Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1379219

ƠN CỨU ĐỘ NHƯNG KHÔNG CỦA THIÊN CHÚA

Ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Trong bài diễn từ đầu tiên của mình tại Hội đường Nazareth, Chúa Giêsu không những đã nói rõ sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là để hoàn tất, để làm “ứng nghiệm” tất cả những gì mà các tiên tri đã loan báo, mà còn cho những người đồng hương của Ngài biết những chiều kích sâu xa của ơn cứu độ mà Ngài mang đến cho con người.

  1. Trước hết, ơn cứu độ của Đức Kitô – Ơn cứu độ mang tính thần linh

Đức Kitô không loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ con người, cho dù người đó là một anh hùng, hay một siêu nhân, mà Ngài loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngài không phải là một nhà cách mạng, một nhà giải phóng dân tộc thuần tuý phàm trần. Do đó, ơn cứu độ mà Ngài đem đến không phải là ơn cứu độ thuộc hạ giới. Ơn cứu độ của Ngài là ơn cứu độ đến từ thượng giới, vì Ngài là Đấng Thiên Sai, Đấng từ Thiên Chúa Cha mà đến.

Và chính vì ơn cứu độ đến từ thượng giới, nên để có thể đón nhận, cần có niềm tin. Điều này dân làng Nazareth không có. Mặc dù, họ hài lòng với sứ điệp của Chúa Giêsu, họ vỗ tay tán thưởng những lời từ miệng Người thốt ra; nhưng họ đã từ chối đón nhận sứ điệp ấy từ Người. Trở ngại lớn nhất nơi họ chính là “định kiến” về một Giêsu, con bác thợ mộc Giuse: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4,22). Vì không ra khỏi óc thành kiến hẹp hòi đó, nên họ không thể nhìn thấy nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu quê làng Nazareth.

Tôi có thường “đóng khung” Thiên Chúa và các mạc khải của Ngài trong cái nhìn hẹp hòi thành kiến không?

  1. Thứ đến, ơn cứu độ của Đức Kitô – Ơn cứu độ mang tính nhưng không

Ơn cứu độ mà Thiên Chúa tặng ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô hoàn toàn xuất phát tình yêu nhưng không của Ngài, chứ không phải vì con người xứng đáng. Thân phận con người là tội lỗi và ngàn lần bất xứng. Không ai có quyền đòi hỏi và cho rằng mình có công trạng.

Vì thế, để có thể đón nhận ơn cứu độ nhưng không ấy, cần có một thái độ khác đó là thái độ chân thành tri ân. Dân làng Nazareth nghĩ rằng mình xứng đáng với những phép lạ và những đặc ân đến từ Chúa Giêsu. Họ thiếu sự chân thành để đón nhận. Hơn thế, họ còn yêu sách đối với Chúa Giêsu: bắt Chúa Giêsu phải đáp ứng theo những đòi hỏi của họ, và vì thế khi Chúa Giêsu không đáp ứng theo ý muốn của họ, lập tức họ nổi giận trục xuất Ngài ra khỏi hội đường.

Tôi có thường đỏi hỏi, yêu sách Chúa làm theo ý mình hay lời cầu xin của mình vì nghĩ mình xứng đáng, mình có công đức hay không? Nếu tôi áp lực, yêu sách Chúa làm theo ý muốn của mình thì một ngày nào đó, tôi sẽ “nghỉ chơi” với Chúa, thậm chí là “khai tử” Chúa chỉ vì không được Chúa đáp ứng. (Dẫn chuyện minh hoạ: Phơi nắng Chúa Giêsu).

  1. Sau nữa, ơn cứu độ của Đức Kitô – Ơn cứu độ mang tính phổ quát

Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Ơn cứu độ của Ngài không dành cho một dân tộc, một quốc gia, hay một nhóm người nào. Tin Mừng cứu độ phải đến với hết mọi người (x. Lc 4,42); Tin Mừng không chỉ dành cho một số người độc quyền. Những người không phải Do Thái không nằm bên ngoài ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Đối với Chúa Giêsu, mọi thứ tước hiệu “bà con”, “họ hàng”, “đồng hương đồng khói”, “dòng dõi Abraham”… đều không có ý nghĩa gì, càng không thể đổi lấy ơn cứu độ được.

