Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 53

Tổng truy cập: 1380191

PHỤC VỤ THA NHÂN

Phục vụ tha nhân – Lm. Thu Băng.

Thánh Mathêu tông đồ thánh sử là một thanh niên yêu đời. Chàng lại có địa vị trong xã hội (làm đầu bọn thâu thuế), bao nhiêu người nhòm ngó và ai cũng biết đến tên tuổi. Thế mà sau tiếng gọi nhiệm mầu của Chúa, chàng đã từ bỏ mọi danh vọng, và hăng hái từ bỏ mọi sang trọng đời này, bán tất cả đãi tiệc bạn bè rồi đi theo Chúa Kitô, làm môn đệ trung kiên của Thầy. Ngài đã viết lại cuộc đời của Thầy một cách tỷ mỷ và tường tận trong Phúc Âm thứ nhất của ngài. Ngài còn đi giảng đạo tại Palestine và đổ máu đào mình ra sau khi Chúa về trời để minh chứng Đức Kitô thật là Thiên Chúa hằng sống đã từ trời xuống thế mặc thân phận người tôi tớ: “Con người sẽ bị nộp để những ai muốn làm lớn thì hãy tự nên kẻ rốt hết phục vụ anh chị em mình” (9:29-36).

Cũng như câu chuyện: Một tu sĩ già cầu xin Chúa hiện ra để củng cố niềm tin của ông, nhưng điều đó chẳng xẩy ra, thế rồi ngày nọ Chúa lại hiện ra với ông. Vị tu sĩ già vui mừng quá đỗi, nhưng ngay lúc đó chuông tu viện vang lên báo hiệu giờ phát chẩn cho người nghèo. Khổ nỗi hôm nay lại đến phiên tu sĩ già phát chẩn cho họ, nên ông không chậm trễ lặng lẽ rời bỏ cuộc nói chuyễn với Chúa đi phát chẩn cho dân. Gần một giờ đồng hồ, ông trở lại phòng mình: Chúa đang chờ ông ỏ đó. Thế là vị tu sĩ già liền cảm tạ Chúa, nhưng Chúa trả lời ông: “Giả như con không chịu đi giúp người nghèo, thì Ta đã không ỏ lại đây đâu”.

Câu chuyện thánh Mathêu và tu sĩ già làm sáng tỏ lời dạy của Chúa Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai đón nhận một trong những kẻ bé mọn vị danh Thầy, là đón tiếp chính Thầy. Ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Các ngài đã học được rằng: Phụng sự Chúa không nhất thiết là phải cầu nguyện lâu giờ, không nhất thiết là thị kiến chính Chúa, mà là phục vụ anh chị em, đặc biệt là những người ít may mắn. Chúa Giêsu vào đời đã dạy các môn đệ Ngài bài học này: “Ai muốn nên kẻ cao trọng nhất, thì hãy làm người thấp nhất để phục vụ anh chị em ngươi”.

Điều này gợi lên một vấn đề quan trọng: Làm sao có thể thực hiện được lời dạy của Chúa Giêsu? Mỗi người đều có câu trả lời thiết thực khác nhau: Tôi quen thân với một người bị liệt mất một bên chân phải vì bịnh tiểu đường cách đây đã 10 năm trời, nhưng anh cố ngồi xe lăn, lê chân đôi chân đến an ủi những người bạn khác mới bị lần đầu. Sau đó tôi lại thấy một người cụt mất cả bàn chân, đi bằng chân sắt giả bình thường như những người khác. Anh ta là thợ điện trong nhà thương. Anh vạch chân sắt cho tôi xem và khích lệ: “Người ta què một chân thì đã kêu khó kêu nhọc khi phải què chân, tôi đây bị cưa cả bàn chân mà tôi vẫn đi đứng, làm lụng được như thường, chỉ vì mình có chí khí khuất phục nó. Bạn hãy lấy ý chí mà vượt thắng mình sẽ qua cơn khó khăn này thôi”. Trong chúng ta ít người có chí khí và khích lệ bạn bè như trường hợp hai người què trên. Tuy nhiên, tôi vẫn tự hỏi được mấy người trong chúng ta biết lợi dụng những đặc ân, những hoàn cảnh khó mà khích lệ anh chị em chúng ta?

Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta xét lại cuộc sống: Ngay lúc này, chúng ta đã làm được việc gì với tinh thần phục vụ tha nhân, cho dầu chúng ta là những người lanh lặn và hoàn bị trong nghĩa vụ?

Để kết thúc, chúng ta nhắc lại lời nhắc bảo của Chúa cứu thế: “Ai muốn làm lớn, thì hãy tự hạ mình làm người tôi tớ anh em. Chỉ có những ai biết tìm đến phục vụ tha nhân thì mới thực sự được hạnh phúc”.

 

58. Thu góp kim cương – Lm. Cao Vũ Nghi.

Người ta kể chuyện về Rabbi Menachem Sche-neerson, dù đã hơn 80 tuổi, nhưng ngày ngày vẫn đứng hằng giờ trên đường phố New York tiếp đón bất cứ ai đến với ông, để xin ông cầu nguyện, chúc lành cho họ, hay để xin ông giúp ý kiến về mọi khúc mắc trong cuộc sống. Ngày nọ, một người đã hỏi ông làm sao với tuổi già sức yếu, mà ông không tỏ ra mệt mỏi sau khi đứng nhiều giờ như vậy. Ông đã trả lời, “Khi người ta đếm kim cương, người ta đâu cảm thấy mệt.”

Trong đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Thánh Marcô thuật lại 2 mẩu truyện: Chúa tiên báo về cuộc khổ nạn của Chúa, và các môn đệ tranh luận xem ai là người lớn nhất. Điều có lẽ làm chúng ta hơi lạ là tại sao Chúa vừa tiên báo là Chúa sẽ phải chết, một tin quan trọng như vậy, thì cho dù các môn đệ không dám hỏi Chúa, ít ra, cái tin Chúa sẽ chết phải là đề tài cho các vị bàn luận với nhau. Thế nhưng các vị lại bàn tán xem ai là người cao trọng nhất. Dù sao, Chúa đã dùng cơ hội này để dạy các môn đệ một bài học về vai trò phục vụ trong Nước Chúa: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người… Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy.”

Đối với xã hội Do thái, một trẻ nhỏ được đặt ngang hàng với một người nô lệ, và chỉ sau khi đến tuổi trưởng thành, người đó mới trở thành người tự do và được quyền hưởng gia tài cha mẹ để lại. Nên khi Chúa dậy các môn đệ đón tiếp cả các trẻ nhỏ, những người bị coi là hèn kém nhất trong xã hội, đó là Chúa dậy các môn đệ phục vụ mọi người, không trừ một ai.

Khi Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5 tháng 9 năm 1997, Mẹ đã sống gần 50 năm giữa những người nghèo nhất trong những người nghèo trên thế giới. Mẹ đã tận tâm hy sinh phục vụ những người nghèo đói, bệnh tật, sắp chết, què quặt, những người thiếu tình thương. Mẹ cho họ nơi ăn chỗ ở, băng bó vết thương cho họ, và nhất là Mẹ ban cho họ tình thương, giúp họ lấy lại được nhân phẩm mà họ đã mất đi vì tình trạng túng bấn của họ. Chắc chắn không phải dễ gì mà Mẹ Têrêsa đã kiên trì làm việc này trong một thời gian lâu dài như vậy. Mẹ đã tìm được nghị lực để làm được điều đó nơi Chúa Giêsu, Đấng Mẹ đã hằng suy ngắm và cố gắng noi gương bắt chước.

“Con Người đến không để được phục vụ, nhưng để phục vụ…” (Mt 20:28), Chúa Giêsu đã dạy và Chúa đã thực hiện đúng như vậy. Chúa đã hạ mình xuống để rửa chân cho các môn đệ, cả kẻ rồi đây sẽ nộp Chúa, và Chúa đã dạy các môn đệ: “Ta là Chúa và là Thầy mà đã rửa chân cho các con, các con hãy rửa chân cho nhau” (Jn 13:14). Và rõ ràng hơn cả, là Chúa đã chịu khổ nạn và chịu chết để mua chuộc ơn cứu độ cho con người. Đó là tột đỉnh của sự phục vụ, dám hy sinh mạng sống vì người mình yêu (xem Jn 15:13).

Dám xả thân hy sinh phục vụ tha nhân, có lẽ đó là một đức tính thiếu vắng nơi con người ngày nay. Trong gia đình, khi phải phục vụ, đó cũng chỉ là miễn cưỡng phải làm; còn khi có thể, thì chỉ tay năm ngón, mắt dính vào TV hay tờ báo, tay cầm ly cà-phê, ngồi thảnh thơi trong chiếc ghế bành. Khi ra ngoài xã hội, nếu khi nào có ra tay nghĩa hiệp, cũng chỉ là để thu hoạch những lợi ích cá nhân. Thực ra, cũng có những người hoàn toàn quên mình để phục vụ người khác theo gương Chúa Giêsu. Họ phục vụ trong yêu thương. Họ phục vụ vì nhận ra hình ảnh Chúa Giêsu nơi tha nhân, nơi những người mà Chúa đã ban cho làm bạn đồng hành với họ trong cuộc sống, cho dù người đó là một người thân yêu trong gia đình, trong cùng giáo xứ hay cộng đoàn, trong cùng xưởng thợ, hay một người cần đến bàn tay yêu thương của họ.

