Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 49

Tổng truy cập: 1379218

SA TAN PHẢI DIỆT VONG

"Satan phải diệt vong"

(Suy niệm của Nha Trang)

I. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu bị những thân nhân hiểu lầm và những Ký lục vu cáo để nói lên việc Chúa Giêsu luôn luôn gặp những trở ngại trên đường truyền giáo.

II. SUY NIỆM:

1/ "Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà":

" Nhà" ở đây có lẽ là nhà của Phêrô vì khi giảng đạo ở Capharnaum Chúa Giêsu thường lui tới nhà của Phêrô (Mc 1, 29; 2,1) Nhà ở đây cũng có thể hiểu là hình ảnh của Giáo Hội: nơi phát xuất việc rao giảng Tin Mừng.

"Dân chúng đông đảo lại đổ xô tới":

Với nhóm môn đệ tiên khởi (Phêrô, Anrê, Giacôbê...) không đủ để đáp ứng với làn sóng tăng dần của các bệnh nhân và thính giả đổ xô tới, Chúa Giêsu bèn quyết định mở rộng nhóm này bằng cách chọn nhóm 12 môn đệ, để giúp việc và còn ban cho họ ít quyền, đặc biệt là quyền trừ quỷ (Mc 3, 13-16). Dầu vậy, ngay khi trở về nhà, thì suốt ngày cũng chẳng đủ để tiếp nhận số đông khách đổ xô tới, khiến họ không có giờ ăn nữa (Mc 3, 20).

2/ "Những thân nhân của Người hay tin đó":

Những bà con thân thuộc được tin Chúa Giêsu làm việc quá sức mình: quên ăn, quên nghỉ, đàng khác gây nên bao nhiêu thù địch, nên muốn bắt Người đưa về nơi quê hương yên ổn hơn để giữ sức khoẻ cho Người, nhất là để tránh những sự bất chắc do những thù địch gây ra làm liên lụy đến bà con họ hàng, vì họ nói " Ngài mất trí rồi ": ở đây có nghĩa là hăng say thái quá, hăng say đến độ thực hiện được nhiều chuyện lạ lùng. Thái độ trên đây của thân nhân cho ta thấy họ chưa có nhận thức đúng đắn về sứ mệnh Cứu thế của Chúa Giêsu, vì thế họ hiểu lầm về công việc của Người làm.

3/ "Và những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng Ông ấy bị quỷ Belzebut ám":

Vì thấy Chúa Giêsu đã trừ quỷ cho nhiều người khiến dân chúng khâm phục và đổ sô đến với Người, mấy luật sĩ từ Giêrusalem tới tỏ lòng ganh tỵ đến thù oán, nên đã phao tin là Chúa Giêsu bị quỷ Belzabut ám và dựa vào quỷ cả mà trừ quỷ nhỏ.

4/ "Khi đã gọi họ lại Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng":

Chúa Giêsu đã phải tụ tập dân chúng lại để sửa sai luận điệu vu khống trắng trợn của các Biệt phái bằng hai dụ ngôn đơn sơ sau đây:

a/ Satan lại trừ Satan sao được?...

Nước nào, nhà nào chia rẽ sẽ bị tiêu tan: nên Satan không dại gì đánh lộn nhau như vậy để rồi bị diệt vong.

b/ Chẳng ai có thể vào nhà một người khỏe mạnh:

Chúa Giêsu mô tả một vụ cướp. Kẻ cướp được tượng trưng sức mạnh của Chúa Giêsu và người mạnh ở đây là ma qủy. Trọng tâm của dụ ngôn là ý tưởng về sức mạnh. Chính Chúa Giêsu mô tả một cuộc tấn công: kẻ cướp không hành động cách bất ngờ nhưng bằng sức mạnh. Gặp gia chủ khỏe mạnh như thế mà kẻ cướp đã nhẩy bổ vào ông ta và trói ông ta lại, rồi mới cướp của cải trong nhà.