Vì thế, để có thể đón nhận, cần có thái độ khiêm tốn cởi mở. Dân làng Nazareth vì cho rằng mình có đặc quyền đặc lợi, mình là “con cháu Abraham”, là “dân Chúa chọn”, là “người làng” của Chúa Giêsu, nên họ không muốn những người khác được hưởng ơn cứu độ. Vì thiếu sự quảng đại và cởi mở, nên họ đã nổi giận khi Chúa Giêsu có vẻ đề cao dân ngoại, ưu tiên cho dân ngoại. Và cũng vì thiếu khiêm tốn và vị tha, nên khi Chúa Giêsu từ chối làm theo ý họ và ưu ái đối với họ, họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, theo kiểu “ăn không được thì đạp cho đổ”. Tắt một lời, vì hẹp hòi, không muốn cho dân ngoại được hưởng những ân huệ từ Thiên Chúa, nên dân làng Nazareth đã có ý hãm hại Chúa Giêsu, một người đồng hương với mình. Thật phũ phàng! Tin Mừng thánh Luca cho thấy rõ điều đó: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành và kéo Người lên tới đỉnh núi, để xô Người xuống vực” (Lc 4,29).

Tôi có nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa Giêsu, khi sống hẹp hòi ích kỷ không? Tôi có muốn giữ Chúa cho riêng mình, giữ chân lý do cho riêng mình, và giữ những ân huệ của Thiên Chúa cho riêng mình không?

 

23. Loại bỏ

Sau nhiều năm rời bỏ ngôi làng nơi ông đã chào đời ở Transkei, Nelson Mandela đã trở về thăm quê hương. Lúc bấy giờ ông đã là một luật sư và sống ở Johannesburg. Sau này ông đã viết về cuộc thăm viếng đó: “Không có gì giống như khi ta trở về một nơi vẫn không thay đổi để tìm lại những con đường trong đó chính bạn đã đổi thay. Chốn cũ tiếp tục như trước đây, không đổi khác với khi tôi lớn lên ở đó. Nhưng tôi nhận ra rằng quan điểm của tôi và thế giới quan của tôi đã tiến triển”. Thật vậy, ông đã nói điều đó đúng lúc ông trở về quê hương, ông không thể sống ở đó nữa – nó trở nên quá nhỏ đối với ông.

Đức Giêsu đã trở lại Nagiarét và với dân làng. Ngài đã lớn lên ở giữa họ. Người cũng muốn đem lại cho họ những ơn ích của Người. Họ là những người biết rõ Người. Hẳn bạn nghĩ rằng họ sẽ đánh giá Người cao nhất. Đáng buồn là họ không tin Người.

Quang cảnh mà bạn có về một nhà thờ lớn thì một khoảng cách rất khác với quang cảnh khi bạn ở thật gần. Từ một khoảng cách, ngôi nhà thờ đứng rực rỡ trong khung cảnh xung quanh. Bạn có thể nhìn thấy những đường nét, hình thể và vẻ đẹp của nó. Nhưng khi ở thật gần, bạn thấy toàn là bụi bẩn và rạn nứt.

Một điều tương tự xảy ra với người ta. Một người không bao giờ là một anh hùng với những người thân. Một thiên tài dường như không được chính bạn bè mình khám phá. Những người ở gần phải chịu đựng vì các khuyết điểm và giới hạn quá rõ ràng. Những người ở xa, trái lại, được sự quí trọng cổ vũ vì chỉ những đức hạnh của người ấy được thấy rõ.

Nhưng điều đã xảy ra với Đức Giêsu ở Nagiarét còn sâu xa hơn thế. Không phải chỉ vì họ không đánh giá đúng Đức Giêsu. Họ khước từ Người. Tại sao? Bởi vì Người đã chỉ ra sự thiếu đức tin của họ và nói với họ rằng dân ngoại còn cởi mở với Thiên Chúa hơn họ. Những ơn ích từ lời hứa trong giao ước không có ý nghĩa là tất cả.

Đức Giêsu đã chịu đựng số phận của mọi ngôn sứ – bị dân của Người khước từ. Lời ngôn sứ không phải để làm vui lòng người ta, nhưng để nói lên sự thật mà người ta không muốn nghe, sự thật mà người ta thường che đậy. Nhưng động lực khiến Đức Giêsu nói lên sự thật là lòng thương xót của Người.

