậy miền Giu-đê có một thể chế đặc biệt. Chúng ta biết điều đó trong cuộc xét xử Đức Giê-su.
– “Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê”: Miền Ga-li-lê vẫn duy trì chính quyền bản địa do tiểu vương Hê-rô-đê, biệt hiệu An-ti-pát, con Hê-rô-đê Cả. Chính vị tiểu vương này đã giết Gioan Tẩy Giả và Đức Giê-su bị điệu đến trước ông.
– “Phi-líp-phê làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-khô-nít”: Tiểu vương Phi-líp-phê, cũng là con của Hê-rô-đê Cả, cai trị lãnh địa đông bắc biển hồ Ti-bê-ri-a. Ông là vị tiểu vương ôn hòa, không nhiệt thành lắm với Do thái giáo, thậm chí ưu đãi những việc thờ cúng ngoại giáo.
– “Ly-xa-ni-a làm tiểu vương miền A-bi-lên”: Miền A-bi-lên là một lãnh địa nhỏ bé được định vị ở Anti-Liban, phía tây Đa-mát. Tiểu vương Ly-xa-ni-a rất ít được biết đến. Vì thế người ta có thể tự hỏi trong danh sách của thánh Lu-ca vị tiểu vương này đóng vai trò gì. Đế quốc Rô-ma cho ba người con của Hê-rô-đê Cả làm tiểu vương ba lãnh địa, hai trong đất Pa-lét-tin và một ở ngoài đất Pa-lét-tin. Thật hợp lý khi kể thêm tiêu vương Ly-xa-ni-a cho đủ số ba người con của Hê-rô-đê Cả. Nhưng lý do thật sự xem ra còn sâu xa hơn. Rõ ràng ý định của thánh Lu-ca là muốn thông tri cho đọc giả hiểu rằng “biến cố Gioan Tẩy Giả” vượt quá bên ngoài ranh giới miền đất Pa-lét-tin.
– “Kha-nan và Cai-pha làm thượng tế”: Sau khi nói đến thế quyền, thánh Lu-ca đề cập đến giáo quyền: Kha-nan, vị thượng tế mãn nhiệm, và Cai-pha, người con rể, vị thượng tế đương nhiệm. Kha-nan được nêu tên, vì thế lực của ông vẫn còn ảnh hưởng rất lớn. Theo thánh Gioan, sau khi bị bắt, Đức Giê-su bị điệu trước tiên đến thượng tế Kha-nan, sau đó mới đến thượng tế Cai-pha.
Đối diện với thế quyền và giáo quyền này, thánh Lu-ca đưa vào một nhà khổ hạnh sống ẩn dật trong hoang địa, ông Gioan, con ông Da-ca-ri-a. Chính nơi nhân vật khiêm hạ này mà Lời Chúa được gởi đến.
Sứ vụ của ông Gioan Tẩy Giả (3: 2b)
“Có Lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gioan trong hoang địa”. Thánh Lu-ca mượn văn phong Kinh Thánh để mô tả ơn gọi ngôn sứ như Hs 1: 1 hay Gr 11: 1. Như vậy thánh ký ghi nhận rằng ông Gioan Tẩy Giả là một vị ngôn sứ, ông nói với tư cách một vị ngôn sứ. Sự kiện này lại càng gây chú ý hơn nữa vì từ năm trăm năm qua đã không có một ngôn sứ nào xuất hiện.
Ông Gioan xuất thân từ gia đình tư tế; cha ông, ông Da-ca-ri-a, là tư tế phụng sự đền thờ Giê-ru-sa-lem. Ấy vậy, chức vụ tư tế của dân Ít-ra-en là cha truyền con nối. Ông Gioan khước từ chức vụ và danh dự này; được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, ông vào sống ẩn mình “trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en” (Lc 1: 80).
Hoang địa này là sa mạc Giu-đê, dưới chân những ngọn đồi khô cằn, trong miền này được định vị giữa thành Giê-ri-cô và địa danh Qum-ran, có dòng sông Gio-đan đổ nước vào Biển Chết. Để thi hành sứ vụ của mình, ông Gioan Tẩy Giả tiếp cận với dân cư quanh vùng: “Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan”.