Rabbi Menachem Scheneerson đã coi việc giúp đỡ những người bộ hành trên đường phố tìm ra được một chút ý nghĩa cho cuộc sống là đang đếm kim cương. Mẹ Têrêsa coi việc giúp đỡ những người cùng khốn nhất trong xã hội là đang phục vụ chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã hy sinh chính bản thân mình để đem lại sự sống mới cho toàn thể loài người. Đó là những mẫu gương đáng cho chúng ta noi theo bắt chước.

 

59. Thủ lãnh là người tôi tớ – Lm. Minh Vận.

Bác sĩ Charles Mayo đã sáng lập một bệnh viện mang tên Mayo Hospital tại Rochester Minnesota. Đây là một bệnh viện nổi tiếng vào bậc nhất tại Mỹ Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Một ngày kia có một nhóm chuyên viên từ Âu Châu tới thăm viếng và nghiên cứu tại bệnh viện này, rồi ngủ đêm tại tư dinh của bác sĩ Mayo. Theo tục lệ của xứ sở này, trước khi đi ngủ, những người khách để tất cả giầy dép của họ ngoài cửa phòng, để ban đêm chủ nhà sai các tôi tớ lau chùi và đánh bóng tất cả cho họ. Hôm đó, bác sĩ Mayo vì bận rộn tiếp khách, ông đi ngủ sau hết mọi người, khi đi ngang qua các phòng ngủ của khách, thấy những đôi giầy của khách để cả ngoài cửa; chính ông đã thu tất cả các đôi giầy của họ, đem vào bếp một mình cặm cụi lau chùi, đánh bóng… Xong việc, ông mới nhìn đồng hồ để đi ngủ thì té ra đã gần sáng.

  1. MỘT BÀI HỌC CẦN THIẾT

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa và các môn đệ Người đang từ trên núi xuống, đi ngang qua xứ Galilêa về Caphanaum. Dọc đường, Thầy trò trao đổi tâm tình về việc Chúa sẽ bị nộp và bị giết chết, rồi ngày thứ ba Người sẽ sống lại… Khi về tới Caphanaum, theo tục lệ thường quen lúc vừa vào trong nhà, Thầy trò lại ngồi quây quần bên nhau tâm sự sau một cuộc hành trình mệt mỏi.

Chúa hỏi: “Hôm nay, dọc đường các con tranh luận với nhau điều gì vậy?” (Mc 9:30-37)

Các ông làm thinh, không dám hở miệng. Quả thực, với một quan niệm quá trần gian và tâm trí quá phàm tục, giống như hầu hết những người Do Thái thời đó, họ mơ tưởng rằng: Chúa Kitô đến trần gian là để giải thoát dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ người Roma, biến Do Thái thành một vương quốc uy hùng bá chủ hoàn cầu. Vì thế, các môn đệ đã nuôi một tham vọng được giữ các chức vị quan trọng trong triều đình, chung quanh Thầy mình là Vua trên muôn vua… Mặc dầu nhiều lần Chúa đã tỏ cho các ông biết những đau khổ và cái chết của Ngài sẽ phải chịu, mà tâm trí phàm tục của các ông vẫn chưa hiểu. Nhân dịp này, Chúa muốn dạy cho các môn đệ một bài học.

Chúa nói với các ông: “Ai trong các con muốn làm Thủ Lãnh, thì hãy tự làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người” (Mc 9:34).

  1. MỘT MẪU GƯƠNG CAO CẢ CỦA CHÚA

Sau lời giáo huấn đó, Chúa còn dùng một hình ảnh cụ thể sống động để nêu cho các ông một tấm gương, khi gọi một em bé tới, đặt giữa các ông, ôm nó vào lòng và nói với các ông: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Khi dạy những lời này, Chúa có ý đồng hóa con trẻ với chính mình Ngài, để dập tắt cái tham vọng kiêu căng và mở trí lòng các ông dễ dàng đón nhận mẫu gương cao cả Ngài sắp mạc khải cho các ông.

Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa đã tha thiết bày tỏ tâm tình với các môn đệ: “Các con gọi Thầy là Chúa và là Thầy, điều đó rất thật. Thầy thật có như thế. Dầu vậy, Thầy ở giữa các con như kẻ tôi tớ, như người hầu hạ”. Chúa còn quả quyết: “Thầy đến trần gian không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ kẻ khác và nên giá cứu chuộc cho nhiều người”. Sau những lời tâm huyết đó, Chúa kết luận: “Vậy Thầy đã làm gương cho các con, các con cũng hãy bắt chước và làm như Thầy đã làm”.

III. ÁP DỤNG VÀO CUỘC SỐNG

Bài Tin Mừng hôm nay nói đến người Tôi Tớ Thiên Chúa, như chính tiên tri Isaia thường dùng để chỉ về Chúa Kitô, vì Người là Chúa mà đã trở nên thân phận tôi đòi của mọi người để cứu rỗi mọi người (Is 40:55) và (Act 3:13. 3:26. 4:27-30).

Chúa muốn chúng ta cũng hãy noi gương Chúa, trở nên tôi tớ phục vụ anh chị em, phục vụ các linh hồn theo nghĩa vụ và sứ mạng Chúa đã ủy thác cho mỗi người, để cứu rỗi và thánh hóa mọi người như Chúa đã làm gương.

Tuân theo giáo huấn và noi gương mẫu của Thầy Chí Thánh, Giáo Hội hằng cố gắng áp dụng vào cuộc sống hằng ngày, để thực thi các nghĩa vụ Chúa trao phó trong tinh thần phục vụ cách khiêm nhu; vì thế, chúng ta thường thấy: Các Đức Giáo Hoàng luôn tự xưng: “Tôi tớ của các tôi tớ Chúa”. Các Thánh cũng đều theo gương Chúa và trong khi thi hành sứ vụ tông đồ, các ngài cố gắng trở nên tôi tớ phục vụ mọi người, để chinh phục họ về với Chúa. Còn chúng ta, nếu chúng ta là những bậc phụ huynh, với tinh thần Đức Tin nhìn nhận con cái chúng ta là ân huệ Thiên Chúa trao ban, chúng ta hãy phục vụ con cái bằng một tình yêu thương của Thiên Chúa, chắc chắn con cái chúng ta sẽ trở nên người tốt, vì được truyền thụ bởi gương mẫu tốt lành, lòng đạo đức và khiêm nhu của cha mẹ.

Kết Luận

Vậy mỗi người chúng ta cũng hãy thực thi bài học Chúa dạy và cố gắng noi theo mẫu gương Chúa đã để lại cho chúng ta hôm này, để mỗi người chúng ta hãy cố gắng tự trở nên tôi tớ của tha nhân, tùy theo nghĩa vụ của mỗi người để chinh phục họ về cho Chúa.

 

60. Con Người bị nộp vào tay người đời

(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Ở Mc 9,31, chúng ta có một bản văn lặp lại lời loan báo Thương Khó ở 8,31. Tác giả cũng nhắc lại tình trạng không hiểu biết của các môn đệ, mà ta đã thấy được tỏ lộ nơi phản ứng của Phêrô trên núi (9,5; x. 10,32). Ghi chú về địa lý của chuyến băng ngang miền Galilê nhằm nhắc nhớ rằng kể từ 8,27, Đức Giêsu không quay trở lại miền này nữa; Người đang trên đường đi lên Giêrusalem. Đức Giêsu không muốn bị níu kéo vô ích trong cuộc hành trình này. Quả đúng là theo 9,33, Người lại có mặt ở Caphácnaum, nhưng ta không thể nói về một hoạt động mới ở Galilê nữa. Những gì xảy ra ở Caphácnaum chỉ liên hệ đến các môn đệ mà thôi.

2.- Bố cục

Bản văn này có thể chia thành hai phần:

1) Loan báo Thương Khó lần thứ hai (9,30-32);

2) Giáo huấn về đời môn đệ (9,33-37).

Phần hai là khởi đầu của một bài diễn từ đa tạp kéo dài tới c. 50. Khối này, dường như có trước TM Mc được đặt trong Diễn từ về Đời sống cộng đoàn trong TM Mt (ch. 18). Mc tìm cách tạo sự thống nhất cho đoạn này bằng cách ghép vào một vài ghi chú tiêu biểu của ngài (c. 30: bí mật; c. 31: dạy; c. 32: các môn đệ không hiểu và sợ; c. 35: “nhà” đối lại với “đường”; c. 34: cãi nhau).