Dụ ngôn này có ý diễn tả Chúa Giêsu đến để tiêu diệt quyền lực của ma qủy, để giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Và như vậy, vương quốc của Thiên Chúa sắp thay thế vương quốc quỷ. Tuy nhiên sự thay thế này không thể thực hiện được nếu không có trận chiến ghê gớm giữa quyền lực của Chúa Giêsu và quyền lực của ma quỷ. Trận chiến này là cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh gía, chiến thắng tội lỗi.

5/ "Ta bảo các ông hay: mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng":

Đây là những tội do sự yếu đuối hay do sự vô ý thức, dù lớn đến đâu cũng được tha khi có lòng thống hối.

"Những kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần":

Đây là những tội có ý thức, từ chối chính Thiên Chúa. Ở đây có ý nói đến các luật sĩ là những người cố chấp, quyết chí từ chối, quyết chí chống đối, và quyết chí đóng kín cửa lòng trước những giáo huấn của Chúa Giêsu, vì họ gắn cho ma quỷ việc mà họ biết rõ là của Chúa Thánh Linh. Ở đây có ý nói những kẻ cố chấp ở trong tình trạng từ chối Thiên Chúa thì không thể nào lãnh ơn tha thứ được vì họ phủ nhận chính Đấng có quyền tha thứ.

6/ "Kìa Mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy":

Anh em ở đây không có nghĩa là anh em ruột thịt vì theo tiếng Hy Bá cũng như nhiều ngôn ngữ, chữ "Anh em" vừa chỉ anh em ruột, vừa chỉ anh em họ hàng (18, 13; 14, 14; 24, 48; 29, 12; Lv 10, 4; 9, 6 và trong Tân ước Mt 13, 35; 27, 56; Lc 8, 23).

Gia đình Chúa Giêsu nhận thấy các đối thủ ganh ghét Người. Họ lo sợ cho Người. Họ đến can thiệp để bênh đỡ Người và toan gỡ cho Người khỏi lâm nguy, vì thế chúng ta dễ hiểu ở đây sự có mặt của Mẹ Người.

7/ "Người trả lời: Ai là Mẹ Ta? Ai là anh em Ta?":

Thừa dịp này Chúa Giêsu giới thiệu về gia đình thiêng liêng mà Người muốn thiết lập qua cách đặt câu hỏi: Ai là Mẹ Ta?...

8/ "Rồi đưa mắt nhìn những người vòng quanh...":

Máccô đã nhiều lần ghi nhận các kiểu nhìn của Chúa Giêsu: cái nhìn buồn sầu và giận giữ (Mc 3, 5; 11, 11), cái nhìn thương yêu (Mc 10, 21; Lc 1, 48), cái nhìn chỉ để quan sát (Mc 5, 32; 12, 41) hay để thêm sức nặng cho lời mình thốt ra (Lc 10, 23 - 27). Ở đây rõ ràng là một cái nhìn thương yêu: những kẻ Chúa Giêsu nhìn đều thực là mẹ là anh em, chị em Người. Vì sao? Chúa Giêsu giải thích:

Ai làm theo ý Thiên Chúa, người đó là anh chị em và là mẹ Ta (Mc 3, 35). Khi vâng phục Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã tỏ ra mình là Con Thiên Chúa (Mt 4, 3 - 10) cũng với cách thức như vậy, người ta sẽ tỏ ra mình là con Thiên Chúa là anh chị em của Chúa Giêsu, con đầu lòng. Và thực thi thánh ý Thiên Chúa là trước tiên tin vào Chúa Giêsu. Đấng Người đã sai đến, là Đấng Cứu Thế.

Những lời Người phán về việc phải tái sinh bổ túc và cụ thể hoá ý nghĩa này (Ga 3, 3 - 5; 1, 13; Tt 3, 5). Như thế, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta một phương thế để kết hiệp với Người một cách còn sâu xa hơn là mối dây do sự sinh ra bởi huyết nhục.