Phép rửa tỏ lòng sám hối (3: 3)
Phép rửa mà Gioan Tẩy Giả đề xướng không nhằm mục đích nào khác ngoài việc tỏ lòng sám hối. Các vị lãnh đạo Do thái giáo đòi buộc các dự tòng muốn gia nhập vào cộng đồng Ít-ra-en phải chịu phép rửa cùng với phép cắt bì. Các nghi thức thanh tẩy thì rất nhiều; thậm chí người Do thái thời hậu lưu đày vì lòng sốt sáng đã thêm một số lượng lớn; nghi thức thanh tẩy được thực thi hằng ngày và đa dạng tại các tu sĩ Qum-ran. Nhưng phép rửa mà Gioan đề xướng là một nghi thức duy nhất, bất khả lập lại, cũng không thuần túy chỉ là nghi thức. Thanh tẩy của thánh nhân là dấu hiệu thanh tẩy nội tâm, chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nhưng tự nó chưa có quyền ban ơn tha thứ này.
Ơn cứu độ phổ quát (3: 4-6)
Cả bốn tác giả Tin Mừng đều trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a đệ nhị hứa với những người lưu đày ở Ba-by-lon, họ sẽ sớm được hồi hương. Thiên Chúa sẽ sai phái một sứ giả “trong sa mạc, mở một con đường cho Đức Chúa” (Is 40: 3-5), vì chính Thiên Chúa sẽ dẫn đường cho dân Ngài trở về Giê-ru-sa-lem.
Cả ba tác giả Tin Mừng nhất lãm đều đã thấy ở nơi vị sứ giả này dung mạo của ông Gioan Tẩy Giả khi hiện tại hóa bản văn của I-sai-a vào trong hoàn cảnh hiện nay của mình: thay vì “Trong sa mạc, mở một con đường cho Đức Chúa”, thì lại “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa”, bởi vì Gioan Tẩy Giả thi hành sứ vụ dọn đường cho Đức Chúa ở trong hoang địa. Tuy nhiên, chỉ duy thánh Lu-ca trích dẫn trọn vẹn sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a, nhưng thánh ký chủ ý thay đổi một chút câu cuối: thay vì “Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy”, thánh ký viết: “Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Thật ra vinh quang của Đức Chúa được bày tỏ ở nơi quyền năng rực rỡ của Ngài, Đấng, sau một thời gian dài xem ra không đoái hoài đến dân Ngài, ra tay giải thoát dân Ngài khỏi cảnh giam cầm tại Ba-by-lon, tiên trưng một cuộc giải thoát khác, chính xác hơn, giải thoát khỏi mọi giam cầm của tội lỗi.
(*)Tựa đề do BTT. GPBR đặt
DỌN ĐƯỜNG CHÚA ĐẾN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ :
Ý tưởng chính của Chúa nhật II này là dọn đường cho Chúa đến.
– Trong bài đọc I (Br 5,1-9), ngôn sứ Barúc thông báo “Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nỗng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu”
– Trong bài Tin Mừng (Lc 3.1-6), Gioan tẩy giả kêu gọi người ta dọn đường cho Chúa đến bằng cách sám hối hoán cải đời sống.
– Và trong bài đọc II (Pl 1,4-6.8-11), Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê dọn đường bằng cách bồi dưỡng tình mến cho ngày càng thêm dồi dào và cố gắng sống tinh tuyền không làm gì đáng trách trong khi chờ đợi Chúa quang lâm.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Lẽ ra con người phải tìm đến với Chúa, thế mà chính Chúa tìm đến với con người. Chúa đến với chúng ta, đó là một vinh dự và là một ơn lành trọng đại. Nhưng vì không ý thức về vinh dự và ơn lành trọng đại đó nên chúng ta không thiết tha mấy với việc Chúa đến, và cũng chẳng quan tâm chờ đón Ngài.