Người phải làm gì? Hẳn Người có thể nói: “Tôi đã chán họ! Tôi đã chán mọi người. Vì vậy tôi sẽ rút lui vào một cái lều trong rừng và để cho cỏ dại mọc quanh trên mặt đất”.

Hoặc Người có thể nói: “Họ muốn gì nào?” Và khi đã tìm ra điều họ muốn, Người có thể xúc tiến cho họ điều đó. Nhưng trong trường hợp này, ơn đặc biệt mà Người muốn cho họ và họ hết sức cần sẽ bị bỏ mất.

Sau cùng, Người có thể cố gắng tìm ra một số ít người sẵn sàng đón nhận điều Người muốn cho họ. Nếu Người tìm được ít người đó, Người có thể cho họ điều đó tùy theo khả năng họ đón nhận. Đó là điều Người đã chọn để thực hiện.

Bị những người thân quen của mình khước từ là một việc tổn thương sâu sắc. Đức Giêsu đã đau buồn bởi những điều xảy đến với Người ở Nagiarét, nhưng Người đã không trở nên cay cú và chôn vùi những ân huệ của Người. Người làm điều Người có thể làm cho những kẻ đã tin Người ở Nagiarét, và rồi Người mang những ân huệ của Người đi nơi khác.

 

24. Sứ vụ.

Người xưa thường nói: “Vạn sự khởi đầu nan”. Điều này cũng đã xảy ra ngay khi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai của Người tại hội đường Nagiarét, nơi sinh trưởng của Người. Thành công vừa mới chớm nở, thì khó khăn, thử thách, không mời đã chợt ập đến, không chịu uốn mình chiều theo những toan tính vị kỷ của những người đồng hương, Chúa Giêsu đã bị chống đối khước từ, thậm chí họ muốn thủ tiêu Người. Dẫu sao, Chúa vẫn dũng mạnh thi hành sứ vụ của Người bằng một trái tim rộng mở, luôn đập những nhịp đập của yêu thương.

Thánh Luca đã ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Sau khi nghe Chúa Giêsu đọc và giải thích đoạn sách của tiên tri Isaia, những người trong hội đường xì xầm với nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? “. Có lẽ, câu nói này không diễn tả một thái độ nghi ngờ, trần tục hóa sự thiêng liêng cao cả của Đức Giêsu, bởi vì họ vừa mới chăm chú lắng nghe và thán phục những lời thốt ra từ miệng Người. Đúng hơn, câu nói đó như diễn tả một sự toan tính đầy ích kỷ, tư lợi của những người đồng hương với Chúa. Họ mang một tâm tính vốn rất thường gặp ở đời: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Nếu người này là con ông Giuse, bây giờ trở thành tiên tri và làm được các phép lạ, vậy tại sao chúng ta lại không lợi dụng địa vị đó để mưu ích cho thôn xóm, bản làng của mình. Câu ngạn ngữ Chúa Giêsu trưng dẫn để nói với họ: “Thầy lang ơi! Hãy chữa lấy mình” cho thấy, họ muốn Chúa hãy làm cho họ hưởng các phép lạ trước rồi sau đó mới cho người khác được hưởng. Họ muốn đưa ra một tối hậu thư bi đát ép Chúa phải phục vụ họ trước. Vậy Chúa Giêsu đã xử trí thế nào trước thái độ hẹp hòi của họ.

Biết rõ đầu óc cục bộ địa phương, còn nhiều ganh tỵ, mang đậm tính mầu cờ sắc áo Nazareth của những người đồng hương như thế, Chúa Giêsu muốn từ chối ràng buộc ơn cứu độ của Người trong mối liên hệ máu mủ thân quen nên Người đã nói rõ ý định của Người: “Tôi bảo thật các ông, không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Nghĩa là, vị tiên tri không có tình cảm ưu ái với những người đồng hương hơn những người xa lạ. Chúa đã trưng dẫn hai vị tiên tri lớn trong Cựu ước là Elia và Elisa đã có những hoạt động vượt ra ngoài ranh giới tôn giáo cũng như lãnh thổ, để từ chối không ban cho những người Nazareth, mà cả dân tộc Israel độc quyền chiếm hữu ơn cứu độ. Ý thức mình là dân riêng Chúa chọn, nên người Do thái không thể tưởng tượng được một Đấng Cứu thế được Thiên Chúa sai đến lại lưu tâm đến dân ngoại là người tội lỗi, hơn là ghé mắt chiếu cố đến họ. Chính điều này đã khiến họ tức giận. Họ lôi Người ra khỏi thành và xô Người xuống vực. Tuy nhiên, thánh Luca đã ghi lại: “Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”. Nghĩa là, Chúa vẫn bình tĩnh thi hành sứ vụ trước thái độ “được ăn cả, ngã về không” hay “không ăn được thì đạp đổ” của họ.