III. ÁP DỤNG:

A/ Áp dụng theo Tin Mừng:

Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng hôm nay để nhắc nhở chúng ta rằng khi thi hành sứ mệnh Cứu thế Chúa Giêsu đã từng gặp phải sự hiểu lầm của những người thân và sự vu khống, chống đối của những kẻ từ chối Chúa, thì chúng ta người Kitô hữu càng thuộc về Chúa Kitô càng dễ bị bị thế gian hiểu lầm và chống đối, nhưng nếu Chúa Kitô đã chiến thắng quyền lực của ma quỷ do cuộc tử nạn và phục sinh của Người, thì chúng ta càng liên kết với Chúa Giêsu, càng biến những thử thách trong đời sống đạo thành những công phúc cho phần rỗi của mình.

B/ Áp dụng thực hành:

1/ Nhìn vào Chúa Giêsu:

a/ Xem việc Người làm:

Chúa Giêsu được dân chúng đơn sơ đón nhận nhưng lại bị những người thân khép kín hiểu lầm và những Biệt phái cố chấp từ chối. Chúng ta cũng vậy khi sống tinh thần Tin Mừng, thì cũng gặp kẻ ưa người gét, thậm chí cũng có những người thân hiểu lầm và cản trở.

b/ nghe lời Người nói:

Satan loại trừ Satan sao được? Chúa muốn nói với chúng ta: đoàn kết là sống và chia rẽ là chết. Vì thế Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho Giáo Hội được hợp nhất (Ga 17, 6-26).

Kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, nó mắc tội muôn đời: Chúa cảnh cáo chúng ta vì cố chấp sống trong sự phản bội Chúa mà không có lòng thống hối ăn năn.

Đây là mẹ Ta và anh em Ta: chúng ta được diễm phúc sống trong gia đình thiêng liêng của Chúa khi chúng ta tin nhận Chúa Giêsu Ki tô và sống theo việc Người làm và lời Người nói.

2/ Nhìn vào người thân:

Họ thương Chúa Giêsu nhưng thương cách mù quáng vì họ đã khép kín cửa lòng không tin nhận vào sứ mệnh Cứu thế của Chúa, nên họ đã hiểu lầm Chúa. Chúng ta hăng say làm tông đồ Chúa, phục vụ Giáo Hội, nhưng nhiều khi hăng say mù quáng vì phục vụ theo ý mình hơn ý Chúa, hay ý Giáo Hội.

3/ Nhìn vào những luật sĩ:

- Họ ganh tỵ đến thù oán mà vu khống cho Chúa là bị quỷ ám "Không ưa thì dưa có dòi". Ưa ai thì nên tốt. Ghét ai thì nên xấu.

4/ Nhìn vào Mẹ Maria cùng anh em Người:

Chúa giới thiệu gia đình thiêng liêng thì quý hơn gia đình tự nhiên. Cùng nghe và sống Lời Chúa, cùng là anh em với nhau.

 

18. Tìm hiểu Tin Mừng Mc 3,20-35

1) Sự can thiệp của bà con Đức Giêsu (3,20-21)

+ c 20: Tình huống đã diễn ra ở Capharnaum (2,1-2) nay lại tái diễn: người ta đến với Đức Giêsu quá đông, đông đến nỗi ngôi nhà Ngài đang ở chật cứng, đến nỗi Ngài và các môn đệ không thể ăn được. Như thế là có ảnh hưởng tới sức khoẻ.