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình thương của Ngài và tích cực đón tiếp Ngài.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúa biết chúng con khốn khổ nên muốn đến cứu chúng con. Vậy mà chúng con cứ muốn ở lì trong khốn khổ và không cần tới Chúa.
– Chúa chính là Đấng cứu độ duy nhất của chúng con. Vậy mà chúng con vẫn coi tiền tài, danh vọng và lạc thú của thế gian này như là cứu tinh của đời mình.
– Chúa luôn chờ đón chúng con, nhưng chúng con ít khi tìm đến với Chúa.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Br 5,1-9)
Ba-rúc là thư ký của ngôn sứ Giêrêmia. Quyển sách mang tên ông cũng được viết vào thời dân Do thái đang bị lưu đày.
Trong trích đoạn này, tác giả an ủi dân bằng cách loan báo ngày giải thoát :
– Đó sẽ là một ngày đổi đời : “Hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu”
– Là ngày con cái Israel sẽ được quy tụ lại và trở về Giêrusalem thân yêu : “Kìa xem con cái ngươi từ Đông sang Tây tụ họp về”
– Tất cả mọi điều tốt đẹp đó đều là việc làm của Thiên Chúa : “Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc, dưới ánh vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Ngài”
Đáp ca (Tv 125)
Tâm tình hân hoan của người thoát cảnh lưu đày trở về quê hương. Kèm theo tâm tình hân hoan này là tâm tình cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa : “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ… Bấy giờ trong dân ngoại người ta bàn tán : việc Chúa làn cho họ vĩ đại thay”
Tin Mừng (Lc 3.1-6)
Thánh Luca viết đoạn Tin Mừng này nhằm 3 ý :
- Muốn cho thấy Chúa Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử. Bởi thế Luca liệt kê những nhân vật lịch sử đang hành quyền lúc Gioan Tẩy giả bắt đầu rao giảng. Trong số những nhân vật ấy,
– Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực chính trị, như Hoàng đế Tibêriô, Tổng trấn Phonxiô Philatô, các Tiểu vương Hêrôđê, Philípphê, Lyxania.
– Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực tôn giáo, như các thượng tế Khanna và Caipha.
Lãnh địa mà họ đang hành quyền vừa là phần đất do thái (như Giuđê, Galilê), vừa là phần đất lương dân (như Iturê, Trakhônít, Abilên).
- Khi kê khai những nhân vật đang cầm quyền vừa trong lãnh vực tôn giáo lẫn lãnh vực chính trị, vừa ở đất do thái vừa ở đất lương dân, Thánh Luca còn muốn nóiChúa Giêsu là Đấng Cứu Độ phổ quát, chẳng những cho người do thái mà còn cho mọi dân tộc.
- Và Gioan Tẩy giả chính là kẻ tiền hô dọn đường cho Ngài.
Bài đọc II (Pl 1,4-6.8-11)
Philipphê là giáo đoàn được Phaolô yêu thương đặc biệt, bởi họ luôn trung thành thực hiện những lời ông khuyên nhủ. Trong trích đoạn hôm nay, Phaolô khuyến khích họ gia tăng lòng mến, tiếp tục hoàn thành điều tốt đẹp Thiên Chúa đã khởi sự nơi họ, để trở nên tinh tuyền không có gì đáng trách trong ngày Chúa lại đến.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Thiên Chúa không quên dân Ngài
Không ai trong chúng ta muốn bị người ta quên lãng. Dù vậy ai trong chúng ta cũng có chút ít kinh nghiệm về cảm giác bị lãng quên.
Người ta tổ chức một cuộc họp có liên quan đến chúng ta, thế mà người ta quên mời chúng ta. Chúng ta đã đóng góp công sức rất nhiều vào một công trình nào đó, nhưng dường như chẳng ai biết đến phần đóng góp ấy. Ngày sinh nhật của chúng ta đã đến, nhưng không ai nhớ mà mừng cả. Thực ra những trường hợp vừa kể chỉ là chúng ta bị quên vì người ta sơ ý mà thôi. Vậy mà chúng ta cũng rất buồn, vì chúng ta nghĩ rằng người ta đã không nhớ đến chúng ta, người ta không coi chúng ta ra gì.