Thái độ hẹp hòi của người Nazareth và phản ứng của Chúa Giêsu như thế có giúp chúng ta rút ra bài học gì cho cuộc sống hôm nay không?

Trong cuộc sống, người tín hữu nếu không tỉnh thức, không xét mình đấm ngực hằng ngày và không thắp lên trong tim ngọn lửa truyền giáo sẽ dễ trượt theo “vết xe đổ” của những người Do thái thời xưa.

Tự hào mình thuộc dòng dõi đạo gốc lâu đời, được rửa tội, được hưởng nền giáo dục và đời sống ơn thánh, dễ làm cho người Công giáo có cảm tưởng, Thiên Chúa thuộc về người Công giáo và phục vụ cho người Công giáo. Và điều này dễ dẫn đến khuynh hướng đóng khung giam hãm Thiên Chúa để độc quyền chiếm hữu Chúa Kitô và ơn cứu độ của Người hơn là chia sẻ cho những anh em chưa được biết Chúa.

Có thể nói khuynh hướng này là “Tội thứ nhất, tội của những người được soi sáng mà không sáng tỏa ra. Họ biết ý nghĩa của cuộc sống, biết hướng đi, biết những điểm có nước, những trạm có xăng dầu nhưng họ không chỉ dẫn cho ai”. Thế nên, thay vì là những rào cản, sẽ tốt hơn, đẹp hơn, ý nghĩa hơn nếu mỗi người trở nên những nhịp cầu dẫn đưa người khác đến với Chúa. Đừng vô tình tự nguyện biến mình thành một trở lực, nhưng hãy cố tình biến đổi thành một trợ lực cho tha nhân.

Một nhà thần học rất nổi tiếng người Đức là cha Karl Rahner có một ý tưởng rất đáng cho chúng ta lưu ý. Ngài nói: “Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều là những Kitô hữu ngoại đạo; trong số những người Công giáo, không phải tất cả đều thực sự là con cái của Nước Trời. Bao nhiêu kẻ xem ra ở bên ngoài thực sự lại ở trong, còn những người bẩm sinh là công dân Nước Trời thì sẽ bị ném vào nơi tối tăm dầy đặc”.

Vì thế, sứ mạng loan báo Tin Mừng đòi hỏi chúng ta phải cố gắng khám phá “những người ngoại có tâm hồn Kitô hữu”. Họ là những người ở gần Thiên Chúa mà không hay biết. Họ bị bóng tối vị kỷ của chúng ta làm che mất ánh sáng. Tuy nhiên, không thể có tâm hồn truyền giáo nếu không có đức ái. Không phải vô tình mà thánh Phaolô đã dùng tới 10 lần chữ “đức ái” trong bài đọc 2 để nhấn mạnh đức ái là nhân đức tuyệt đối cần và quí trọng nhất. Người loan báo Tin Mừng cần phải có và cầu xin hơn cả, vì đây chính là con đường hoàn hảo.

Có lẽ là không quá cường điệu khi nhà bác học Pascal nói rằng: “Tất cả mọi vật chất gộp chung lại, cộng với tất cả mọi tinh thần gộp chung lại, cộng với tất cả mọi sản phẩm của hai thứ đó gộp chung lại, cũng không có giá trị bằng một chút bác ái. Đó là một trật tự khác hẳn, vô cùng cao cả hơn”.

Ước chi “vết đen” của những người Nazareth thời xưa không lập lại và trở thành “phách mạnh” trong đời sống chúng ta, nhưng chớ gì tấm gương đời sống của Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức và mở lòng mình ra trước sứ vụ truyền giáo, dẫu có gặp khó khăn thử thách, thậm chí là chống đối bách hại, vẫn kiên trì và dũng mạnh thi hành sứ vụ bằng một trái tim chan chứa tình yêu như Ngài, trong Ngài và nhờ Ngài.

 

25. Ân huệ

home Mục lục Lưu trữ