+ c 21: Khi đó, những người bà con của Ngài can thiệp. Tại sao? Có phải vì lo cho sức khỏe của Ngài không? Cũng có thể có nguyên nhân đó. Nhưng nguyên nhân chính là họ cho rằng Ngài “mất trí” làm việc tới độ có hại cho sức khỏe. Ngoài ra Mc còn nhìn thấy thái độ này có một ý nghĩa khác nữa: chú ý tới động từ mà ông dùng: “bắt”. Đây cũng là động từ ông sẽ dùng tới 4 lần trong tường thuật thụ nạn (14,16...). Phải chăng ông coi sự can thiệp này đã khiến những người bà con của Đức Giêsu cũng bị liệt vào số những kẻ thù của Ngài?

2) Đức Giêsu và Satan (3,22-30)

I. VĂN MẠCH

Giữa hai cuộc can thiệp của những người bà con của Đức Giêsu (3,20-21 & 31-35), Mc chen vào một cuộc tấn công của nhóm thông giáo. Nếu những người bà con đã coi Ngài là “mất trí”, thì nhóm thông giáo lại lên án Ngài là công cụ của Satan. Lời kết án này nghiêm trọng hơn nhiều.

II. GIẢI THÍCH

+ c 22 - Beelzeboul: một trong những tên gọi Satan, xuất phát từ tên của một thần ngoại, “Baal đại vương” (Baal le prince).

Nhóm thông giáo không thể phủ nhận việc Đức Giêsu trừ quỷ. Nhưng họ xuyên tạc rằng Ngài làm việc đó không phải bằng sức Thiên Chúa, mà bằng quyền lực của Quỷ vương Beelzeboul.

+ c 23 - “Dụ ngôn”: đây là lần đầu tiên trong Marcô Đức Giêsu nói dụ ngôn. Dụ ngôn là một câu chuyện dễ hiểu bằng những hình ảnh thông thường trong cuộc sống để so sánh với một điều khó hiểu hơn về mầu nhiệm Thiên Chúa. Ở đây Đức Giêsu dùng hình ảnh một nước, một gia đình.

+ c 27 - “Người mạnh khỏe”: ám chỉ đến suy nghĩ của một số người rằng Satan là kẻ mạnh khỏe; nhưng cũng ám chỉ đến Is 49,24-25 53,12: Đức Giêsu là “người mạnh thế hơn”.

Lý luận của Đức Giêsu trong 2 dụ ngôn trên (cc 24-27): Satan không thể tự chống lại nó được. Những việc trừ quỷ mà Đức Giêsu thực hiện là dấu chỉ Đức Giêsu mạnh thế hơn Satan, vương quyền của Satan sắp bị tiêu diệt để nhường chỗ cho vương quyền của Thiên Chúa.

+ c 28 - Sau đó Đức Giêsu đưa ra một lời cảnh cáo nghiêm khắc.

“Lộng ngôn”: theo nghĩa hẹp, “lộng ngôn” là nói lời xúc phạm tới TC, tới Thánh Danh Ngài (Xh 22,27 Lv 24,11-16), tới uy quyền Ngài (x.Mc 2,7ss 14,64ss Ga 10,30-36), tới Sứ giả Ngài (Cv 6,11). Ở đây chữ này có nghĩa là xúc phạm tới Đức Giêsu, có thể tha thứ được.

Nhưng không thể tha thứ cho tội “lộng ngôn với Thánh Linh”. Cho dù chúng ta có thể liệt kê hết các “tội trọng”, ta cũng sẽ không gặp được tội nào không thể tha thứ. Vậy tội lộng ngôn tới Thánh Linh là tội gì mà không tha thứ được? Ta phải giải thích theo văn mạch: c.30 viết “Đức Giêsu nói như trên vì người ta nói rằng 'ông ta bị uế thần nó ám'”. Mc đã nhấn mạnh rằng ngay từ đầu sứ mạng Đức Giêsu đã được Thánh Linh tấn phong, và với quyền lực của Thánh Linh Ngài thi hành sứ mạng cứu độ và tha thứ (1,9-12). Nay nhóm thông giáo đã xuyên tạc những việc làm nhờ quyền lực cứu độ của Thánh Linh, tức là họ không chịu đón nhận ơn cứu độ, bởi đó họ không thể được tha thứ.