Có một loại quên khác trầm trọng hơn, đó là người ta hoàn toàn không còn nhớ đến chúng ta nữa. Chẳng còn ai quan tâm tới chúng ta, mọi người như không nhớ là chúng ta vẫn còn hiện hữu. Nghĩa là không những chúng ta bị quên mà còn bị bỏ rơi nữa. Bị cảm giác như thế này thì đau khổ hơn nhiều.
Một Linh mục kia được các Linh mục bạn và các giáo dân ngưỡng mộ, quý mến. Thế rồi ngài mắc một chứng bệnh nên bị buộc phải về hưu, cả quãng đời còn lại phải ngồi trên chiếc xe lăn. Ban đầu, người ta đến nhà hưu thăm ngài rất đông. Nhưng năm tháng trôi qua, dòng người tuôn đến thăm viếng ngày càng giảm bớt và cuối cùng khô cạn hẳn. Không một bức thư, không một cú điện thoại. Tuyệt đối không còn gì cả, mà chỉ toàn là cô độc, lặng thinh, trống vắng. Ngài buồn nản vô cùng, nhất là những khi nhớ lại bao nhiêu công sức mình đã nhiệt tình đổ ra để phục vụ mọi người.
Rồi một hôm có một Linh mục cùng lớp ngày xưa ghé thăm. Vị Linh mục về hưu mừng rỡ vô hạn. Hai người đã nói chuyện huyên thuyên với nhau rất lâu. Cuối cùng vị Linh mục về hưu hỏi : “Anh nghĩ là có ai còn nhớ đến tôi không ?” Vị Linh mục bạn không trả lời. Mà biết trả lời thế nào đây !
Quả thực, bị quên lãng là điều chẳng tốt đẹp gì cả, trái lại còn cực kỳ đau khổ. Chúng ta cũng có thể nghĩ như thế về Chúa. Khi một điều gì xấu xảy đến cho ta thì ta nghĩ “Chúa đã quên tôi rồi”. Và chúng ta nghĩ tiếp : “Chúa không còn thương tôi nữa, Ngài không chăm sóc tôi nữa”.
Đó cũng là cảm nghĩ của dân do thái thời ngôn sứ Ba-rúc, thế kỷ II trước công nguyên. Đất nước họ đã rơi vào tay quân thù, thành thánh của họ bị tàn phá, Đền thờ chỉ còn là một đống gạch vụn, con cái họ bị lưu đày. Bởi thế họ hỏi nhau “Thiên Chúa ở đâu rồi ? Ngài có còn nhớ đến những lời đã hứa chăng ?” Và họ kết luận : Chúa đã quên chúng ta !
Nhưng ngôn sứ Ba-rúc trấn an rằng Thiên Chúa không bao giờ quên dân Ngài, những đau thương sầu khổ của họ sẽ sớm chấm dứt, Thiên Chúa sẽ mang con cháu họ trở về quê hương. Họ cần phải dọn đường cho Ngài đến cứu họ. Những lời này có sức an ủi rất lớn lao, và dân chúng lại hồ hỡi. Quả thực, những tù nhân lưu đày đã trở về cố hương. Dù vậy, lời Chúa hứa vẫn chưa thực hiện trọn vẹn mà phải chờ tới khi Đấng Messia đến.
Gioan Tẩy Giả là người loan báo rằng Đấng Messia đã đến. Chúa Giêsu chính là Đấng Messia ấy, và còn là Con Thiên Chúa. Việc Con Thiên Chúa đến với loài người là bằng chứng rõ ràng Thiên Chúa không bao giờ quên dân Ngài. Dù khi mọi người đều đã quên chúng ta, nhưng Thiên Chúa vẫn nhớ đến chúng ta. Ngài không thể nào không nhớ đến chúng ta, bởi vì chúng ta là con cái yêu dấu của Ngài.