3.- Vài điểm chú giải

– băng qua (30): Động từ paraporeuomai là một từ được tác giả ưa chuộng, bởi vì động từ này được dùng 5 lần trong Tân Ước, thì 4 lần ở trong TM II.

– Bị nộp (31): Ta có thể nghĩ đến ngôn sứ Giêrêmia (Gr 26,24), đến những Thánh vịnh về người trung hiếu đau khổ (Tv 70/71,4; Tv 139/140,5) và đến “các thánh của Đấng Tối Cao bị nộp” vào tay vua Antiôkhô Êpiphanê (Đn 7,22-25). Vậy cuộc Thương Khó của Đức Giêsu sẽ cô đọng và thể hiện trọn vẹn sự đau khổ của những người công chính, thân phận bị bách hại của các ngôn sứ, cái chết của những vị tử đạo.

Động từ nộp (paradidômi) là động từ chuyên môn để nói về sự phản bội (Giuđa “nộp” Đức Giêsu cho các thượng tế: 14,10; các vị này “nộp” Người cho Philatô: 15,1.10; ông này lại “nộp” Người cho lính: 15,15). Đức Giêsu liên tiếp bị chuyển cho quyền hành của mọi lực lượng gian ác: “bàn tay” là biểu tượng của quyền hành, quyền lực, (x. 9,13 nói về Êlia-Gioan Tẩy Giả, nhưng cũng là báo trước số phận của chính Người). Lời loan báo thứ ba sẽ nói chi tiết; và đây là một chướng kỳ quá lớn: một người Do Thái bị những người Do Thái nộp cho Dân ngoại, một sứ giả của Thiên Chúa bị nộp cho người ngoại giáo!

Cho đến lúc này, người ta vẫn có thể hiểu lời loan báo này liên hệ đến những sáng kiến và những trách nhiệm của loài người (Mc 14,21; x. Ga 19,11). Thế nhưng lời nói ở thái bị động (paradidotai, “sẽ bị nộp”) còn là một kiểu nói quanh để chỉ hành động của Thiên Chúa. Nếu vậy: “Thiên Chúa sẽ nộp Con Người vào tay loài người”, không phải là sự gian ác đang hoành hành và thắng thế, nhưng là chính chương trình của Thiên Chúa đang được thực thi xuyên qua sự ngang trái (x. Ga 3,16; Rm 8,32)! Đức Giêsu ý thức Người đang đi vào cuộc Thương Khó như biến cố trung tâm của chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

– Khi về tới nhà (33): Để các ông có thể trở thành môn đệ thực sự, cần phải có một sự dẫn nhập. Chủ đề “ngôi nhà” có mục tiêu ấy. Thường thường, Mc không xác định ngôi nhà ở đâu, nhưng xác định chức năng của ngôi nhà: nơi Đức Giêsu quy tụ môn đệ (3,20.31-35), những cuộc trò chuyện riêng tư và những giải thích dành riêng (7,17; 9,28; 10,10; x. 4,10.34), xa cách đám đông và các đối thủ. Thế nhưng lần này tác giả xác định ngôi nhà ở Caphácnaum: phải chăng là nhà Simôn (1,21-29; 2,1), là biểu tượng của cộng đoàn Giáo Hội?

– Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại (35): “Ngồi” là tư thế của vị thầy khi giảng dạy (x. c. 35; 4,1; Mt 5,1; Lc 4,20; 5,3;…); Người sẽ chỉ trỗi dậy khi xong câu truyện (10,1: anastas). Chi tiết “gọi Nhóm Mười Hai lại” không hợp lý, khi mà Đức Giêsu đã đang ở trong nhà với các ông. Nhưng cử chỉ ra lệnh này rất có thể nhằm nêu bật tầm quan trọng của lời giáo huấn.

Ai muốn làm người đứng đầu … làm người phục vụ (diakonos) mọi người: Xem 10,43-44. Đức Giêsu không loại bỏ ý muốn là người đứng đầu, nhưng Người chỉ cho thấy con đường đúng đắn đưa tới đó. Lý tưởng về lãnh đạo như là phục vụ sẽ được Đức Giêsu nêu gương trong phần Tin Mừng còn lại. Khi nói đến “diakonos”, Người xác định kiểu phục vụ. Người không nhắm đến việc phục vụ cưỡng chế của người nô lệ (doulos) mà là việc phục vụ tự do của người tôi tớ, do chính người này muốn và thích; công việc này đòi hỏi sự chú tâm trọn vẹn và tất cả các khả năng của người ấy để mưu ích cho người khác.

– một em nhỏ (36): Em nhỏ ở đây không phải là biểu tượng của sự vô tội hoặc khiêm nhường, nhưng là biểu tượng của một người không có quy chế pháp lý nên không được trợ giúp (yếu thế). Đứa bé không thể làm gì cho người môn đệ. Đón tiếp một em nhỏ là làm một việc tốt cho một con người không đáng kể, mà không mong được đền đáp. Đây không phải là cho một món bố thí rồi bảo họ đi, nhưng là săn sóc và chịu trách nhiệm về họ.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Loan báo Thương Khó lần thứ hai (30-32)

So sánh với Mc 8,31 và 10,32-34, ta thấy Lời loan báo thứ hai này ít chính xác hơn cả, lại ngắn hơn, nên rất có thể là lời ở tại gốc. Hơn nữa, câu này còn có kiểu chơi chữ “Con Người/người” và kiểu nói quanh theo thái bị động để diễn tả hành động của Thiên Chúa (“bị nộp”). Tất cả những chi tiết đó chứng tỏ câu này có một nguồn gốc A-ram.

Với lời tiên báo thứ hai này về Thương Khó, tác giả Mc có thể quy hướng hoạt động của Đức Giêsu về Giêrusalem cách dứt khoát hơn. Galilê không còn có thể cầm giữ Đức Giêsu nữa. Các môn đệ đi theo Thầy trên đường Người đi. Ai bịt tai lại thì sẽ không nắm bắt được các đòi hỏi tương lai.

* Giáo huấn về đời môn đệ (33-37)

Phân đoạn này bắt đầu với một xác định chính xác về địa điểm: Caphácnaum. Tuy nhiên, những gì tiếp đó không được liên kết với nơi ấy, mà có thể được nói ở bất cứ nơi đâu. Chi tiết địa lý này nhằm tạo cơ hội để Đức Giêsu ban cho các môn đệ một bài học tại địa điểm quen thuộc nhất của miền Galilê.

Đức Giêsu đã chọn ví dụ về phục vụ này vì vào thời của Người, các trẻ em bị coi như là những kẻ thấp bé nhất và bị khinh thường; với ví dụ về em bé, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ thấy rằng các ông phải phục vụ cả những người thấp bé cùng rốt nhất. Người đã thiết lập một tiêu chuẩn tổng quát để phân biệt điều thất sự quan trọng và đúng đắn trong đời sống và trong lối cử xử của con người.

Các môn đệ phải tiếp đón Nước Thiên Chúa như các trẻ em, có nghĩa là các ông không thể đi vào đó bằng sức lực riêng. Cũng như các em bé, các ông phải cảm thấy mình được tình yêu của Thiên Chúa che chở, bảo vệ, và phải để cho mình được Thiên Chúa lấp đầy bằng những ân huệ. Chính Đức Giêsu vẫn quay về với Thiên Chúa như về với Người Cha đầy tình yêu thương (Abba) (14,36) và biết rằng Người được Cha che chở bằng tình yêu của Cha.