III. KẾT LUẬN

Vào lúc M arcô soạn Tin Mừng, các Kitô hữu thường bị những người Do thái công kích vì những người này không thừa nhận uy quyền của Đức Giêsu Kitô, Đấng Messia đến để giải thoát con người khỏi quyền lực của Satan. Marcô viết chuyện này để trả lời cho những công kích đó.

3) Gia đình thật của Đức Giêsu (3,31-35)

I. GIẢI THÍCH

* Marcô viết tiếp câu chuyện về liên hệ giữa Đức Giêsu và gia đình tự nhiên của Ngài (x.3,20-21).

+ c 31 - “anh em”: Truyền thống vẫn tin rằng Đức Giêsu là con duy nhất của gia đình. Vì thế chữ “anh em” ở đây không phải là anh em ruột, mà là anh em bà con.

+ “ở ngoài”: chú ý Marcô 2 lần nhấn mạnh tới chi tiết những bà con của Ngài “ở ngoài” (cc.31-32), nghĩa là họ không phải là gia đình thật của Ngài vốn là những người ở trong.

+ c 34 - “nhìn vòng quanh”: Trong Marcô cách nhìn này báo trước Đức Giêsu sắp nói một điều quan trọng (x. 3,5 10,23 11,11).

+ c 35 - Điều quan trọng mà Đức Giêsu nói là xác định ai là gia đình thật của Ngài: những người nào thi hành thánh ý Thiên Chúa mới là gia đình thật của Ngài!

II. KẾT LUẬN

1. Đây là một lời an ủi cho các Kitô hữu của giáo đoàn Marcô đang bị bách hại khiến họ phải xa cách gia đình của mình. Marcô muốn nói rằng bù lại họ có một gia đình khác, đó là gia đình của Đức Giêsu. Hơn thế nữa Marcô cũng cho họ thấy rằng nhiều khi phải chọn lựa giữa gia đình xác thịt với gia đình thiêng liêng: chính Đức Giêsu cũng đã chọn lựa như vậy.

2. Marcô cũng muốn cho thấy 2 loại liên hệ giữa Đức Giêsu với những người đương thời: a/ một bên là những kẻ từ chối Ngài. Bên này gồm những người pharisêu và thông giáo đã lộng ngôn đến Thánh Linh khi dám nói rằng Ngài bị quỷ ám (c.30), và có cả những người bà con của Đức Giêsu đã nói rằng Ngài mất trí (c.21); b/ bên kia là những bà con thật của Ngài gồm Nhóm 12 đã đi theo Ngài (3,13-19), và rộng hơn nữa là tất cả những ai đón nhận Tin Mừng (3,31-35).

3. Đoạn này không phải là một sự từ chối của Đức Giêsu đối với Đức Maria, trái lại càng làm tăng uy tín của Người, bởi vì Người không chỉ làm Mẹ của Ngài về phần xác thịt mà còn vì Người luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa.

 

19. Hạnh phúc là thành viên trong gia đình Chúa

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Thiên Chúa là Cha nhân từ

Thiên Chúa khôn ngoan và nhân từ, nên mọi việc Ngài làm đều tốt đẹp. Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài, cho họ sống tình thân với Chúa. Vậy Sự Dữ do đâu mà có? Đâu là nguyên nhân khiến cho tình thân nghĩa thiết giữa con người với Thiên Chúa và con người với nhau bị phá vỡ?

Sách Sáng Thế (x. St 1-3) cho ta câu trả lời. Thiên Chúa không tạo nên sự chết, nhưng sự chết đã đi vào thế giới vì sự ghen tương của ma quỉ (x. Kn 1,13-14; 2,23-24). Khi nổi loạn chống lại Thiên Chúa, ma quỉ đã lường gạt và lôi kéo con người theo chúng. Thiên Chúa hỏi Ađam: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư?”  Thiên Chúa hỏi Evà: “Tại sao ngươi đã làm điều đó? ”  Evà trả lời: “Con rắn đã cám dỗ tôi” (x. St 3, 11-13).

Là thụ tạo tinh thần, con người chỉ có thể sống tình thân ấy khi tự do tùng phục Thiên Chúa. Điều đó được diễn tả trong lệnh cấm con người ăn trái cây biết lành, biết dữ “vì ngày ngươi ăn nó, ngươi sẽ chết” (St 2, l7). Bị ma quỉ cám dỗ, con người đánh mất lòng tín thác vào Đấng Sáng Tạo, lạm dụng tự do, bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Đó là tội đầu tiên của con người (x. Rm 5, l9). Hậu quả là Adong và Evà đánh mất sự thánh thiện nguyên thủy (x. Rm 3, 23). Sự hài hòa với vạn vật bị phá vỡ: thế giới hữu hình trở nên xa lạ và thù nghịch với con người (x. St 3, l7-l9). Sự kết hợp nam nữ trở nên căng thẳng (x. St 3, ll-l3); tình huynh đệ tương tàn (x. St 4, 3-15); tiếp đến là sự sa đọa của cả loài người. Cuối cùng, vì bất tuân: “Con người là tro bụi sẽ trở về bụi tro” (St 3, l9).

Sau khi sa ngã, Thiên Chúa không lỡ bỏ rơi con người. Trái lại, vì tình thương, Thiên Chúa nâng con người lên. Chúa bảo con rắn: “Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi”. (St 3, 9-15. 20). Đó là thảm kịch tự do mà Thiên Chúa chấp nhận đến cùng vì yêu thương, nhưng Ngài hứa: “ Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người” (St 3,15).

Đoạn sách Sáng Thế trên được gọi là "Tiền Tin Mừng" vì đó là lời loan báo đầu tiên về Đấng Cứu Thế, về cuộc chiến đấu giữa con rắn với người nữ và chiến thắng cuối cùng của một hậu duệ người nữ này. Tình mẫu tử của Đức Maria đối với nhân loại được biểu lộ “Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh” (St 3, 20).

Mẹ và anh em Chúa

Lòng nhân từ của Thiên Chúa là lòng nhân từ cứu độ, chẳn nhữn nâng con người lên mà còn cho con người trở thành dưỡng tử của Thiên Chúa, đồng thừa tự với Chúa Giêsu. Lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy”. Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta” (x. Mc 3, 32-35).

Thật ra, qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.

Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.

Với lời khẳng định: “Đây là mẹ tôi và anh em tôi” (Mc 3, 33). Chúa Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài. Có những người thân yêu cùng máu mủ đứng ngoài kia. Có một gia đình mới đang ngồi trong này. Đức Giêsu không coi thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt. Nhưng Ngài cho thấy Ngài còn có một gia đình lớn hơn nhiều, một gia đình gồm những người rất khác nhau về nhiều mặt, nhưng lại có một mẫu số chung, một điểm giống nhau, đó là cùng muốn thi hành ý Thiên Chúa trong cuộc sống.

Sống tình gia đình với Chúa

Thật hạnh phúc cho chúng ta, vì Chúa Giêsu đã khai mở một đại gia đình mới cho mọi người: “Bất cứ ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa người ấy là mẹ tôi, là anh em và chị em tôi” (Mc 3, 35). Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình Chúa, có Đức Maria làm Mẹ suốt đời tín trung sống ý Chúa, có Đức Giêsu là Anh Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Chúa Cha, và có bao anh chị em khác đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã mở rộng gia đình Chúa để cho chúng con được dự phần, xin cho mỗi người chúng con biết lắng nghe Lời Chúa; đồng thời biết đem Lời Chúa ra thực hành, hầu xứng đáng là thành viên trong gia đình Chúa. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