Hơn nữa, vì chúng ta thích được người khác nhớ đến, nên chúng ta cũng hãy nhớ đến người khác, nhất là nhớ đến những người đã làm điều tốt cho chúng ta và những người đã từng hy sinh cho chúng ta. Mùa Giáng sinh là thời gian nhớ đến tha nhân. Những cách thức nho nhỏ biểu lộ lòng mình nhớ đến người khác là gởi một món quà, hay một tấm thiệp, đi kèm với một lời chúc xuất phát tự tấm lòng và củng cố bằng lời cầu nguyện cho nhau. (FM)
* 2. Mở rộng lòng ra đón nhận ơn cứu độ
Ơn cứu độ là một đề tài lớn của Mùa Vọng. Hôm nay phụng vụ hô lớn cho mọi người nghe rằng : “Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng, thung lũng phải lấp cho đầy, núi đồi phải san cho phẳng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Chúa”. Thật là những lời rất an ủi vì chúng cho thấy Thiên Chúa rất yêu thương con người.
Thế nhưng có người nghĩ rằng để được Chúa yêu thương thì mình phải hoàn hảo. Nghĩ thế nên họ cố gắng luyện tập mọi nhân đức và tránh không bao giờ phạm tội. Tuy nhiên đó là dựa vào sức mình. Phần Thiên Chúa thì khó mà cứu độ những kẻ dựa vào sức mình như vậy.
Có một thầy tu kia tên là Ambrôsiô, rất đạo đức, rất thông minh, và cũng rất cần cù. Thầy được mời đi giảng tĩnh tâm nhiều nơi, và ai nấy đều kinh ngạc vì kiến thức và uy tín của Thầy. Thầy sung sướng vì đã làm chủ được mọi việc mình làm.
Nhưng đột ngột thầy ngã bệnh, không còn làm gì được nữa. Ban đầu Thầy rất tuyệt vọng. Nhưng sau một thời gian, Thầy chợt nghĩ phải biết cách dùng cơn bệnh của mình để hiểu được những khổ đau của người khác. Thế là Thầy vui sống với cơn bệnh của mình. Khi có ai đến với Thầy, Thầy chia xẻ những suy nghĩ của mình và an ủi, khuyến khích họ. Kết quả là thời gian nằm bệnh của Thầy còn sinh hoa quả nhiều hơn thời gian Thầy còn khoẻ mạnh. Trước khi chết, Thầy viết : “Trước đây tôi đã đi theo một hướng, rồi thình lình tôi bị buộc phải đi theo một hướng khác. Nhưng nhờ đó tôi đã học biết về bản thân mình và về người khác nhiều hơn gấp bội so với những gì tôi học biết trong những năm trước khi bệnh”.
Có rất nhiều hoàn cảnh lạ lùng mở lòng chúng ta ra đón nhận những điều Chúa muốn ban cho chúng ta. Khi chúng ta đến với Chúa trong tư thế của người tự mãn và hùng mạnh, thì khi đó chúng ta đẩy Ngài ra xa. Còn khi chúng ta đến với Ngài mà cảm thấy yếu đuối, nghèo nàn, thì khi đó chúng ta mời Ngài vào lòng mình. Chính những sự bất toàn của linh hồn chúng ta mở rộng lòng chúng ta đón nhận ơn ban của Chúa, vì đó là những vết thương thu hút cặp mắt nhân từ của Chúa, làm cho chúng ta đáng được Ngài thương xót và chữa lành. Chúa Giêsu đã nói : “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”. (FM)
*3. Sám hối canh tân
Đời chiến Quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang Nước sở, phải đợi suốt ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở.
Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay.
Vua Sở bảo :
Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. Nay tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?
Tô Tần thưa :
– Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao ?
Vua Sở khẩn khoản nói :
Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá rồi.
Một đất nước mà vật giá đắt đỏ : “Củi quế gạo châu”, vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.
Mỗi lần Mùa Vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những lỗi lầm của chúng ta và nhắc chúng ta sám hối canh tân. Đó chính là Gioan Tẩy Giả : “Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa sửa lối cho thẳng để Người đi” (Lc 3,4).