+ Kết luận

Chỉ có Mc mới đặt ba lời loan báo Thương Khó và Phục Sinh “trên đường”, trong khung cảnh một cuộc hành trình đưa Đức Giêsu cùng với các môn đệ khởi hành từ Xêdarê Philípphê đến tận vùng cực bắc, xuyên qua miền Galilê, đến tận Giêrusalem qua nẻo Giêrikhô. Rõ ràng ngài muốn dạy chúng ta rằng kể từ lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Giêsu chính thức đi vào bước thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và mạc khải dứt khoát về bản thân Người cũng như công việc của Người, bằng cách dấn vào một nẻo đường mới sẽ đưa Người đến cái chết. Nẻo đường của Con Người, nẻo đường Khổ Nạn, là một nghịch lý huyền bí chỉ được vén mở trong sự kín đáo.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Đức Giêsu muốn lôi kéo tất cả những bạn đường của Người đi trên con đường này. Đến lời loan báo thứ ba, ta thấy Người đi đầu, một mình, còn các môn đệ đi theo sau, kinh hoàng. Chính Người hỏi đầu tiên, nhưng họ thì im lặng. Rõ ràng họ thật vất vả khi phải theo Người trên nẻo đường này. Con đường là khung cảnh giúp hiểu sự cương quyết của Đức Giêsu đi thi hành thánh ý Chúa Cha, cho thấy sự cách biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ cũng như tâm trạng thực của các ông. Như các môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta sợ hãi khi Người cho chúng ta thấy Người là “người tôi tớ” hiến mạng sống vì chúng ta; vì chúng ta muốn tiếp tục yên ổn đọc kinh và làm các nghi thức thay vì suy nghĩ và dấn thân theo các đòi hỏi của Tin Mừng.
  2. Người môn đệ được khai tâm để có phong cách người tôi tớ trong và do cộng đoàn: tại đó, người ấy sẽ học thay thế mối bận tâm về chỗ nhất gây chia rẽ và đối lập, bằng nỗ lực tìm kiếm chỗ chót, như phương thế duy nhất để kiến tạo được sự hoà thuận khắp nơi (x. 9,50). Như thế, người ấy sẽ có thể thật sự bước theo Đức Giêsu trên nẻo đường tiến về Giêrusalem. Sự cao cả được đo lường không phải bằng thành công và danh tiếng, nhưng bằng giá trị của công việc phục vụ ta cống hiến.
  3. Các trẻ em có thể được coi như một địa chấn đồ (sismographes) của xã hội loài người. Nếu các em phát triển bình thường, điều đó chứng tỏ tương quan giữa những người lớn đang lành mạnh; nếu các em trở nên bất bình thường, điều đó cho thấy lối sống của người lớn có gì sai trái, méo mó. Thật ra, tất cả những gì gây tổn hại cho các trẻ em thì cũng chẳng xây dựng gì cho người lớn.
  4. Bằng cách lấy một em bé làm điển hình, Đức Giêsu muốn tất cả chúng ta hiểu rằng cộng đoàn Kitô hữu phải đặt những người không đáng kể, những người nghèo nhất, tại trung tâm của các mối quan tâm của họ, của sự bạn tâm của họ. Chúng ta có thể yêu thương, “ôm lấy” những con người bị loại trừ, như thánh Phanxicô Assisi ngày xưa đã ôm hôn người phong cùi chăng?

 

61. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.

LẦN THỨ HAI LOAN BÁO VỀ CUỘC KHỔ NẠN (9,29-32)

Điểm khởi hành của Chúa Giêsu không được xác định rõ. Tuy nhiên ghi chú địa lý lần trước cho thấy Ngài đang hiện đang ở miền cực bắc xứ Phalestin tức miền Cêsarê Phillipphê (8,27). Như thế là Chúa Giêsu băng ngang khắp miền Gialilê với các môn đệ Ngài (c. 30a) theo hướng bắc – nam. Ngài đang thực hiện điều mà người ta thường gọi là “cuộc tiến về Giêrusalem”. Giống như Matthêu và Luca, Maccô chỉ ghi nhận một hành trình duy nhất của Chúa Giêsu tiến về Giuđê và thủ đô Israel (9.30-11,1). Cuộc hành trình tối hậu này sẽ dẫn Chúa Giêsu tới định mệnh đẫm máu của Ngài. Nhưng Ngài “không muốn cho thiên hạ biết” (c.30b). Luôn luôn quy luật “bí mật Mêsia” được nêu ra. Quần chúng Galilê đã nhận được từ Chúa Giêsu những lời nói và phép lạ minh chứng đầy đủ về sứ mệnh Mêsia của Ngài. Thế mà họ đã không hoán cải. Giờ đây Chúa Giêsu phải cống hiến hoàn toàn cho việc dạy dỗ các môn đệ Ngài để, nếu có thể, dẫn dắt họ đón nhận viễn cảnh một Đấng Mêsia bị dân tộc mình ruồng bỏ (c.31a).

Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu loan báo cho các bạn hữu mình về cuộc khổ nạn. Ngài sử dụng lại các từ ngữ hầu như y hệt lần trước (x. 8,31). “Con Người” sẽ bị “nộp vào tay người ta. Động từ “nộp” dùng ở đây có nghĩa rất mạnh. Ngài sẽ bị ai nộp? Về sau Maccô sẽ xác nhận rõ những người nào sẽ bị nộp Chúa Giêsu để đưa Ngài đến cái chết: đó là Giuđa (14,10), các thượng tế (15,1) và Philatô (15,15). Tuy nhiên, ở đây hình thức động từ nằm ở thể thụ động: Chúa Giêsu sẽ “bị nộp”. Đây là một cách thức rất thông dụng dân Do Thái thường dùng để chỉ Thiên Chúa là tác nhân mà tránh không nêu danh Người ra vì lòng tôn kính. Cần phải nhớ kỹ rằng: Cái chết của Chúa Giêsu có thể quy trách cho những kẻ tội lỗi gây ra trong lịch sử. Các Kitô hữu cắt nghĩa “điều chướng kỳ” này bằng cách cho thấy nó nằm trong ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đây là điều mà công thức đột ngột được dùng trong lần loan báo đầu tiên muốn đề cập: con người “phải” chịu khổ và chết (8,31). Cũng như lần trước, lần này lời hứa Phục sinh thêm vào ngay sau đó (c.31b) cũng chẳng an ủi được các môn đệ trước viễn cảnh đớn đau của cái chết. Các bạn hữu của Chúa Giêsu vẫn khư khư chẳng hiểu gì lời giáo huấn của Thày mình (c. 32). Đây là chủ đề về “sự ngu muội” của các môn đệ trước nỗ lực liên lỷ của Chúa Giêsu nhằm dẫn dắt họ hiểu ra được định mệnh của Ngài. Như chúng ta từng thấy, Phêrô đã biểu lộ sự phản kháng thực sự trước lời loan báo về cái chết của Chúa Giêsu (x. 8,32). Lần này, sự “khép lòng” của các môn đệ được ghi nhận qua nỗi sợ hãi không dám “hỏi Ngài”, họ tránh né mọi cuộc trao đổi với Ngài về những thử thách đang chờ đợi Ngài. Như thế, độc giả có thể hiểu được rằng quả thực là khó khăn khi phải trực diện với cái chết.

VẤN ĐỀ ĐỊA LÝ TRONG PHÚC ÂM MACCÔ

Tác giả Phúc Âm đã đóng khung cuộc đời Chúa Giêsu trong môt ranh giới rất đơn giản ở đó người ta thấy lộ rõ ra hai cực: Galilê và Giêrusalem. Thực thế, sau khi chịu phép rửa ở sông Giođan (1,9). Chúa Giêsu đã thi hành sứ vụ của mình ở Galilê, nằm ở mạn bắc xứ Palestin (1,14-9,29). Chỉ mãi về sau Ngài mới băng ngang Galiê theo hướng nam để “lên” Giêrusalem, thủ phủ xứ Giuđêa (9,30). Chính ở đó Ngài sẽ đương đầu với các nhà cầm quyền tôn giáo của dân tộc mình để rồi trải qua cuộc khổ nạn và Phục Sinh (11,10-16,8).

Lộ trình theo sát đường kẻ kiểu này chắc chắn là sản phẩm của một sự “khái quát hóa”, bởi vì theo như Phúc Âm của Gioan cho biết, sứ vụ của Đấng Mêsia trải dài trên hoặc ba năm. Chắc hẳn Chúa Giêsu đã lên Giêrusalem nhiều lần theo như tập tục vào các dịp lễ của người Do Thái (x. Ga 5,1; 7,2; 10,22; 12,12).

Như thế, nơi Phúc Âm Maccô, địa lý đã được dùng để “phục vụ” cho một ý đồ cao siêu. Quả thực đối với Maccô, Galilê và Giêrusalem là hai địa danh đối kháng nhau, mỗi nơi mang một ý nghĩa riêng biệt. Galilê là nơi Chúa mở đầu sứ vụ và đồng thời là nơi Chúa thi hành sứ vụ, rao giảng cho dân ngoại. Từ thời Cựu Ước, thành phố mạn bắc này từng chịu nhiều cuộc xâm lăng của ngoại bang. Chỉ danh xưng của nó cũng nói lên được điều này: đây là một “khu vực thuộc các dân tộc” chen vai thích cánh với nhau (Is 8,23). Vậy mà chính tại Galilê Chúa Giêsu đã được dưỡng nuôi (ở Nadaret: Lc 4,16). Tại đây Ngài đã khai mạc sứ vụ (1,14). Ngài đã thiết lập ở Caphanaum và bên bờ hồ Tibêria, căn cứ hoạt động và giảng dạy của Ngài (1,16; 2,1.13; 4,1). Ở phần đầu Phúc Âm, người ta thấy đoàn lũ dân chúng Galilê hồ hởi đón nghe và theo dõi các phép lạ Chúa Giêsu ban phát cho họ.

Tuy nhiên, từ chỗ đó, Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ Ngài vượt qua các biên giới. Ngài cùng họ vượt hồ Tibêria, từ bờ bên mạn tây thuộc Do Thái đi qua bờ mạn đông thuộc dân ngoại. Với hành vi lặp đi lặp lại này, Ngài không ngừng kêu mời họ mở rộng tầm nhìn để mang Tin Mừng đến với đám dân ngoại (xem toàn bộ từ 4,35-5,20). Càng bành trướng sứ vụ Chúa Giêsu càng gia tăng việc di chuyển đến những vùng không thuộc dân Do Thái chẳng hạn vùng Phênixi (hiện là Liban), vùng Tirô và Siđon (7,24.31a) hay vùng Thập Tỉnh, hiện nay là Giocđani (7,31b).

Qua việc thực hiện các chuyến đi ngắn hoặc dài nơi vùng đất dân ngoại, Chúa Giêsu muốn tập cho các bạn hữu mình quen với tư tưởng rằng Ngài không chỉ là Đấng Mêsia của dân Do Thái mà còn của dân ngoại nữa. Các vị hữu trách tương lai của Giáo Hội phải ý thức rằng Chúa Giêsu mang đến ơn cứu độ phổ quát. Đây chính là ý nghĩa lần hóa bánh ra nhiều lần thứ hai được Chúa Giêsu thực hiện ở mạn đông sông Giocđan (8,1-9), nơi đây Chúa Giêsu đã mở ra bàn tiệc Lời Ngài và ân sủng Ngài cho một dân tộc bên ngoài dân riêng của Chúa. Cũng không phải tình cờ mà ngay tại Betsaiđa, vùng đất dân ngoại, Chúa Giêsu đã mở mắt cho một người mù (8,22-26), hành vi này được ví như khúc nhạc dạo đầu cho sự khám phá ra thân thế Ngài (điều này được thực hiện ở Cêsarê Philipphê, giữa vùng đất dân ngoại: 8,27-29). Như thế không nên ngạc nhiên tại sao ngay khi vừa sống lại, Chúa Giêsu đã bảo các bạn hữu mình đến gặp Ngài “ở Galilê” là nơi Ngài đang chờ họ để sai họ theo chân Ngài ra đi mang Tin Mừng cho toàn thế giới (16,7-8.15).

Đối nghịch với Galilê, Maccô đã biến Giêrusalem, thủ đô của Do Thái, thành một cực khép kín và chống lại Chúa Giêsu. Ngay từ lúc Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, nhóm luật sĩ và Biệt phái “đến từ Giêrusalem” đã tố cáo là Ngài bị Satan nhập (3,22) nào là Ngài để các môn đệ mình vi phạm các truyền thống cổ xưa (7,1). Chính tại Giêrusalem, trung tâm đức tin Do Thái Chúa Giêsu sắp phải đương đầu gay gắt nhất với đám thủ lĩnh tôn giáo của dân riêng Chúa (11,1-12,40). Cũng chính ở đó Ngài sẽ bị bắt, bị xét xử, bị kết án tử hình và bị hành hình do lời xúi giục của các vị cầm quyền Do Thái cao cấp nhất (14,1-15,47).

Như thế vấn đề địa lý trong Phúc Âm Maccô chứa đựng một bài học sâu sắc: là người theo Chúa Giêsu, các Kitô hữu không được để cho Phúc Âm bị đóng khung trong bất cứ loại thành “Giêrusalem” nào! Họ phải luôn luôn liên kết với Đấng Phục Sinh là Đấng từ bờ hồ Tibêria đã mời gọi họ “ra khơi”. Bởi vì “trong Chúa Kitô không còn phân biệt ai là Do Thái, ai là Hy Lạp nữa” (Thư Phaolô gởi tín hữu Galat 3,28). Ơn cứu độ phải được mang đi từ Giêrusalem và từ Galilê đến tận cùng thế giới.

THEO CHÚA GIÊSU NHƯ THẾ NÀO: CƯ XỬ VỚI TRẺ EM (9,33-37)

Mỗi lần Chúa Giêsu loan báo rõ ràng về cuộc khổ nạn của Ngài (8,31; 9,31) Maccô đều nhấn mạnh đến sự “ngu muội” không hiểu của các môn đệ (8,32; 9,32). Sau đó, Maccô cho thấy Chúa Giêsu cố gắng nhồi nhét vào đầu óc của bạn hữu mình một bài học thích hợp với chủ đề Ngài nêu: muốn bước theo Ngài họ phải trung thành tự hạ như Ngài. Chúa Giêsu đã thực hiện việc dạy dỗ họ về chủ đề này sau lần loan báo thứ nhất về cái chết của Ngài (x.8,34-9,1). Và giờ đây Ngài lại tiếp tục dạy dỗ họ sau lần loan báo thứ hai.

Tác giả Phúc Âm gợi cho thấy đây là thời gian được chọn lựa đặc biệt để thầy trò trao đổi (c.33). Chúa Giêsu và các bạn Ngài về lại khu vực khởi đầu công việc dạy dỗ, ở tại Caphanaum và tại căn nhà cũ (x.2,1-2). Đây là nơi lý tưởng để tiến hành việc dạy dỗ riêng các môn đệ, xa đám đông ồn ào, về chủ đề mới mẻ nhưng khó khăn liên quan đến Đấng Mêsia “Tôi Tớ”. Với tư cách vị Đạo Sư sành sỏi, Chúa Giêsu khởi đầu bằng việc hỏi các môn đệ về đối tượng những “cuộc tranh luận” của họ trong lúc đi đường. Người ta đều biết rằng trong lối giáo dục của các kinh sư Do Thái, việc tranh luận đóng một vai trò quan trọng. Điều mà trong lúc đi đường các môn đệ tranh luận với nhau mang nhiều ý nghĩa. Nghe Chúa Giêsu hỏi, họ im lặng không trả lời. Thực ra họ đã tranh nhau xem ai là người “lớn” nhất (c.34). Maccô thú nhận là các vị này cảm thấy xấu hổ. Họ không dám thú nhận là đang lo tranh giành nhau danh vọng trong lúc Thầy mình thì đang tiến về một tương lai đầy khiêm hạ. Quả là tương phản rõ ràng!

Chúa Giêsu thấy mình có bổn phận can thiệp để tránh cho các môn đệ mình khuynh hướng đua đòi chay theo quyền lực. Ngài cho họ một bài học sống động (c.35a). Maccô diễn tả cho thấy Chúa Giêsu ngồi xuống để biểu lộ cung cách một vị Sư Phụ mà các đệ tử phải chú tâm lắng nghe. Đây là tư thế của người giảng dạy đầy uy quyền (x.4,1). Ngài quy tụ “ nhóm Mười Hai” lại. Lối nói này hiếm khi được Maccô sử dụng(3,14; 6,7). Và khi sử dụng nó Maccô muốn nói rằng các tông đồ là những vị hữu trách tương lai của Giáo Hội. Chúa Giêsu nói với họ một cách hoàn toàn rõ ràng (c.35b). Đại khái trong lời ngỏ với các vị thủ lãnh tương lai của dân Chúa, Chúa Giêsu đã đảo ngược trật tự thông thường của phẩm trật nhân loại. Muốn làm đầu thì phải làm cuối mọi người, muốn chỉ huy thì phải làm “tôi tớ tất cả”. Nghịch lý này rõ ràng chỉ có ý nghĩa qua tấm gương Chúa Giêsu biểu lộ nơi thân thể và sứ mệnh của Ngài. Là Đấng Thủ Lãnh, Ngài đã đặt mình vào vị trí rốt hết để phục vụ mọi người. Sứ điệp của Ngài liệu có được người ta nghe không? Chúa Giêsu tin rằng cần phải minh hoạ lời Ngài nói bằng một cử chỉ có ý nghĩa. Ngài đặt một em bé vào giữa họ rồi ôm lấy em (c.36a). cử chỉ này tạo ra một ảnh hưởng bất ngờ. Dắt một em bé vào giữa đám môn đệ rồi ôm hôn nó: tất cả điều này đi ngược với tập tục đương thời. Xã hội thời xưa không quan tâm đặc biệt đến trẻ em. Ngược lại, trẻ em không được người lớn đối xử như là những “nhân vật” còn non trẻ, người ta thường xem chúng là những sinh vật vô nghĩa. Chúng mà biết nói năng, lý luận gì cho ra trò. Thậm chí họ còn thường xua đuổi, khai trừ chúng ra khỏi cộng đồng tôn giáo vì cho rằng chúng ngu dốt không biết lề luật.

Như thế Chúa Giêsu đã thực hiện hành động phục hồi mang hai chiều kích (con người và tôn giáo) khi Ngài đặt đứa bé – tiêu biểu một hạng người bị khai trừ – vào giữa đám bạn hữu Ngài. Và Ngài nhấn mạnh hành động này bằng một lời nói nặng trĩu ý nghĩa (c.37a). Cộng đoàn Kitô hữu sẽ phải nhớ tới lời này. Nhân danh Chúa Giêsu tiếp nhận một đứa trẻ – ở đây tượng trưng cho kẻ nghèo khó vào mọi kẻ bị khai trừ – chính là tiếp nhận chính Chúa Giêsu. Đây là câu trả lời đầy kinh ngạc Chúa Giêsu dùng để đáp lại câu hỏi được các môn đệ tranh cãi nhau trong lúc đi đường: “Ai là kẻ cao trọng nhất?”. Việc đua đòi danh vọng đã trở nên sỗ sàng đối với những kẻ bước theo Chúa Giêsu vào lúc Ngài đang đi trên con đường khiêm hạ dẫn đến đau khổ và cái chết. Trở nên “tôi tớ” mọi người, mở rộng vòng đai khép kín của Giáo Hội đến tận những kẻ hèn mọn nhất, trơ trụi nhất chính là “sứ vụ” Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ Ngài. Để nhấn mạnh thêm bài học trang trọng này Chúa Giêsu đã kết luận bằng một từ nói về “Sự tiếp đón” (c.37b): Chúa Giêsu chính là sứ giả của Thiên Chúa. Đón nhận Ngài trong bản thân những kẻ bé nhỏ chính là đón nhận chính Thiên Chúa. Thiên Chúa mang khuôn mặt một con trẻ, đó là sứ điệp bất ngờ, rất tân kỳ của trang Phúc Âm khả ái này.

 

62. Chú giải của Noel Quesson.

Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn cho ai biết.

Một lần nữa, chúng ta lặp lại đề tài Chúa muốn ẩn thân. Đức Giêsu không được người ta hiểu, bị đám đông dân chúng bỏ rơi, bây giờ hoàn toàn chỉ chăm lo cách riêng vào việc đào tạo một số môn đệ của Người.

Phát xuất từ những vùng miền Bắc đi về miền Xêxarê Phi-líp-phê, ở nguồn sông Giođan, Đức Giêsu tiến gần về Giê-ru-sa-lem. Người băng qua xứ Galilê mà ở đó cách đây vài tháng Người đã rất thành công, nhưng một sự thành công không rõ rệt. Lần này Người không tìm dịp nói chuyện trước công chúng. Người chỉ nói với các tông đồ, là mầm mống của cộng đoàn Kitô hữu tương lai và những gì Người sắp nói với họ, là chính những luật lệ giúp họ sống trong cộng đoàn Giáo Hội.

Vì Người đang dạy các môn đệ rằng: “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời”.

Trong khi Đức Giêsu không muốn người ta dùng tước vị “Con Thiên Chúa”. Người luôn đúng, nhất là trong giai đoạn thứ hai đời sống tác vụ của Người, tước vị “Con Người”. Ngược lại những gì thoạt tiên chúng ta có thể nghĩ, đây không phải là việc nhấn mạnh đến nhân tính của Đức Giêsu. Thực tế, những Kitô hữu đầu tiên, phát xuất từ đạo Do Thái đã gán cho tước vị này một ý nghĩa sâu đậm: Đối với họ, tước vị này ám chỉ Đấng Mêsia do ngôn sứ Đanien đã báo trước (7,13-14). “Con Người” này có nguồn cội từ trời, Người từ trên mây trời mà xuống… Người đến nhân danh Thiên Chúa để hoàn tất công trình của Chúa.

Chúng ta thấy cách nói của Đức Giêsu muốn điều chỉnh lại ý niệm mà các tông đồ đã có về Đấng Mêsia. “Con Người Thần Thánh” từ trên mây trời hiện đến cách vinh quang mà các bạn đang mơ ước, thì Đấng đó sẽ bị giao nộp không chút tự vệ “vào tay loài người”. Các bạn chớ nhầm lẫn Đấng Mêsia, chớ nhầm lẫn Thiên Chúa! Đức Giêsu thực sự do Thiên Chúa mà đến, nhưng không phải là Đấng mà loài người thường tưởng nghĩ.

Bị giao nộp.

Một Thiên Chúa ‘bị giao nộp’, một Thiên Chúa được ‘tăng ban’, một Thiên Chúa ‘Tình yêu’ chứ không phải một Thiên Chúa toàn năng, toàn quyền. Chúng ta tin không phải ở một Thiên Chúa toàn năng, nhưng là một Người Cha Toàn Năng, tin ở Đấng đã trao hiến hết mình, Đấng đã giao nộp mình vì chúng ta, mà Thập giá của Đức Giêsu là “mạc khải” rõ ràng và dứt khoát.

Cụm từ “bị giao nộp vì chúng ta” là những từ chủ yếu trong khoa thần học ban sơ. “Bị giao nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính” (Rm 4,25).

“Người đã không tha chính con của Người, mà đã giao nộp cho tất cả chúng ta” (Rm 8,32).

“Người đã thương yêu và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20).

“Anh em hãy sống trong tình bác ái như Chúa Kitô đã thương yêu chúng ta và đã nộp mình” (Ep 5,2).

“Chúa đã giao nộp Người vì tội của chúng ta” (Is 53,2).

Chứng từ này được nhắc lại cho chúng ta mỗi khi cử hành Thánh Thể; “Đây là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con”.

Họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau, Người sẽ sống lại.

Kể từ lúc Thánh Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêxarê Phi-líp-phê, thì đây là việc loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó. Toàn thể Tin Mừng của Maccô dẫn đưa chúng ta đến chóp đỉnh này: Sự tử nạn và Phục sinh. Đó là trọng tâm kinh Tin kính của chúng ta: Hai biến cố lịch sử. Đây thật là tiểu sử lạ lùng của một con người. Không phải sự sống của Người là quan trọng mà là “cái chết” của Người và việc Người “sống mãi”. Chúng ta không thể không lưu ý con người đó luôn luôn báo trước, cùng một lúc và một cách bình tĩnh rằng, Người sẽ “sống lại” sau khi chết. Đó cũng như Người coi cuộc sống thứ nhất của Người ở Palestine thời đó, không phải là cuộc sống quan trọng nhất.

Ngày nay, chúng ta có thực sự tin rằng Đức Giêsu vẫn đang sống không?

Mầu nhiệm Phục sinh là cốt yếu của Đức tin chúng ta. Và đó là đặc quyền duy nhất và căn cốt của Đức Giêsu. Không có một vĩ nhân nào khác dám tự phụ giải phóng được con người, khỏi định mệnh cuối cùng, là cái chết. Cả Đức Phật và Mahômét hay bất cứ một chủ thuyết nhân bản nào khác, cũng không đưa ra được một giải pháp trước thái độ lo âu lớn lao của con người luôn biết mình sẽ phải chết. Chỉ có Đức Giêsu, một cách bình tĩnh và chân thành đã dám nói: “Họ sẽ giết Tôi, nhưng Tôi sẽ sống lại”.

Đó là ánh sáng chủ yếu Chúa đã soi chiếu trên cái chết: Đức Giêsu biết rằng đó không phải là chấm dứt tất cả. Người biết những gì đang chờ đợi Người. Khi trải qua giây phút bi thảm của “hơi thở cuối cùng”, Đức Giêsu biết rằng Người không rơi vào hố đen của hư vô, nhưng vào vòng tay của Chúa Cha. Và điều đó đã dệt nên bài ca hy vọng của người Kitô hữu trong nghi thức từ biệt cuối cùng với người chết: “Chúa Cha đợi bạn, và cánh tay của Thiên Chúa sẽ mở ra đón bạn”.

Chúng ta cứ tin chắc rằng cái chết là như vậy không? Đây là sứ điệp của mọi người tử vì đạo. Đó là niềm tin vững chắc của những tín hữu đích thực. Nhưng các môn đệ không hiểu lời ấy, lại sợ không dám hỏi Chúa. Tin Mừng không hề tô vẽ cho các tông đồ. Đó cũng là những con người đáng thương như chúng ta. Thánh Maccô không những nhấn mạnh đến trí óc trì trệ, nông cạn, hẹp hòi của các ông. “Họ không hiểu”(Mc 6,52; 8,17; 8,21; 9,32). Do đó nhóm Mười Hai là một tiêu biểu cho những con người thông thường, trung bình. Người ta tự hỏi làm sao Giáo Hội và suốt dòng lịch sử vĩ đại của Giáo Hội, lại phát sinh từ những tưởng tượng và dự án của các tông đồ được. Quả thực các ông đã được một biến cố thay đổi. Các ông đã được nâng lên cao khỏi chính mình, và được một sức mạnh mới bao bọc. Và luôn diễn ra như thế đối với Giáo Hội.

Nếu chỉ là một Giáo Hội của loài người, thì Giáo Hội đã bị tiêu diệt từ lâu bởi những khiếm khuyết và tội lỗi của các nhà lãnh đạo và thành phần của Giáo Hội. Nhưng chúng ta có nên xét đoán Giáo Hội đơn thuần theo quan điểm của con người không?

Trong lúc này, các tông đồ đã sợ Đức Giêsu và họ giữ một thứ im lặng đến khó chịu “họ đã sợ không dám hỏi Chúa”.

Đức Giêsu và các môn đệ đến thành phố Caphácnaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã tranh luận với nhau về chuyện gì vậy?”. Các ông làm thinh.

Các ông chưa nói được lời nào. Các ông giữ im lặng trước câu hỏi của Chúa. Sự “lúng túng” giữa họ trở nên nặng nề như trong một nhóm mà người ta không còn đồng ý với nhau nữa.

Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau về chuyện ai là người lớn hơn cả.

Thật là hoàn toàn bất đồng ý kiến với Thầy của họ!

Chúa thì nghĩ đến cái chết của mình, khiến Người “giao nộp” mạng sống. Còn các ông thì chỉ nghĩ đến những “địa vị cao”. Các ông vẫn một mực bám vào quan niệm sai lầm về Đấng Mêsia, và về Thiên Chúa. Các ông vẫn tiếp tục mong chờ một “biến cố vẻ vang”, chứng tỏ quyền năng của Đấng Mêsia, một vương quốc trần gian, mà các ông đã tranh luận xem ai là “thủ tướng” khi Chúa và các ông thắng thế.

Nhưng xin các bạn đừng quá nghiêm khắc xét đoán việc các Ngài không hiểu vai trò của Chúa Giêsu. Mặc dù đã được soi dẫn với ánh sáng Phục sinh, ngày nay, chúng ta có thể nói rằng mình chấp nhận sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên Chúa, sự im lặng của Người, sự thất bại của Thập giá không? Chúng ta không tiếp tục xin Chúa can thiệp để chiến thắng sao?

Rồi Đức Giêsu ngồi xuống, gọi mười hai môn đệ lại mà nói: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”.

Trong cuộc thương khó mà Chúa vừa loan báo, Chúa Giêsu đã tự hạ thành “kẻ sau rốt và là “đầy tớ” của mọi người. Thực sự, Thiên Chúa là như thế. Tại sao lời khẳng định này lại có vẻ như một cậu phạm thượng đối với một số người? Đúng ra, Thiên Chúa là Đấng trên hết, cao cả nhất, nhưng Chúa cũng là “Người đứng đầu trong phục vụ”, Người đứng đầu trong tình yêu.

Các con gọi Ta là Thầy, là Chúa và điều đó phải lắm, vì Ta đúng là như thế, thế mà Ta đã rửa chân cho các con, như một người đầy tớ” (Ga 13,13). Thiên Chúa thực sự là Đấng Toàn Năng, nhưng là Toàn Năng để “phục vụ đến cùng”. “Ta ở giữa các con như một người phục vụ” (Lc 22,27). “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng làm giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10,42-45).

Trong xã hội và tập thể con người (và cũng là luật tự nhiên trong thế giới động vật), người ta thường tìm kiếm sức mạnh, sự kính nể, uy tín, danh dự và quyền lợi. Đức Giêsu lật đổ nhào tận gốc rễ thứ trật tự này: Người “thứ nhất” trở thành “người sau rốt”, “ông chủ” trở nên “đầy tớ”. Chắc chắn Đức Giêsu đã nói một cách có vẻ khiêu khích và cách mạng.

Nhưng một lần nữa, đó không phải là để làm một cuộc “cách mạng” nghĩa là thay đổi “chữ” mà thôi! ở đây, nhằm đưa ra giải pháp thực sự cho nội tâm con người, giúp chế ngự xu hướng tranh đấu không ngừng giữa loài người, để thống trị để đoạt giầu sang, quyền thế, bằng cách đè bẹp người khác.

Người dắt một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai đón tiếp một em nhỏ như em này, vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.

Trong những tập thể chúng ta sống, trong lòng chúng ta và trên thế giới, bạo lực không ngớt gia tăng. Trong cơn thủy triều đen tối đang dâng lên như thế, Đức Giêsu đề nghị cách tượng trưng sự yếu đuối của đứa trẻ như một lý tưởng. Đứa trẻ là sinh vật nhỏ bé trong xã hội, ít được kính nể, và người ta gạt bỏ nó dễ dàng, kể cả bằng cách tội lỗi mà lại hợp pháp. Đứa trẻ đúng là kẻ “nghèo hèn”, không tự vệ được, “bị giao nộp” cho những kẻ mạnh mẽ quyền thế hơn nó. Nhưng Chúa lật ngược những tiêu chuẩn xã hội về quan niệm ngôi thứ: Người ta nói, kẻ sau rốt là kẻ đứng đầu. Bây giờ Người nói tiếp, dưới mắt Thiên Chúa kẻ nhỏ bé lại là người lớn nhất. Đức Giêsu đặt đứa trẻ ở giữa cộng đoàn Kitô hữu.

Tôi dành ít thời giờ để niệm tưởng hình ảnh Đức Giêsu đang vuốt ve và ôm ấp đứa bé này. Sự cao cả của Kitô hữu được đo nghiệm theo phẩm chất của việc phục vụ những người “thấp hèn” nhất, những kẻ kém may mắn nhất. Chúng ta sẽ bị xét đoán theo tiêu chuẩn đó (Mt (25,31). Vả lại, đây không phải là một sự “nô lệ”, vì chúng ta phục vụ Đức Giêsu khi chúng ta phục vụ những kẻ thấp hèn. Và qua Đức Giêsu, chúng ta phục vụ chính “Đấng” đã tạo nên thế gian và đã trao ban Con Một của Người.

 

63. Chú giải mục vụ của William Barclay.

ĐỐI DIỆN VỚI MỤC ĐÍCH (9,30-32)

Đoạn Tin Mừng này đánh dấu một giai đoạn quan trọng. Bây giờ Chúa Giêsu đã lìa khỏi vùng đất phía Bắc là nơi Ngài được an toàn để đi những bước đầu tiên về Giêrusalem và thập giá đang chờ Ngài tại đó. Lần đầu tiên, Ngài không muốn có đám dân đông đảo chung quanh mình. Chúa Giêsu biết rõ Ngài sẽ thất bại, trừ khi Ngài viết được thông điệp của mình trong những người Ngài đã chọn. Bất kỳ một Rabbi nào cũng để lại cho hậu thế một loạt các lời tuyên bố. Nhưng Chúa Giêsu biết chỉ có vậy thì chưa đủ. Ngài phải để lại sau lưng mình một đoàn người mà những lời tuyên bố của Ngài được ghi khắc trên họ. Ngài phải chắc chắn rằng sau khi thân xác Ngài rời bỏ thế gian này, vẫn còn một số người hiểu –dầu chỉ lờ mờ- những gì Ngài từng phán dạy. Lần này, lời cảnh cáo của Ngài gặp thất bại bi thảm, đau lòng hơn. Nếu đối chiếu đoạn này với đoạn trước đây, trong đó Ngài báo trước sự chết của Ngài (Mc 8,31), chúng ta thấy có câu duy nhất này được thêm vào “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời”. Trong nhóm người ít ỏi đó, Ngài vẫn nhìn thấu suốt cách thức mà Giuđa vận dụng tâm trí. Ngài biết rõ hơn Giuđa biết chính mình. Vì thế, khi Ngài phán “Con Người sẽ bị nộp trong tay người đời” chẳng những Ngài thông báo một sự kiện, đưa ra một lời cảnh cáo, mà Ngài còn thực hiện một lời kêu gọi cuối cùng đối với kẻ mưu tình một kế hoạch phản bội Ngài.

Thế nhưng cho đến lúc đó, các môn đệ vẫn chưa hiểu. Điều họ không hiểu nổi là mấy tiếng ngắn ngủi đề cập sự sống lại. Bấy giờ họ đã ý thức được bầu không khí của tấm thảm kịch, nhưng cho đến tận những ngày chót, họ vẫn không nắm được thật chắc chắn sự Phục Sinh. Đây là một việc kỳ diệu quá lớn lao đối với họ, một việc kỳ diệu mà họ chỉ lãnh hội được khi nào nó trở thành một sự kiện đã hoàn tất.

Khi đã không hiểu thì họ cũng không dám hỏi gì thêm. Họ như những kẻ đã biết quá nhiều rồi, nên sợ biết nhiều hơn nữa. Một người có thể nhận được sự chẩn đoán bệnh tình của mình từ bác sĩ, có thể người ấy nghĩ rằng nội dung tổng quát của sự chẩn đoán ấy không được sáng sủa lắm, nhưng không hiểu hết mọi chi tiết, mà lại sợ không dám hỏi gì thêm, đơn giản chỉ vì người ấy sợ không muốn biết thêm. Các môn đệ của Chúa đang lâm vào tình trạng như vậy.

Lắm lúc chúng ta ngạc nhiên, không hiểu tại sao các môn đệ của Chúa lại không lãnh hội được một việc đã được Chúa nói rõ ra như vậy. Tâm trí con người vốn có năng khiếu lạ lùng để loại bỏ điều họ không muốn thấy. Chúng ta có khác gì họ đâu? Bao nhiêu lần chúng ta đã nghe thông điệp Kitô giáo. Chúng ta vẫn biết, tiếp nhận nó là phước hạnh, là vinh quang, cũng biết rằng khước từ nó là thảm họa, nhưng nhiều người trong chúng ta vẫn xa tránh thông điệp ấy không chịu tuân phục hoàn toàn cũng như không chịu uốn nắn cuộc sống chúng ta cho phù hợp với nó. Nhân loại chỉ tiếp nhận phần nào mình thích và phù hợp với mình và từ chối không chịu hiểu phần còn lại.

CAO VỌNG CHÂN CHÍNH (9,33-35)

Không có việc nào cho thấy rõ các môn đệ nhận thức đến đâu về ý nghĩa đích thực của sứ vụ Mêsia bằng sự việc ở đây. Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại với họ những gì đang chờ đợi Ngài tại Giêrusalem. Thế nhưng, họ cứ nghĩ vương quốc của Chúa Giêsu là một vương quốc trên thế gian này và chính họ là các thượng thư, bộ trưởng trong vương quốc ấy. Ý nghĩ của Chúa Giêsu đang tiến về thập giá, còn các môn đệ lại tranh cãi xem ai được quyền cao chức trọng hơn cả. Là một cái gì khiến Chúa hết sức đau lòng. Dù vậy, tự thâm tâm, họ vẫn biết là họ đã sai quấy. Khi Chúa Giêsu hỏi họ đang cãi nhau về chuyện gì thì họ chẳng trả lời. Đó là im lặng vì xấu hổ. Họ không có lý do gì để bào chữa. Thật lạ lùng khi một việc được bày tỏ dưới mắt Chúa Giêsu thì sẽ đâu ra đấy, đồng thời cũng bộc lộ rõ tính chất của chúng. Bao lâu họ nghĩ Chúa Giêsu chẳng lắng nghe, chẳng nhìn thấy thì cuộc cãi nhau về ai lớn nhất nghe có vẻ hay ho, nhưng khi phải tranh luận trước mặt Ngài, họ thấy mọi sự thật vô nghĩa. Nếu chúng ta đem mọi sự đặt dưới mắt Chúa Giêsu, đời sống chúng ta trên thế gian này sẽ trở thành khác hẳn. Nếu trong mọi việc chúng ta đều đặt câu hỏi “Tôi có thể làm việc này dưới con mắt theo dõi của Chúa Giêsu không?”. Nếu trong mọi lời nói, chúng ta đều đặt câu hỏi “Tôi có thể tiếp tục nói thế này nếu Chúa Giêsu đang lắng nghe tôi không”“. Hẳn chúng ta sẽ tránh được vô số việc làm, nhiều lời nói đáng tiếc. Vấn đề là không có chữ “nếu” trong niềm tin Kitô giáo. Mọi việc chúng ta làm, mọi lời chúng ta nói, đếu phơi bày trước mặt Chúa Giêsu. Nguyện Chúa gìn giữ chúng ta khỏi những việc làm, những lời nói khiến chúng ta phải xấu hổ, khi biết Ngài đang nghe và thấy.

Chúa Giêsu đã giải quyết sự việc này thật nghiêm chính. Kinh Thánh chép “Ngài ngồi lại và gọi nhóm Mười Hai đến”. Khi một Rabbi thật sự dạy dỗ với tư cách Rabbi, như một bậc thầy dạy bảo học trò, khi ông muốn tuyên bố một điều quan trọng, vị Rabbi ấy luôn luôn ở tư thế ngồi để giảng dạy. Trước khi ngỏ lời với họ, Chúa Giêsu đặt mình vào tư thế của một Rabbi dạy dỗ học trò. Ngài bảo họ, nếu muốn làm lớn trong Nước Trời thì sẽ được chức vị cao trọng ấy, không phải bằng cách làm sao để đứng đầu, nhưng phải tìm cách làm kẻ đứng sau rốt, không phải tìm cách làm chủ, nhưng phải làm tôi tớ mọi người. Nói thế không phải là Chúa Giêsu xóa bỏ cao vọng, nhưng Ngài chỉ muốn tái tạo và thăng hoa cao vọng. Ngài đã đem cao vọng giúp đờ tha nhân thay thế cho tham vọng bắt người khác phục vụ chính mình.

Đây không phải là một quan điểm lý tưởng không thể thực hiện, nhưng là một quan điểm hết sức phù hợp. Những nhân vật thực sự vĩ đại, những con người luôn luôn được người ta nhớ ơn vì đã thực sự đóng góp cho đời, không phải là những người vẫn tự nhủ thầm “Ta có thể lợi dụng đất nước này, xã hội này để gây thêm uy tín cho riêng ta, thực hiện những tham vọng của riêng ta như thế nào đây?”. Nhưng tự hỏi “ta phải dùng tài năng mình để phục vụ quốc gia dân tộc như nào?”. Sự vĩ đại của một người không phải là việc người ấy leo được đến tột đỉnh các nấc thang của quốc gia, xã hội nhưng ở trong sự kiện người ấy sẵn sàng phục vụ quốc gia, đồng bào mình bất cứ lúc nào, ở đâu.

Người thật sự không vị kỷ rất ít, nên có người như thế được mọi người ghi nhớ mãi. Người Hy Lạp có một câu chuyện về một người ở Sparta tên gọi Paedaretos. Người ta chọn và bầu ra 300 người để cai trị xứ Sparta. Paedaretos là một ứng cử viên. Khi danh sách những người trúng cử được công bố, không có tên ông. Một bạn thân của ông ta nói: “Tiếc thật, người ta đã không bầu cho anh, thiên hạ không biết nếu bầu cho anh, anh sẽ là một chính khách lỗi lạc đến thế nào”. Nhưng Paedaretos thản nhiên đáp “Trái lại, tôi rất vui vì trong xứ Sparta này còn có 300 người có tài, có đức hơn tôi”. Đây là một người đã đi vào truyền thuyết vì sẵn sàng nhường cho kẻ khác ngôi vị hàng đầu mà không hề tỏ ra cay đắng.

Một vấn đề kinh tế có thể giải quyết nếu mọi người đều sống vì những gì mình có thể làm cho tha nhân, chứ không phải vì những gì họ có thể thâu góp, vơ vét cho chính mình. Và mọi vấn đề về chính trị có thể được giải quyết nếu mọi người luôn luôn có cao vọng chỉ muốn phục vụ quốc gia chứ không phải chỉ lăm le gây uy tín cho riêng mình. Những chia rẽ, tranh giành xâu xé trong Hội Thánh từ bên trong, phần lớn sẽ chẳng bao giờ xảy ra nếu ước vọng duy nhất của Hội Thánh và của các cấp lãnh đạo Hội Thánh là phục vụ Hội Thánh chứ không phải lo củng cố địa vị của mình. Khi Chúa Giêsu đề cập đến tính cách vĩ đại và giá trị tối cao của một người có cao vọng làm tôi tớ kẻ khác là Ngài thiết lập một trong những chân lý thực tiễn quan trọng nhất về cách sống ở đời.

GIÚP ĐỠ NGƯỜI VÔ VỌNG (9,36-37)

Nên nhớ là ở đây, Chúa Giêsu vẫn còn đề cập đến vấn đề cao vọng xứng đáng và tham vọng bất chính. Ngài đem một đứa trẻ đặt ở giữa họ. Một đứa bé thì chẳng có ảnh hưởng gì, không thể giúp được ai thăng tiến trong sự nghiệp hoặc tăng thêm uy tín. Một đứa bé chẳng có gì để cho chúng ta cả, trái lại thì đúng hơn. Một đứa bé cần đến cái này, cái kia, người ta phải làm việc này, việc nọ cho nó. Vì thế Chúa Giêsu phán “Nếu ai tiếp rước kẻ nghèo khó, người tầm thường, những người chẳng có danh tiếng, của cải hoặc quyền thế, những kẻ cần được các người giúp cho việc này việc nọ, ấy là các ngươi đã tiếp đãi Ta. Hơn thế nữa, chính các ngươi đã tiếp đãi Chúa vậy”. Đứa trẻ tiêu biểu cho người có nhu cầu, gặp thiếu thốn, và chính cộng đồng của những người có nhu cầu mà chúng ta phải tìm đến.

Ở đây có một lời cảnh cáo. Thật dễ làm bạn với người có thể giúp đỡ chúng ta, những người mà tiếng tăm của họ có lợi cho ta. Cũng rất dễ cho chúng ta tìm cách xa tránh những người đang sa cơ thất thế, cần được chúng ta giúp đờ. Thật dễ cho chúng ta làm ơn, ưu đãi những người có quyền thế, có địa vị, và xao lãng những ai chất phác, khiêm hạ, tầm thường. Thật dễ cho chúng ta tìm để làm quen với những người được mọi người tôn trọng và tránh những người nghèo khổ, chẳng ai thèm lưu ý. Thật ra, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta không nên tìm cách kết thân với những người có thể giúp đỡ chúng ta việc này, việc nọ, những nên kết thân kết thân với những ai cần được chúng ta giúp đỡ, vì làm thế, là chúng ta tìm cách kết thân với chính Ngài. “Ai làm một việc mọn cho một trong những người nhỏ mọn nhất trong anh em Ta, tức là đã làm việc đó cho Ta vậy”.

home Mục lục Lưu trữ