Nếu Tô Tần là nhà du thuyết cho nước Sở, thì Gioan chính là ngôn sứ của dân tộc Do Thái. Ông đã thấy các nhân vật đạo đời : Từ hoàng đế Tibêriô đến quan tổng trấn Philatô, từ vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria cho đến các vị thượng tế Hanna và Cai pha ; lòng người đầy những khúc quanh lồi lõm, thung lũng hố sâu, núi đồi hiểm trở.
Gioan nhắc lại lời ngôn sứ Isaia : “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, p hải san cho phẳng (Lc 3,5). Ông kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính là đường vào cõi lòng :
Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.
Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch lạc.
Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn tự kiêu.
Phải bạt cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính.
Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó.
Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em.
Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn Cứu Độ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng tay đón nhận.
Lạy Chúa, thật là khó khi nhận mình lầm lỗi, và cũng không dễ dàng khi phải sửa chữa lỗi lầm.
Xin ban cho chúng con ơn sám hối, dám đi đến những hành động cụ thể, và can đảm chấp nhận cắt tỉa đớn đau, để chúng con xứng đáng đón rước Chúa đến mang nguồn vui ơn Cứu Độ. Amen. (TP)
*4. Cách dọn đường cho Chúa ngày hôm nay
Nếu chúng ta muốn đón Chúa – dù Ngài đến bằng cách nào chăng nữa – thì chúng ta cũng phải chuẩn bị, phải dọn đường cho Ngài đến với chúng ta. Ngôn sứ Ba-rúc cũng như Gioan Tiền Hô đều nhắc lại lời Kinh Thánh dạy chúng ta cách dọn đường cho Chúa : «Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nồng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa». Và «Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng».
Cách nói đầy hình tượng của Thánh Kinh thật đơn sơ dễ hiểu : Công việc dọn đường cho Chúa của chúng ta là chấn chỉnh đời sống, là điều chỉnh tư tưởng, lời nói, việc làm của mình. Đó chính là ý nghĩa của từ «metanoia», nghĩa là hoán cải, thay đổi, trở lại, không chỉ trong hành động vi phạm các nguyên tắc luân lý, mà cả trong lời nói và suy nghĩ, não trạng, trong hiểu biết của chúng ta nữa.
Ngày nay việc chuẩn bị đón Chúa trong Mùa Vọng dễ bị «nhiễu» bởi những cách chuẩn bị bề ngoài và nặng tính thương mại. Hang Đá, Máng Cỏ đủ kiểu đủ mầu, đèn hoa rực rỡ, cờ xí tung bay… đẹp thì đẹp thật đấy, nhưng là những hình ảnh rất xa lạ với cảnh Bê-lem đích thực. Tệ hơn nữa, có không ít người lại bị nhiễm cách người đời mừng Lễ Thiên Chúa giáng trần, bằng những hàng hóa «de luxe» (=sang trọng) và những bữa tiệc linh đình, phung phí, thậm chí tội lỗi nữa.
Vì thế, mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn Kitô hữu chúng ta hãy tự kiểm điểm một cách chân thành và khiêm tốn :
-Sự hiểu biết của tôi về Thiên Chúa, về Giáo Hội, về cách sống Đạo… và rao giảng Tin Mừng đã tạm đủ và phù hợp với Tin Mừng và Giáo Huấn của Giáo Hội chưa ? Tôi phải làm gì để có được một hiểu biết đầy đủ hơn về Thiên Chúa, về Giáo Hội, về cách sống Đạo, về cách rao giảng Tin Mừng ?
– Cách suy nghĩ, cách đánh giá con người và sự việc của tôi dựa vào Phúc Âm và Giáo Huấn của Giáo Hội hay dựa vào dư luận và thói thường của thế gian ?
-Mọi hành động của tôi (làm ăn, buôn bán, việc đạo, việc đời…) nhằm mục đích làm đẹp lòng Thiên Chúa và sinh ích sinh lợi (vật chất, tinh thần, tâm linh) cho bản thân tôi và những người chung quanh (gia đình, bạn bè, lối xóm, khu vực…xã hội) hay chỉ nhằm thỏa mãn lòng ích kỷ và các dục vọng xấu trong tôi ?
Chắc chắn khi thành thật trả lời các câu hỏi trên mỗi người, mỗi cộng đoàn chúng ta sẽ thấy «thung lũng» phải lập đầy, «núi đồi» phải san bằng, «đường quanh co»cần phải uốn ngay trong tư tưởng, lời nói, hành động thường ngày của mình.
***
Lạy Chúa, xin hãy đến với con ! với gia đình, với giáo xứ và với dân tộc con ! Lạy Chúa, xin hãy tu sửa lòng trí và cách sống của chúng con ! (Giêrônimô Nguyễn văn Nội)
* 5. Lạc quan
Biết bao người bi quan với cuộc đời và với thế giới. Chúng ta đã nghe quá nhiều những nhận định chán chường, như : Đời là bể khổ ; đời là con đường đi vào ngõ cụt ; tha nhân là hỏa ngục v.v.
Nhưng giọng điệu của Lời Chúa hôm nay khác hẳn : “Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của Ngài” (bài đọc 1) ; Ngay cả những người đang “nghẹn ngào ra đi gieo giống” cũng có thể mong chờ “mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Đáp ca) ; “Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó cho tới chỗ hoàn thành” (bài đọc 2) ; “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Tin Mừng)
Người đời bi quan là vì họ không có đức tin. Kitô hữu thì phải lạc quan vì có đức tin. Ánh sáng đức tin giúp chúng ta giúp chúng ta thoát khỏi kiểu nhìn những biến cố một giới hạn và cục bộ, nhưng mở rộng tới tầm nhìn toàn diện lịch sử diễn tiến theo chương trình của Thiên Chúa.
* 6. Bài giải thích của Origène (+ 253)
Câu Cựu Ước được trích dẫn là của ngôn sứ Isaia : “Có tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Is 40,3) Con đường mà chúng ta phải dọn cho Chúa là con đường nào ? Phải chăng là con đường vật chất ? Thế nhưng Lời Chúa có cần đi con đường này không ? Hay là phải dọn cho Chúa con đường nội tâm và thu xếp trong tâm hồn chúng ta những con đường ngay thẳng và liền lạc ? Vâng, đây chính là con đường mà Ngôi Lời Thiên Chúa vạch trong tâm hồn con người để nó có khả năng đón nhận Lời Ngài.
Tâm hồn con người thật rộng rãi và dễ đi, miễn là nó thanh sạch. Bạn có muốn biết con đường ấy rộng lớn thế nào không ? Hãy xem nó có thể chứa đựng biết bao hiểu biết thần linh. Chính tâm hồn con người thố lộ : “Quả chính Ngài ban cho tôi trí tri cách vật, biết được cơ cấu càn khôn và năng lực của ngũ hành, mối đầu, mút cuối và khoảng giữa các thời, đông chí hạ chí đắp đổi và thời tiết tuần hoàn, tần niên chu kỳ, vị trí tinh sao, bản tính loài vật, bản năng mãnh thú, sức mạnh tinh thần, tâm tư người thế, phân loại thảo mộc, dược tính rễ cây. Mọi điều ẩn tàng hay minh bạch, tôi đều đã biết. Phải, chính tay thợ làm ra mọi sự đã dạy dỗ tôi, sự khôn ngoan” (Kn 7,17-23). Bạn thấy đấy, tâm hồn con người đâu phải là nhỏ vì có thể chứa đựng bấy nhiêu điều ấy. Bạn phải hiểu rằng nó rộng lớn không phải về những chiều kích thể chất, mà về năng lực của tư tưởng, có thể ôm trọn những hiểu biết chân lý to lớn dường ấy.
Để giúp những người đơn sơ nhận biết sự to lớn của tâm hồn con người, tôi sẽ đưa ra những thí dụ quen thuộc. Tất cả mọi thành thị chúng ta đi qua, chúng ta đều giữ lại trong tâm trí : những nét đặc thù của chúng, hoàn cảnh ở các nơi, những tường lũy, những dinh thự… Tất cả đều ở lại trong tâm hồn chúng ta. Con đường mà chúng ta đã đi qua, nó cũng ở lại như vẽ như in trong trí nhớ của chúng ta. Biển cả mà chúng ta đã bơi lội, chúng ta vẫn còn giữ lại trong ý tưởng một cách thầm lặng. Tôi xin lặp lại, chẳng nhỏ bé đâu cái tâm hồn có khả năng ôm ấp biết bao điều như thế ấy ! Và nếu nó không nhỏ vì có thể ôm ấp bao điều như vậy, ta có thể dọn đường cho Chúa và sửa thẳng lối lại để cho Đấng là Lời và Khôn ngoan có thể đi. Hãy dọn đường cho Chúa bằng một cách sống đáng khen, bằng những việc làm tuyệt hảo ; hãy san phẳng con đường để Ngôi Lời có thể đi mà không gặp cản trở nào. Rồi Ngài sẽ ban cho bạn được hiểu biết về những mầu nhiệm và về việc Ngài ngự đến, “kính dâng Ngài vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời” (1 Pr 4,11)
Chuyện minh họa ý nghĩa Mùa Vọng
Tôi đưa một người bạn mù ra sân bay. Khi đến nơi, tôi bảo người đó “Tôi đi lo chút việc. Anh đứng đây chờ tôi nhé. Đừng đi đâu cả”. Rồi tôi đi mua vé, gởi một lá thư và đọc thông báo về các chuyến bay. Khi tôi quay lại, tôi thấy người bạn mù vẫn đứng đấy. Người ta chen lấn chung quanh anh, một người phu khuân vác đây xe trước mặt anh, một đứa bé ngạc nhiên nhìn anh chăm chăm, một người bán báo rao inh ỏi trước mặt anh… Nhưng anh vẫn đứng yên, nét mặt bình thản, không chút nghi ngờ, không hề sợ sệt. Anh tin chắc tôi sẽ trở lại đón anh.
Cảnh một người mù nhắm mắt đứng yên chờ tôi trở lại khiến tôi liên tưởng tới thái độ người tín hữu phải có trong Mùa Vọng để đón chờ Chúa đến. (Willi Hoffsuemmer).
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Thiên Chúa mời gọi con người hiệp thông với Chúa và với nhau. Để đáp lại lời mời gọi đó, con người phải hoán cải con tim, rồi suốt cuộc đời, phải ăn năn sám hối. Với lòng thống hối chân thành vì những lỗi lầm đã phạm, chúng ta cùng khiêm tốn nguyện xin :
- Sứ điệp của thánh Gioan Tẩy giả được đúc kết trong lời mời gọi ; / Anh em hãy sám hối / vì Nước Trời đã đến gần / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội thánh / luôn ý thức thân phận tội lỗi của mình / và quyết tâm đổi mới đời sống / để xứng đáng đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh.
- Trên thế giới ngày nay / tội ác vẫn lan tràn khắp nơi / đặc biệt là tội buôn bán phụ nữ và trẻ em / Chúng ta hiệp lời cầu xin hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo của hết thảy mọi quốc gia / tìm được những biện pháp thích hợp / để tiêu diệt tội ác đáng ghê tởm này.
- Ngày nay có một số người hầu như mất hết ý thức về tội lỗi / họ coi việc phạm tội là bình thường / vì lương tâm họ đã trở nên xơ cứng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn soi sáng / để mọi người biết cố gắng lánh xa tội lỗi / và tích cực làm nhiều việc thiện.
- Trong một thế giới còn nhiều bạo lực / bất công / hận thù / chia rẽ / cần có những người dám xả thân / mang sứ điệp yêu thương của Chúa đến cho mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / trở nên những chứng nhân của Thiên Chúa là tình yêu / bằng chính đời sống bác ái yêu thương của mình.
Chủ tế : Lạy Chúa là Cha nhân hậu từ bi, để hết thảy mọi người có thể nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa, chúng con phải sống gương mẫu trong đời sống tin cậy mến. Vì thế, xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con biết sống theo lời dạy dỗ của Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam