Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 54
Tổng truy cập: 1378482
SAI ĐI THI HÀNH SỨ MẠNG
SAI ĐI THI HÀNH SỨ MẠNG (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chúa Nhật II Phục Sinh tiếp tục tưởng niệm biến cố Phục Sinh và những hoa trái vô tận mà biến cố này mang lại cho đời sống của người Ki-tô hữu. Trong cả chu kỳ ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Phục Sinh này là Chúa Nhật về Đức Tin.
Cv 5: 12-16
Đức tin của các tín hữu tiên khởi được thể hiện ở nơi sự đồng tâm nhất trí của họ, điều đó gây nên sự thán phục và lôi kéo những người theo đạo mỗi ngày một đông hơn. Đức tin của các Tông Đồ được thể hiện ở nơi những việc lạ lùng các ngài thực hiện, điều đó làm chứng rằng Đấng Phục Sinh khải hoàn đang hoạt động.
Kh 1: 9-11a, 12-13, 17-19
Đức tin của nhà thấu thị Pát-mô được sáng tỏ nhờ thị kiến vinh quang về Đức Ki-tô Phục Sinh, điều đó đem lại niềm hy vọng và an ủi cho các Ki-tô hữu bị bách hại.
Ga 20: 19-31
Đức tin của thánh Tô-ma Tông Đồ đã trải qua từ nghi nan ngờ vực đến bằng chứng tỏ tường về biến cố Phục Sinh. Qua thánh Tô-ma, Đấng Phục Sinh nhắn gởi với những Ki-tô hữu của mọi thời, những người không được diễm phúc như thánh nhân: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”.
BÀI ĐỌC I (Cv 5: 12-16)
Trong những chương đầu tiên sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca nhiều lần phác họa cuộc sống của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, cộng đoàn Giê-ru-sa-lem. Mỗi năm trong ba năm phụng vụ dâng hiến cho chúng ta một trong những bức phác họa này. Vào năm A, bức phác họa đầu tiên xoay quanh cộng đoàn huynh đệ và đời sống cầu nguyện (Cv 2: 42-47); vào năm B, bức phác họa thứ hai tập trung vào cộng đoàn chia sẻ đến mức mọi sự đều là của chung (4: 32-35). Vào năm C này, bức phác họa thứ ba nêu bật những việc lạ lùng mà các Tông Đồ thực hiện.
*1.Một cộng đoàn mẫu mực:
Cộng đoàn Ki-tô hữu giữa lòng Do thái giáo hình thành nên một khuôn mẫu về đạo đức, lòng nhiệt thành và một lòng một ý với nhau: “Mọi tín hữu đều đồng tâm nhất trí, thường hội họp tại hành lang Sa-lô-mon”.
Hành lang Sa-lô-mon là hành lang rộng nhất và chứa nhiều người nhất trong số các hành lang bên trong khuôn viên Đền Thờ. Hành lang này dành cho dân ngoại, vì thếm những người Ki-tô hữu tiên khởi có thể tụ họp đông đúc ở đây. Thánh Phê-rô thường ngỏ lời với đám đông ở đây.
Những Ki-tô hữu tiên khởi, xuất thân từ Do thái giáo, tiếp tục tham dự đời sống tôn giáo của dân Ít-ra-en: “Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ” (Cv 2: 46). Những người Ki-tô hữu tiên khởi ý thức rằng niềm tin vào Chúa Ki-tô không đoạn tuyệt nhưng kiện toàn niềm tin Do thái giáo; chính niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh hoàn tất niềm tin Do thái giáo của họ. Đó là lý do tại sao thánh Lu-ca gọi họ là “tín hữu”. Họ muốn làm chứng niềm tin của mình vào Đấng Phục Sinh ở giữa lòng Thành Thánh, bất chấp những nguy hiểm mà họ có nguy cơ gặp phải và điều này sẽ được minh chứng ngay sau đó. Sự đoạn giao sẽ đến từ phía giai cấp lãnh đạo Do thái giáo, chứ không từ phía dân chúng, dân chúng “ca tụng họ”. Trước đây, thánh Lu-ca cũng đã nói rằng các Ki-tô hữu “ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến” (Cv 2: 47). Số tín hữu mỗi ngày mỗi thêm đông: “Càng ngày càng có thêm nhiều người tin vào Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông”. Qua kiểu nói tuyệt vời này, thánh Lu-ca nêu bật rằng những người mới theo đạo không kết nạp mình vào một nhóm, nhưng gắn bó với con người của Chúa Ki-tô.
*2.Nối tiếp sứ mạng của Đức Giê-su:
“Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ”. Đây là cách diễn tả rất khái quát mà thánh Lu-ca đã sử dụng rồi và thánh nhân sẽ còn sử dụng nữa (x. 2: 43; 6: 8). Thánh ký kể ra vài trường hợp: chữa lành một người què bên Cửa Đẹp (3: 1-9), hay chữa lành một người bại liệt ở Lốt (9: 32-35), hoặc cho một người chết sống lại ở Gia-phô (9: 36-42). Trong vài trường hợp này, thánh ký chỉ ghi nhận hai điều đặc biệt: việc đám đông ngưỡng mộ thánh Phê-rô chứng nhận rằng họ nhận ra ở nơi thánh nhân “vị lãnh tụ của các tín hữu” và danh tiếng của các Tông Đồ vượt ra bên ngoài thành thánh Giê-ru-sa-lem.
Những việc lạ lùng mà các Tông Đồ thực hiện được định vị vào trong cùng một bối cảnh với những việc lạ lùng mà Chúa Giê-su đã thực hiện; chúng nhằm hỗ trợ cho lời rao giảng. Nói một cách chính xác, những việc lạ lùng này cho thấy rằng sứ điệp của các Tông Đồ đồng nhất với sứ điệp của Chúa Giê-su, và đồng thời Đấng Phục Sinh đang hiện diện và hoạt động qua các môn đệ của Ngài.
Chúng ta nên lưu ý rằng thánh Lu-ca cho rằng niềm tin Ki-tô giáo được lan tràn không do những việc lạ lùng của các Tông Đồ, nhưng do cách ăn nếp ở của các tín hữu khiến dân chúng thán phục.
BÀI ĐỌC II (Kh 1: 9-11, 12-13, 17-19)
Nhà giảng thuyết lừng danh, Giám Mục Bossuet, đã định nghĩa sách Khải Huyền của thánh Gioan là “Tin Mừng về Đấng Phục Sinh”. Quả thật, toàn bộ tác phẩm này, với muôn vàn hình ảnh, ca ngợi vinh quang của Chúa Ki-tô khải hoàn, Con Chiên sát tế đã trải qua từ sự yếu đuối đến quyền năng, cùng ngự trị với Thiên Chúa và khai mở một cuộc chiến vĩ đại chống lại những thế lực sự ác. Ngài diệt trừ tận căn thế lực sự ác, trong khi lại ban muôn vàn ân phúc cho những người được tuyển chọn ở thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
Vào Mùa Phục Sinh này, Phụng Vụ giới thiệu cho chúng ta trong sáu tuần lễ liên tiếp những đoạn trích sách Khải Huyền. Hôm nay chúng ta đọc thị kiến khai mạc, thị kiến này giới thiệu toàn bộ sách, nhưng đặc biệt hơn, giới thiệu phần thứ nhất từ chương 1 đến chương 4.
*1.Văn chương khải huyền:
Từ ngữ “Khải Huyền” được phiên dịch từ từ ngữ Hy-lạp: “apocakalupto” (“apo”: tách riêng ra, và “kulupto”: che dấu) để chỉ “những điều bí nhiệm được vén mở ra”, đồng nghĩa với từ “mặc khải”, như những lời đầu tiên của sách Khải Huyền: “Mặc khải của Đức Giê-su, mặc khải mà Thiên Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ cho các tôi tớ Người biết những việc sắp phải xảy đến” (1: 1).
Văn chương khải huyền phát sinh vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, để tiếp tục sự nghiệp của trào lưu ngôn sứ vào lúc đó đã biến mất. Văn chương khải huyền vén mở những bí nhiệm, giải thích những giấc mộng, vân vân; văn chương này cốt yếu dùng ngôn ngữ biểu tượng. Những hình ảnh, màu sắc, con số, sự vật hay con vật, những điều huyền hoặc là những lối nói phóng dụ, không dể giải mã ý nghĩa của chúng.
Sách Khải Huyền đầu tiên là sách Đa-ni-en (đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên); văn thể này đã được vài bản văn Giô-en, Ê-dê-ki-en, Da-ca-ri-a dọn đường. Sách Khải Huyền của thánh Gioan mượn rất nhiều ở nơi các vị tiền nhiệm này. Sách Đa-ni-en đã được viết khi dân Do thái phải chịu cuộc bách hại khủng khiếp dưới thời thống trị của vua Xy-ri là An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê, giữa những năm 167 và 164 trước Công Nguyên. Mục đích của tác giả là an ủi và khích lệ các tín hữu trung thành, họ phải đối mặt với những hành động tàn bạo và cái chết, đồng thời cho họ nghe tiếng nói tràn đầy hy vọng. Đó cũng là ý định của thánh Gioan khi viết tác phẩm Khải Huyền này vào thời kỳ bách hại dữ dội, chính thánh nhân cũng bị lưu đày ở đảo Pát-mô. Chắc chắn đây là cuộc bách hại của hoàng đế Đô-mi-xi-ô vào những năm 93-96, sau Công Nguyên, tuy nhiên, vài đoạn văn có thể đặt niên biểu vào cuộc bách hại của vua Nê-rô (năm 64 sau Công Nguyên). Tác giả viết tác phẩm của mình nhằm nâng đỡ những người Ki-tô hữu “kiên trì chịu đựng” (diễn ngữ này được lập đi lập lại nhiều lần) trong cảnh đời gian truân thử thách, đặc biệt khi phải đối mặt với cuộc tử đạo, đồng thời cho họ thoáng thấy vinh quang tương lai bên cạnh Chúa Ki-tô khải hoàn.
Khuôn mẫu văn chương này dâng hiến hai lợi ích: trước hết, những hình tượng cho phép thiết lập ngôn ngữ mật mã, một thái độ cẩn trọng cần thiết trước thế lực bách hại. Vì thế, Rô-ma không được nêu tên, nhưng được chỉ dưới những ngôn từ khác nhau: Ba-by-lon, Con Vật, con điếm, con số 666. Thứ nữa, những sách khải huyền có mối liên hệ gần gũi với thể loại ngôn sứ, vì thế, nhà thấu thị Pát-mô muốn truyền đạt một sứ điệp với tư cách ngôn sứ.
*2.Tôi là Gioan…
Những sách khải huyền Do thái có một nét đặc trưng chung là vô danh. Các tác giả không nêu tên mình; họ cẩn trọng đặt nhan đề tác phẩm của mình dưới tên một nhân vật quá khứ lừng danh, như tác giả sách Đa-ni-en đã làm (ông Đa-ni-en đã sống vào thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên trong khi tác giả sách Đa-ni-en sống vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên). Cũng một cách như vậy, sách Ê-nốt (tên của một tổ phụ), sách Quy Thiên của ông Mô-sê, sách thứ tư của ông Ét-ra, sách Khải Huyền của ông Ba-rúc…
Trái lại, các sách ngôn sứ đều nêu tên chính vị ngôn sứ ấy: “Có Lời của Đức Chúa phán với” ông A-mốt, ông Hô-sê, ông I-sai-a, ông Giê-rê-mi-a, ông Ê-dê-ki-en, vân vân. Ngay từ đầu sách, thánh Gioan phá vỡ truyền thống của các sách khải huyền Do thái: ông tự nêu tên mình và tự định vị mình vào hàng ngũ các ngôn sứ. Các sách khải huyền Do thái xoay quanh sự đăng quang của thời cánh chung, trong khi sách Khải Huyền của thánh Gioan đem đến câu trả lời Ki-tô giáo: sự đăng quang này sẽ là sự đăng quang của Chúa Ki-tô, Con Chiên bị sát tế khải hoàn.
Gioan là ai? Truyền thống xa xưa nhất nhận dạng ông với vị Tông Đồ Gioan, con ông Dê-bê-đê, tác giả Tin Mừng Thứ Tư. Lúc ấy, thánh nhân bị lưu đày ở đảo Pát-mô “vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và làm chứng cho Đức Giê-su”. Theo thánh Victorien, giám mục Pettau, ở Xy-ri, tử đạo dưới thời hoàng đế Dioclétien, thánh Gioan đã bị kết án khổ sai tại các hầm mỏ.
Các nhà chú giải hiện đại đã nêu lên nhiều vấn đề trong đó vấn đề ngôn ngữ của sách Khải Huyền khác với ngôn ngữ của sách Tin Mừng Gioan. Tuy nhiên đề tài trung tâm: Con Chiên, con chiên bị sát tế, Đấng Cứu Chuộc, nguồn ơn cứu độ, Đấng khải hoàn, là đề tài của Tin Mừng Gioan. Dù thế nào, chắc chắn tác giả đang sống trong cảnh gian truân và thấy mình liên đới với những người Ki-tô hữu bị bách hại: “Tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Ki-tô”. Chúng ta đã nói rồi, diễn ngữ“kiên trì chịu đựng” là một trong những từ then chốt của sách Khải Huyền. Còn về từ ngữ “vương quốc”, từ này được chính thánh ký nhiều lần minh giải. Đức Ki-tô “đã lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc” và cho chúng ta cùng ngự trị với Ngài (Kh 1: 5-6; 5: 10; 20: 6). Thánh Gioan muốn cho hiểu rằng việc kiên trì chịu đựng những nỗi gian truân cho phép chúng ta dự phần vào những đau khổ của Đức Ki-tô và cho phép chúng ta cùng ngự trị với Ngài.
*3.Thị Kiến khai mạc:
Trong khi xuất thần, thánh Gioan thấy xuất hiện “Con Người”, nhân vật của sách Đa-ni-en này, mà Đức Ki-tô đã tự đồng hóa mình và Ngài đã nhận lấy danh xưng này cho mình, như một tước hiệu Mê-si-a. Ngôn sứ Đa-ni-en loan báo rằng “Con Người” này lãnh nhận “quyền thống trị, vinh quang và vương vị” (Đn 7: 13-14). Khi kỳ hạn đến, Con Người là lãnh tụ của Giáo Hội, Chủ Tể vũ trụ, Thiên Chúa Hằng Sống, Đấng Phục Sinh chiến thắng tử thần và Chủ Tể Lịch Sử.
*4.Ngày của Chúa:
Trong toàn bộ Tân Ước, diễn ngữ: “Ngày của Chúa” chỉ được gặp thấy ở đây. Quả thật, cho đến lúc đó chúng ta đọc thấy: “ngày thứ nhất trong tuần”. Đây là lần đầu tiên “ngày của Chúa”, tức là ngày Chúa Nhật, được kể ra rõ ràng. Trong Cựu Ước, “Ngày của Chúa” có nghĩa “Ngày của Đức Chúa”, ngày phán xét vào thời cánh chung. Ấy vậy, đối với người Ki tô hữu, sự Phục Sinh của Đức Ki-tô đã khai mạc thời kỳ cánh chung; đó là lý do tại sao những cử hành ngày Chúa Nhật của chúng ta có một ý nghĩa vừa phục sinh vừa cánh chung.
Cung giọng nỗi bật của sách Khải Huyền là cung giọng phụng vụ. Việc gợi lên “có một tiếng lớn như tiếng kèn”, kèn là dụng cụ truyền thống được sử dụng trong phụng vụ Do thái, rõ ràng nhấn mạnh cung giọng phụng vụ: “Tôi xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn”.
*5.Đấng Phục Sinh, Thủ Lãnh Giáo Hội:
Như các ngôn sứ khác, thánh Gioan thấy và nghe; ngoài ra, thánh nhân còn được Thiên Chúa yêu cầu phải viết và gởi sứ điệp đến cho bảy Hội Thánh của miền Tiểu Á. Quả thật, thư gởi cho bảy Hội Thánh chiếm lấy phần thứ nhất của sách Khải Huyền. Con số bảy là con số chỉ sự viên mãn và chiều kích hoàn vũ; sứ điệp có giá trị đối với toàn thể Giáo Hội. Con số bảy là một trong những con số thường hằng của sách Khải Huyền: bảy Thần Khí Thiên Chúa, bảy ngôi sao, bảy dấu ấn, bảy tiếng kèn, bảy đầu, bảy sừng, bảy con mắt, vân vân.
Cũng con số bảy là “bảy cây đèn bằng vàng”, chính xác biểu thị bảy Hội Thánh, như được xác định rõ phía dưới một chút (Kh 1: 20). Con Người xuất hiện ở giữa bảy cây đèn bằng vàng này, tức là Đức Ki-tô sống giữa Giáo Hội của Ngài, Ngài là Thủ Lãnh. Chúng ta nên ghi nhận rằng thánh Gioan cũng sử dụng cùng cách nói như tác giả sách Đa-ni-en: “Có ai giống như Con Người”. Đây là từ “như” thứ nhất trong nhiều từ “như” của sách Khải Huyền, ví dụ, xuống dưới một chút chúng ta gặp thấy: “Khi thấy Người, tôi nằm vật xuống dưới chân Người, như chết vậy”. Tất cả từ “như” này đều nhằm nhấn mạnh những phỏng chừng không thể tránh khỏi của ngôn ngữ phàm nhân toan tính diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa.
Cũng chính trong sách Đa-ni-en (nhưng thị kiến của chương 10 chứ không còn ở chương 7), mà thánh Gioan mượn vài nét đặc trưng kể chuyện như: “Tôi là Đa-ni-en… đang ở ven sông Cả, tức là sông Tích-ra, tôi ngước mắt nhìn lên, thì này: Một người mặc áo vải gai, lưng thắc đai vàng U-phát, thân mình giống kim lục thạch, dung mạo ví như ánh chớp… Tôi nghe tiếng người vang dội. Vừa nghe thấy, tôi liền ngất xỉu, chúi mặt xuống đất… Bấy giờ đấng giống như con người lại đụng đến tôi một lần nữa và làm cho tôi nên can đảm. Người nói: “Hỡi người được quý mến, đừng sợ. Cứ an tâm… Ta sắp báo cho ngươi biết điều đã được ghi chép trong sách sự thật” (Đn 10: 2-21). Trong sách Khải Huyền, Con Người, mình mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng: áo chùng chắc chắn là phẩm phục tư tế, áo bằng vải len và đai bằng vàng chắc chắn là huy hiệu vương đế.
*6.Chủ Tể hoàn vũ:
“Ta là khởi nguyên và là cùng tận”. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã sử dụng hai lần biểu thức này cho Đức Chúa: “Ta là khởi nguyên, Ta là cùng tận; chẳng có thần nào hết, ngoại trừ Ta” (Is 44: 6 và 48: 12). Diễn ngữ này cũng được lập lại hai lần trong sách Khải Huyền (Kh 2: 8 và 22: 13).
Như vậy, Chúa Giê-su khẳng định thần tính của Ngài và đồng bản tính với Chúa Cha. Ngài là khởi nguyên và cùng đích; Ngài có quyền trên vũ trụ và Lịch Sử; Ngài đã có trước muôn loài muôn vật.
*7.Đấng Hằng Sống:
Kiểu nói“Ta là Đấng Hằng Sống” cũng quy chiếu đến thần tính của Chúa Giê-su. Cựu Ước gọi Đức Chúa là “Thiên Chúa Hằng Sống”, nhất là đối lập Người với các thần linh của dân ngoại, chúng chỉ là ngẫu tượng do tay nghệ nhân làm ra, còn Đức Chúa mới là Đấng Hằng Sống.
*8.Đấng chiến thắng tử thần:
Đấng Phục Sinh cũng là Đấng Hằng Sống vì Ngài đã chiến thắng tử thần: “Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời”. “Ta giữ chìa khóa của Tử Thần và Âm Phủ”. Chúng ta có thể thấy ở đây một ám chỉ đến việc Đức Ki-tô xuống Âm Phủ mà thánh Phê-rô gợi lên trong thư thứ nhất của thánh nhân (1Pr 3: 19-21) và thánh Phao-lô dường như ám chỉ đến việc này nhiều lần (Rm 10: 6-10 và Ep 4: 9).
*9.Chủ Tể Lịch Sử:
Câu cuối cùng: “Vậy, ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này”, xem ra là một lời loan báo cách khái quát bố cục của sách Khải Huyền; nhưng đó không phải muốn nói rằng Đấng Phục Sinh là Chủ Tể của quá khứ, hiện tại và tương lai sao?
TIN MỪNG (Ga 20: 19-31)
Đoạn Tin Mừng này là một trong những đoạn Tin Mừng thiết lập niềm xác tín của chúng ta: Đức Ki-tô của niềm tin đích thật là Đức Giê-su của lịch sử. Các Tông Đồ đã đích thân chứng thực Đấng Phục Sinh; hơn nữa, nhờ vào sự cứng tin của một trong số họ, mà vài ngày sau đó các ngài đã được hưởng thêm một sự kiểm chứng xác thực nữa.
Theo truyền thống, đoạn Tin Mừng này được đọc vào Tuần Bát Nhật Phục Sinh, vì thánh ký nói với chúng ta rằng Đức Giê-su hiện ra cho thánh Tô-ma “tám ngày sau đó”. Quả thật, chúng ta đọc toàn bộ bài trình thuật này thành hai giai đoạn: Chúa Giê-su hiện ra cho các Tông Đồ không có thánh Tô-ma đúng vào buổi chiều Phục Sinh (20: 19-25) và Ngài hiện ra cho các Tông Đồ, đặc biệt cho thánh Tô-ma một tuần sau đó cũng vào buổi chiều (20: 26-29).
*1.Đức Giê-su phục sinh hiện ra cho các Tông Đồ không có thánh Tô-ma (20: 19-23):
“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần”, tức là đúng vào buổi chiều biến cố Phục Sinh. Việc chỉ rõ thời gian này thì rất quý: “ngày thứ nhất trong tuần”, tức là ngày mà những người Ki-tô hữu tiên khởi đã chọn rất sớm cho những buổi hội họp của họ, như vậy nhấn mạnh tính cách Phục Sinh của việc cử hành Thánh Thể. Cũng vậy, việc Chúa Giê-su xuất hiện cho thánh Tô-ma tám ngày sau đó, cũng được định vị vào “ngày thứ nhất trong tuần”.
Các Tông Đồ cùng nhau quy tụ lại, chỉ có mười vị, vì rõ ràng không có mặt thánh Tô-ma, thánh nhân xem ra đã không tha thiết gì đến cuộc hội họp này. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng chính thánh Phê-rô đã quy tụ các ngài để thông bào cho các ngài biết những biến cố vừa mới xảy ra: cuộc khám phá ngôi mộ trống, việc chứng kiến đồ liệm được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp, những lời kể của các người phụ nữ, trong số đó bà Ma-ri-a Mác-đa-la khẳng định là mình đã gặp Đức Giê-su và Ngài đã nói với bà.
Chúng ta đoán các Tông Đồ đã gặp nhau trong bầu khí vừa nghi nan vừa hy vọng, thêm nữa là nỗi sợ hãi: “Nơi các môn đệ ở, các cửa đều cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái”. “Người Do thái” trong Tin Mừng Thứ Tư, trước tiên chỉ rõ giai cấp lãnh đạo tôn giáo ở Giê-ru-sa-lem. Những người này đã kết án tử Thầy của họ, bây giờ họ sẽ không ra tay bắt các môn đệ của Ngài sao?
Và này Đức Giê-su bất ngờ hiện ra giữa các ông dù cửa vẫn đóng then vẫn cài; Ngài hiện diện ở giữa lòng nỗi sợ hãi và xao xuyến của các ông, như Ngài đã định vị mình ở bên cạnh nỗi buồn phiền của hai môn đệ trên đường Em-mau. Nỗi sợ hãi và buồn phiền sẽ biến thành niềm vui.
A-Bình an cho anh em:
Đây là lời chào hỏi truyền thống của dân Ít-ra-en, nhưng lời chào đầu tiên của Đấng Phục Sinh gởi đến các môn đệ không bao giờ chỉ là là lời chào hỏi xả giao. Đức Giê-su đem đến sự bình an của Ngài, bình an mà Ngài đã hứa, cho những môn đệ này, những người đã bỏ rơi Ngài vì chán nãn và thất vọng; Ngài đem đến sự bình an từ sự hiện diện của Ngài và sự tha thứ của Ngài; không một lời quở trách, không một ám chỉ đến những khuyết điểm của họ, ngay cả họ đã bỏ mặc Ngài một thân một mình trong cuộc Thương Khó và Tử Nạn.
Để cho họ nhận ra Ngài, Đức Giê-su cho các ông xem những vết thương của Ngài như chiến tích khải hoàn và như bằng chứng về sự đồng nhất giữa thân thể phục sinh của Ngài và thân thể khổ nạn của Ngài. Ở đây chúng ta đo lường tầm quan trọng của việc khám phá ngôi mộ trống: một mặt, không có một thân xác bị hư hoại trong mồ; mặt khác, không là một bóng ma hiện ra cho các môn đệ, nhưng là một thân thể duy nhất, đang sống, có thể đụng chạm, ghi dấu những vết thương của cuộc khổ nạn. Không nghi ngờ gì nữa, “lúc đó, các ông vui mừng”.
Chúng ta ghi nhận rằng thánh Gioan nói “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”, trong khi trong bài trình thuật song đối, thánh Lu-ca viết: “Người đưa tay chân cho các ông xem” (Lc 24: 40). Thánh Gioan là người môn đệ duy nhất đã kể tình tiết về một người lính Rô-ma lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn của Đức Ki-tô; thánh nhân đã chứng kiến máu cùng nước chảy ra, ân ban tận cùng của Chúa Ki-tô. Thánh ký đã thấu hiểu ở nơi sự kiện này một dấu chỉ biểu tượng: dấu chỉ về sự sinh hạ Giáo Hội qua bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể, như trong bữa ăn Cáo Biệt, Chúa Giê-su đã diễn tả cuộc sinh hạ này qua hình ảnh của một bà mẹ trở dạ sinh con: “Khi snh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian” (Ga 16: 21). Ở đây, thánh ký nhấn mạnh thêm một lần nữa Giáo Hội sinh ra vào buổi chiều Phục Sinh dưới hơi thở Thần Khí và qua việc sai các Tông Đồ ra đi thi hành sứ vụ.
B-Sai đi thi hành sứ mạng:
“Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan nhấn rất mạnh khía cạnh này về thân thế Đức Giê-su: Ngài là Đấng được Chúa Cha sai đến. Đó là lý do tại sao thánh ký không bao giờ ban cho các môn đệ danh xưng “Tông Đồ”, vì danh xưng này có nghĩa “người được sai đi”. Chỉ một mình Đức Giê-su xứng đáng với danh hiệu là “Đấng Được Sai Đi”.
Có một mâu thuẫn đáng ngạc nhiên: với những người này, những người tự giam mình giữa bốn bức tường, trong căn phòng cửa đóng then cài, thu mình lại và sợ hãi, Đức Giê-su truyền lệnh cho họ ra đi thi hành sứ mạng: gặp gỡ với hết mọi người không trừ một ai, như Ngài đã hứa.
Việc sai đi thi hành sứ mạng tại thánh Gioan còn long trọng hơn tại thánh Mát-thêu. Thánh Mát-thêu đặt việc sai đi thi hành sứ mạng vào cuối sách Tin Mừng của mình, ở đó Đức Giê-su công bố: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (Mt 28: 19).
C-Hơi thở Thần Khí:
“Nói xong, Người thổi hơi vào các ông…”. Trong Tân Ước, diễn ngữ này chỉ được gặp thấy ở đây. Động từ được dùng ở đây được gặp thấy trong đoạn văn của sách Sáng Thế về cuộc sáng tạo con người: Đức Chúa “thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở thành một sinh linh” (St 2: 7, được Kn 15: 11 lấy lại), cũng như trong bản văn Ê-dê-ki-en về sự hồi sinh của các bộ xương khô: “Hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những vong nhân này cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Qua việc thổi hơi vào các ông, Chúa Giê-su làm cho các môn đệ Ngài trở thành những con người mới và ban cho họ quyền chỉ thuộc về Thiên Chúa: quyền tha thứ tội lỗi.
D-Tha thứ tội lỗi:
Qua những lời này: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”, thánh ký diễn tả quyền tha tội theo kiểu nói sê-mít: “tha thứ hay cầm giữ”. Thánh Mát-thêu cũng sử dụng một cặp đối nghịch tương tự: “cầm buộc hay tháo cởi”: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.” (Mt 16: 19; 18: 18).
“Tha thứ hay cầm giữ”, “cầm buộc hay tháo cởi” là những biểu thức được Do Thái giáo dùng để cấm hay cho phép. Các biểu thức nầy chỉ ra rằng các vị lãnh đạo tôn giáo được quyền khai trừ hay hội nhập một tín đồ vào cộng đoàn. Đức Giê-su mở rộng vô cùng tận ý nghĩa của biểu thức này. Đây cốt yếu là quyền tha tội được trao ban cho Giáo Hội. Chúng ta đừng nhầm lẫn cách phát biểu sê-mít. Văn phong sê-mít chủ ý sử dụng lối biền ngẫu giữa một khía cạnh khẳng định và một khía cạnh phủ định, khía cạnh thứ hai: “cầm giữ” không nhằm mục đích nói ngược lại, nhưng tăng cường khía cạnh thứ nhất: “tha thứ”. Vì thế, không nhất thiết hạn chế ơn tha thứ của Thiên Chúa. Hơn nữa, Giáo Hội có thể “cầm giữ” một tội nhân trong khi mong chờ sự ăn năn hối cải hữu hiệu hơn.
“Tha thứ tội lỗi” là thành quả tất yếu của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Chính đó là lý do tại sao thánh Gioan đặt việc Đức Ki-tô trao ban ơn tha tội ngay từ lần đầu tiên Đấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ Ngài. Tại thánh Lu-ca, Đức Giê-su nhắc lại cho các môn đệ ân huệ này, ngay trước khi lên trời: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đức Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.” (Lc 24: 45-47).
*2.Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho các Tông Đồ, đặc biệt cho thánh Tô-ma (20: 24-29):
Chắc chắn thánh Tô-ma đã gắn bó mật thiết với Chúa Ki-tô; thánh nhân đã yêu mến Ngài và đã tin vào Ngài. Vào lúc lên Giê-ru-sa-lem lần sau cùng, với cả bầu nhiệt huyết của mình, thánh nhân đã dõng dạc công bố: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11: 16). Nhưng ông đã không mong chờ một cái chết ô nhục trên thập giá; cái chết này đã làm ông vỡ mộng. Nỗi thất vọng, buồn phiền đã khiến ông tách riêng một mình với các bạn đồng môn. Vốn là một con người thực tế, xưa kia ông đã đặt cho Đức Giê-su một câu hỏi thiết thực và thẳng thắn: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14: 5), bây giờ thánh Tô-ma từ chối tin vào sự Phục Sinh của Chúa Giê-su nếu không có bằng chứng được thánh nhân đích thân kiểm chứng. Chúng ta hiểu thánh nhân. Chúng ta nhận ra con người Tô-ma đang ngủ trong chính mỗi người chúng ta: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
A-Đức tin của thánh Tô-ma:
Đức Giê-su chạnh lòng thương người môn đệ đầy nhiệt huyết đang đắm mình trong nỗi phiền muộn, trong khi các môn đệ khác hoan hĩ mừng vui; vì thế, Ngài sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi của ông: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy…”. Chắc hẳn thánh Tô-ma đã không làm như thế, bởi vì trái với cung giọng của Tin Mừng Gioan. Đúng hơn phải hiểu tâm trạng của thánh Tô-ma ở đây theo những gì thánh Gioan đã nói về người môn đệ Chúa yêu khi vừa mới thấy vài dấu chỉ trong ngôi mộ trống: “Ông đã thấy và đã tin”. Thánh Tô-ma đã ngộ ra trước bằng chứng mà Đấng Phục Sinh đã trưng ra cho ông thấy. Lập tức, ông tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”.
Trong các sách Tin Mừng, đây là “lần đầu tiên” tước hiệu “Thiên Chúa” được dành cho “Đức Giê-su”. Còn dấu lạ nào bày tỏ Thần Tính của Ngài rực rỡ hơn sự Phục Sinh của Ngài? Lời cảm thán rất riêng tư của Tô-ma diễn tả tâm tình biết ơn của ông vì Đức Ki-tô đã quan tâm đặc biệt đến ông, Ngài không bỏ mặc thánh nhân trong nỗi thất vọng và phiền muộn: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.
B-Đức tin của các tín hữu mọi thời:
Chúa Giê-su nói với thánh Tô-ma trước tiên: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin”; đoạn khi nghĩ đến những người đã không bao giờ được diễm phúc như thánh nhân, Chúa Giê-su nhắn gởi với đám đông tín hữu của mọi thời: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Lời chúc phúc này, mối phúc độc nhất của Tin Mừng Gioan, rõ ràng dựa trên lời chứng của các Tông Đồ, trong đó lời chứng của thánh Tô-ma là thấm thía nhất. Sau này, thánh Phê-rô cũng đã ca ngợi đức tin của các tín hữu theo cùng một cách như vậy: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rõ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1Pr 1: 8-9).
CÁC MÔN ĐỆ VUI MỪNG VÌ ĐƯỢC NHÌN THẤY CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Các môn đệ đang sợ hãi giam mình trong phòng kín, nhưng khi gặp thấy Chúa Giêsu phục sinh thì các ông vui mừng. Chúa Giêsu phục sinh cũng đang ở giữa chúng ta. Vậy chúng ta hãy vui mừng cùng Ngài dâng lễ tạ ơn lên Thiên Chúa là Cha toàn năng của chúng ta.
*II. Gợi ý sám hối
- Chúa Giêsu phục sinh là bảo đảm cho chiến thắng của sự thiện trên sự ác. Nhưng chúng ta chưa xác tín điều ấy nên chưa tích cực chiến đấu chống lại sự ác.
- Chúa Giêsu phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Nhưng chúng ta thường quên điều đó nên sống và làm việc như không có Ngài bên cạnh.
- Chúa Giêsu phục sinh là nguồn gốc và nền tảng của vui mừng và bình an. Nhưng chúng ta thường để mình bị giao động bởi những buồn phiền lo lắng thế tục.
*III. Lời Chúa
*1. Bài đọc I (Cv 5,12-16)
Trích đoạn này từ sách Công vụ cho thấy hai tác động lớn của việc Chúa Giêsu phục sinh trên các tông đồ: (1) Chúa đã thông ban cho các ngài quyền năng đến nỗi có thể làm nhiều phép lạ; (2) Chúa làm cho uy tín các ngài tăng cao trước các tín hữu và cả những người lương.
*2. Tin Mừng (Ga 20,19-31)
Hai lần hiện ra cách nhau 8 ngày này nhằm những mục tiêu sau:
- Chúa Giêsu nâng đức tin của các một đệ lên một bậc: từ mức độ thấp là tin dựa vào bằng chứng mà giác quan kiểm nghiệm được (câu 20 “Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài”; câu 25, Tôma đòi điều kiện “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài…) lên mức độ cao là tin chỉ vì nghe bởi vì mình đã an tâm về uy tín của người nói cho mình nghe (câu 29: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”)
- Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ để rồi các ông lại ban bình an cho người khác qua việc tha tội. Sự bình an này là hoa trái của Thánh Thần, và đặt nền tảng trên việc tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
*3. Bài đọc II (Kh 1,9-13.17-19)
Thị kiến đầu tiên trong sách Khải huyền:
- Hoàn cảnh của người được thấy thị kiến: Thánh Gioan Tông đồ đang sống trong cảnh gian truân vì bị bắt bớ: “Tôi cùng chia xẻ nỗi gian truân… cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Chúa Giêsu. Lúc ấy tôi đang ở đảo gọi là Pátmô vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Chúa Giêsu”.
- Thị kiến nhằm an ủi và khích lệ kẻ đang bị bắt bớ: “Đừng sợ… Ta là Đấng hằng sống. Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ”
*IV. Gợi ý giảng
*1. Đấng chữa lành vẫn còn mang thương tích
Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu phục sinh vẫn còn mang những thương tích của cuộc thụ nạn. Điều này có ý nghĩa gì? Câu chuyện sau đây có thể cung cấp vài tiêu điểm giúp chúng ta tìm hiểu.
Chuyện kể về một góa phụ lao động ở thành phố New York. Trong khoảng thời gian 6 năm, bà đã chứng kiến cảnh 3 đứa con của mình bị bắn chết, đứa nhỏ nhất bị bắn ngay trước cửa nhà bà. Những cảnh ấy đã để lại một vết thương sâu đậm trong lòng bà, và vết thương ấy cứ như sống lại làm bà nhức nhối mỗi lần bà nghe tin có một ai đó bị giết chết. Tuy nhiên bà không để mình bị trói buộc trong nỗi sợ hãi. Trái lại bà tìm cách đến với người khác. Bà đi diễn thuyết khắp nơi và trở thành một nhà hùng biện tranh đấu cho việc kiểm soát vũ khí. Bà lập một hiệp hội gồm những phụ nữ cùng hoàn cảnh với Bà. Mỗi khi có một đứa con bị giết chết, bà đến thăm và an ủi cha mẹ chúng. Bà cho biết ban đầu bà ước sao cho những đứa trẻ vô tội ấy đừng sinh ra còn hơn. Nhưng bây giờ thì bà nói: “Hẳn nhiên trong cái chết của chúng có một nỗi buồn phiền, thế nhưng cũng có một niềm vui không thể tin được. Nếu tôi đã không có 3 đứa con bị giết thì tôi đã không là một con người như hôm nay. Chúng giúp tôi mạnh mẽ, chúng giúp tôi sống không ích kỷ”. Khung cửa nhà bà vẫn còn lại những vết đạn đã bắn chết đứa con út của bà. Tuy nhiên bà không cho sửa lại khung cửa ấy. Tại sao? Bà nói “Tôi muốn những lỗ đạn ấy còn mãi ở đấy để nhắc cho mọi người nhớ là có người đã bị giết chết ngay chỗ ấy. Nếu sửa lại thì người ta sẽ quên”.
“Khi sửa lại thì người ta sẽ quên”. Có lẽ đó là lý do tại sao Chúa Giêsu phục sinh vẫn giữ lại những vết thương của cuộc chịu nạn. Trước hết, những vết thương ấy giúp các môn đệ nhận ra Ngài: Đấng hôm nay chiến thắng sự dữ vẫn là một với Đấng hôm trước đã chịu nạn chịu chết để nhờ đó Thiên Chúa chiến thắng cái chết. Thứ hai, những vết thương ấy là bằng chứng tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu không chỉ nói suông về tình yêu, Ngài đã chịu đau khổ để làm chứng cho tình yêu. Đó là những thương tích mà Người mục tử chịu đựng để bảo vệ đàn chiên yêu quý của mình.
Chúa Giêsu không dấu những thương tích. Ngài cho Tôma thấy và mời ông chạm vào. Khi Tôma chạm vào đấy, nỗi hoài nghi của ông tan biến và đức tin của ông sống lại.
Những thương tích thánh thiện của Chúa Giêsu là nguồn an ủi, nguồn can đảm và nguồn hy vọng của chúng ta. Chúng giúp ta chịu đựng đến cùng những thương tích của chúng ta. Chúng bảo ta đừng sống ích kỷ. Nhờ những thương tích của Ngài, chúng ta được chữa lành khỏi chứng bệnh tự thương xót mình và mặc cảm là nạn nhân.
Người ta có khuynh hướng che giấu những thương tích vì nghĩ rằng người khác mà thấy được sự yếu ớt của mình thì sẽ không còn kính trọng mình. Tuy nhiên những kẻ dám cho người khác biết những cuộc chiến đấu của mình thì sẽ là một nguồn an ủi cho người khác. (FM)
*2. Tần số tình yêu
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha:
– Ba ơi! Cái tháp đó để làm gì vậy?
Người cha giải thích:
– Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.
– Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!
– Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!
*
Chiều Phục Sinh đầu tiên, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số. Đó là tần số tình yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên “người môn đệ Chúa Giêsu thương mến” (Ga 21,7).
Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy ngôi mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô thì “rất đỗi ngạc nhiên” còn Gioan thì “ông đã thấy và ông đã tin”? (Ga 20,8). Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức tin. Nhưng Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.
Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “Ngày thứ ba, (Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy” (Hs 6,2) và phép lạ “ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm” (Ga 2,1). Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.
Niềm tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta hôm nay không phải là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm xác tín vào lời chứng chắc chắn của các Tông đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần; Phêrô đứng chung vớt mười một Tông đồ lớn tiếng tuyên bố rằng: “Chính Chúa Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại, về điều nầy, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Chúa Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Nếu Đức Ki tô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr 15,17).
*
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để chúng con tin Chúa mãnh liệt hơn.
Xin dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa mãi là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen. (TP)
*3. Bình an
Sau khi sống lại, mỗi lần hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu đều chào các ông “Bình an cho các con”. Đây là lời chào thông thường của người Do thái “Shalom”. Giáo hội cũng bắt chước lối chào đó, trong Thánh lễ, Chủ tế chào giáo dân “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”, và giáo dân chào lại “Và ở cùng Cha”, nghĩa là “Và cũng xin bình an của Chúa hằng ở cùng Cha”. Xét ra lời chào này hơi lạ so với những kiểu chào mà chúng ta quen biết, nhưng có ý nghĩa nhiều hơn. Quả thực. Bình an là điều quý nhất mà chúng ta cần có và cũng là điều tốt nhất mà chúng ta cầu chúc cho nhau. Nhưng bình an là gì mà quý như vậy? và làm thế nào để có được bình an? Đó là điều mà chúng ta sẽ đưa vào bài Tin Mừng hôm nay để tìm hiểu.
Khi ấy các môn đệ đang sợ: Thầy đã bị bắt và bị giết chết rồi. Rất có thể tới phiên các ông cũng sẽ bị bắt và bị giết như vậy. Cho nên họ sợ, và họ trốn trong nhà đóng kín cửa lại. Rồi Chúa Giêsu hiện đến ở với họ, trò chuyện với họ, cho họ xem các vết thương, ăn uống với họ, khích lệ họ… Thế là họ không còn sợ nữa. Họ được bình an. Nhưng do đâu mà họ được bình an? Có phải là vì nguy hiểm đã qua đi rồi chăng? Thưa không, nguy hiểm vẫn còn đó, kẻ thù vẫn còn vẫn đang tìm cách hãm hại các ông. Nhưng nay họ không sợ nữa là vì họ biết đã có Chúa ở bên cạnh họ. Có Chúa bên cạnh thì mọi nguy hiểm không còn làm họ nao núng nữa. Thực ra họ chưa hoàn toàn bình an đâu. Sau khi Chúa Giêsu biến đi thì họ lại sợ, lại đóng cửa trốn. Có lần họ cũng đánh bạo cùng nhau đi đánh cá. Nhưng mới thấy có một cái bóng đen tiến đến là họ lại sợ, họ tưởng là ma. Và khi biết đó là Chúa thì họ lại hết sợ. Mãi tới khi Chúa Giêsu nói với họ trước khi về trời rằng: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”, thì họ mới hết sợ hoàn toàn, họ mới hoàn toàn được bình an. Kể từ đó trở đi, các môn đệ mạnh dạn ra đi rao giảng. Người ta bắt, họ cũng không sợ, người ta tra tấn, họ không sợ mà còn vui mừng vì được chịu khổ vì Thầy; người ta xử tử, họ vẫn bình an vui sướng vì được giống như Thầy.
Như vậy, Bình an tức là một sức mạnh, một nơi nương tựa, một nguồn an ủi khiến ta không nao núng sợ sệt dù phải đứng trước bất cứ gian truân nguy hiểm nào. Bình an ấy có được khi ta ý thức có Chúa vẫn ở bên cạnh mình.
Giống như một em bé. Em đang chơi vui vẻ thì trời đổ mưa lớn. Sấm chớp ầm ầm, em hoảng sợ khóc thật lâu. Nhưng mẹ em đã đến, bế em vào lòng, em cuộn mình trong lòng mẹ và ngủ thiếp đi. Sau đó dù mưa vẫn cứ rơi, sấm chớp vẫn cứ ầm ầm, nhưng em vẫn ngủ yên vì em đang ở trong vòng tay che chở của mẹ. Đó là một hình ảnh rất đẹp giúp ta hiểu thế nào là sự bình an.
Phần chúng ta, nếu chúng ta luôn ý thức có Chúa ở bên cạnh mình, và ta luôn nương tựa vào Chúa như em bé nương tựa vào mẹ nó thì chúng ta cũng sẽ luôn được bình an.
Có một gia đình nọ, nhà nghèo, lao động thật là vất vả, tính toán làm ăn rất là lo âu. Nhưng chiều về, vợ chồng con cái đều quây quần trước bàn thờ gia đình và cùng đọc kinh tối chung. Họ dâng lên Chúa những lao nhọc trong ngày, họ xin Chúa thứ tha những vấp váp lỗi lầm đã phạm, họ phó dâng cuộc sống cùng tất cả mọi âu lo cho Chúa. Sau đó họ lên giường ngủ. Bình an! Biết bao gia đình khác cũng lao động vất vả như họ, cũng lo âu toan tính như họ, nhưng các gia đình đó không có được một giấc ngủ bình an. Chỗ khác nhau là một bên có Chúa và biết sống với Chúa, còn một bên thì không.
Hay như một cụ già kia đang hấp hối, cái chết gần kề mà vẫn bình thản sẵn sàng buông tay nhắm mắt ra đi không hề sợ sệt, vì cụ già ấy biết rằng mình ra đi là ra đi trong tay Chúa. Trong khi có biết bao nhiêu người khác đối diện với cái chết mà lòng hoang mang sợ hãi, họ sợ không dám ra đi, vì họ không biết đi về đâu, họ không có Chúa cùng đi với họ.
Kinh nghiệm mà các môn đệ đã trải qua là một bài học quý giá cho chúng ta. Sau khi Chúa Giêsu bị quân thù bắt giết đi, các ông đã sợ hãi trốn kín trong phòng đóng cửa lại, sợ vì cảm thấy cô thế không có Thầy nâng đỡ. Nhiều lần chúng ta gặp cảnh túng thiếu, gian truân, hiểm nguy, chúng ta cũng sợ hãi như thế, chúng ta muốn rút lui trốn tránh, chúng ta muốn ngã lòng, là vì chúng ta không có Chúa ở với mình. Nhưng khi các môn đệ đã biết có Chúa ở bên cạnh họ, cho dù Chúa chỉ hiện diện một cách vô hình sau khi Chúa đã về trời, các ông không còn sợ nữa mà lòng luôn bình an dù phải đối diện với bất cứ hiểm nguy nào. Thì chúng ta cũng thế: Chúa hằng ở bên cạnh chúng ta nếu chúng ta ý thức được điều đó, nếu chúng ta biết tin yêu phó thác vào Chúa và làm việc gì chúng ta cũng nghĩ là có Chúa cùng làm với chúng ta thì chúng ta cũng sẽ luôn được bình an.
Nguyện chúc bình an của Chúa hằng ở cùng chúng ta luôn mãi. Amen.
*4. Bài học từ Tôma
Thật là sai lầm khi tưởng rằng tin là chuyện dễ dàng đối với những kẻ may mắn được thấy Chúa Giêsu hơn là đối với chúng ta ngày nay. Tin Mừng đã cho thấy có nhiều người đã được thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn không tin. Vậy “thấy” không nhất thiết sẽ dẫn tới “tin”. Muốn tin thì phải có một quyết định.
Thực thế, các sách Tin Mừng đã kể rằng ngay cả các tông đồ mà cũng gặp khó khăn trong việc tin. Tôma không phải là người duy nhất đã hồ nghi về việc Chúa Giêsu sống lại, mọi tông đồ khác cũng thế. Tin Mừng Thánh Mác cô kể rằng khi Chúa Giêsu hiện ra với họ vào buổi chiều ngày phục sinh thì Ngài đã “trách họ vì sự không tin và cứng lòng bởi họ đã không tin theo lời của những người đã từng thấy Ngài sau khi Ngài sống lại” (Mc 16,14)
Chúng ta có thể thông cảm với các tông đồ. Việc Chúa Giêsu bị đóng đinh quả là một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt họ. Họ đã đầu tư rất nhiều vào Ngài. Họ đã bỏ nghề nghiệp và bỏ hết mọi sự để theo Ngài. Rồi bỗng nhiên Ngài bị giết chết. Thực tế về cái chết của Ngài càng rõ ràng bao nhiêu thì họ càng cảm thấy mất mát bấy nhiêu. Giá trị và ý nghĩa của mọi thứ đều bị đe dọa: tình thân với Ngài, niềm tin vào Ngài, và cả cuộc đời của họ nữa.
Đang lúc đó thì một chuyện không thể tin được xảy ra: đột nhiên họ nhìn thấy Ngài đang đứng ở giữa họ. Việc đầu tiên Ngài làm là chỉ cho họ thấy các vết thương của Ngài. Tại sao Ngài làm thế? Thứ nhất là vì những vết thương ấy giúp họ nhận dạng được Ngài, xác định Ngài vẫn là người trước đó đã bị đóng đinh. Thứ hai là những thương ấy là bằng chứng rằng Ngài yêu thương họ, một tình yêu chứng tỏ bằng hành động. Kế đó Chúa Giêsu mời họ hãy xem và hãy sờ vào những vết thương ấy.
Thái độ của Tôma rất đáng làm gương cho chúng ta. Đó là một thái độ thẳng thắn vì không dấu diếm nỗi hồ nghi của mình. Hồ nghi thường là dấu chỉ của sự yếu kém. Khi chúng ta hồ nghi ai thì đồng thời chúng ta cảm thấy như mình có lỗi với người ấy. Tuy nhiên hồ nghi cũng có thể là một bước khởi đầu tốt, dẫn tới một sự hiểu rõ hơn và sâu hơn. Đây là trường hợp của Tôma: nhờ hồ nghi nên sau đó Tôma đã đạt tới một lời tuyên xưng đức tin cao nhất trong sách Tin Mừng “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”.
Ở thế gian này, chẳng có gì là tuyệt đối chắc chắn về những sự thiêng liêng, vì nếu có thì đâu cần tới đức tin nữa. Những sự tuyệt đối chắc chắn có thể dẫn tới thái độ ngạo mạn, bất khoan dung và ngu xuẩn. “Người có đức tin mà không bao giờ cảm thấy hồ nghi thì thực ra không phải là người có đức tin” (Thomas Merton)
Mỗi cộng đoàn đều cần có một con người như Tôma, tức là con người dám đặt ra những câu hỏi mà không ái khác dám đặt ra. Người như thế là người đáng tin, người như thế còn giúp những khác trở thành những kẻ đáng tin, bởi vì người như thế giúp cho những người đang tin nhận ra đức tin của họ còn yếu kém lắm, và đồng thời cũng làm cho những kẻ hồ nghi cảm nhận được nỗi ray rứt khi không có niềm tin.
Sau khi vượt qua cơn khủng hoảng đức tin, Tôma đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Giêsu và trở thành một trong những vị thừa sai vĩ đại nhất của Giáo Hội sơ khai. Theo thánh truyền, ngài đã mang Tin Mừng đến các xứ Ba Tư, Syria và Ấn Độ, nơi ngài chịu tử đạo. Tôma là vị tông đồ đầu tiên chết vì đức tin.
Chúa Giêsu mời chúng ta đến gần Ngài trong đức tin và chạm vào các vết thương của Ngài. Mặc dù chúng ta không thể chạm tới Ngài một cách thể lý, nhưng chúng ta có thể đến gần Ngài một cách thiêng liêng. Chúa Giêsu cũng mời chúng ta làm chứng cho Ngài trước mặt những người khác. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho Chúa Giêsu trở thành hữu hình trong thế giới hôm nay. Đó cũng là nhiệm vụ của các tông đồ ngày xưa. Ngày xưa khi các tông đồ đã nhìn thấy Chúa rồi thì các ông cảm thấy được thúc đẩy phải làm cho nhiều người khác cũng biết và tin vào Ngài.
Thế giới hôm nay đầy dẫy những hoài nghi và những người không tin. Cách duy nhất khiến họ tin là làm sao cho họ “thấy” được Ngài, “chạm” được Ngài nơi những môn đệ của Ngài. Thế nhưng, nếu các môn đệ của Chúa Giêsu không có những vết thương để chỉ cho người ta thấy và cho người ta chạm vào thì làm sao mà người ta tin được!
Ước gì chúng ta được ở trong số những người được Chúa Giêsu công khai chúc phúc “Phúc cho những ai tuy không thấy mà vẫn tin” (FM)
*5. Khủng hoảng đức tin
Khủng hoảng đức tin là chuyện thường gặp. Tôma đã gặp, và Tolstoy cũng đã gặp, như câu chuyện sau đây:
Năm 1879, Tolstoy 51 tuổi. Khi đó ông có đầy đủ mọi lý do để thỏa mãn về đời mình. Ông đã viết nhiều tác phẩm, đặc biệt hai bộ “Chiến tranh và Hòa bình”, và “Anna Kerenina”. Những tác phẩm ấy đã khiến ông nổi tiếng và bảo đảm cho ông một vị trí nổi bật trong lịch sử văn chương thế giới. Ai cũng công nhận ông là người có thiên tài và đầy óc sáng tạo. Lẽ ra Tolstoy phải rất hạnh phúc. Thế nhưng ông lại cảm thấy bất hạnh. Ông thấy đời mình thật vô nghĩa lý. Một câu hỏi luôn ám ảnh ông: “Liệu trong dời mình có cái gì có ý nghĩa mà không bị sự chết hủy diệt đi không?”. Khoảng thời gian ấy thật khủng khiếp đối với Tolstoy, đến nỗi ông đã tính đến việc tự tử. Ông đi tìm câu trả lời trong mọi lãnh vực kiến thức loài người. Ông tìm kiếm suốt ngày suốt đêm, giống như một người sắp chết đi tìm đường sống. Nhưng tìm mãi mà ông chẳng gặp gì cả.
Thế rồi ông tìm nơi những niềm tin Kitô giáo. Thực ra ông đã được sinh ra và lớn lên trong đức tin Kitô giáo nhưng ông cũng đã bỏ nó từ lâu, lý do là ông thấy nó quá vô nghĩa trong môi miệng những người sống ngược hẳn với đức tin của họ. Tuy nhiên cũng chính đức tin ấy lại thu hút ông khi ông nhìn những tín hữu sống đức tin ấy. Ông viết: “Tôi đã nghĩ rằng chẳng có sự thật chắc chắn nào trong đời. Nhưng rồi tôi đã tìm thấy một nguồn sáng chắc chắn, ấy là Tin Mừng. Tôi đã loá mắt vì sự sáng ngời của Tin Mừng. Những lời dạy của Chúa Giêsu quả thực là một giáo huấn tinh tuyền nhất và trọn vẹn nhất cho đời sống. Từ 2000 năm nay, những lời dạy cao quý ấy đã tác động lên biết bao người một cách tuyệt vời không thể tìm được nơi bất cứ ở nào khác. Từ đó một ánh sáng đã bừng chiếu trong tôi và quanh tôi, và ánh sáng ấy không bao giờ rời xa tôi nữa”.
Có nhiều người được sinh ra trong đức tin, và trải qua bao năm tháng đức tin ấy vẫn cứ vững mạnh. Thật là một ơn ban vô cùng quý giá. Nhưng cũng có nhiều người mà đức tin luôn là một cuộc chiến đấu liên lỉ. Họ phải trải qua những cơn khủng hoảng đức tin rồi mới có được một đức tin sâu sắc và xác tín.
Nói cách lý thuyết, chỉ có đức tin mới trả lời được cho những câu hỏi sâu xa về cuộc đời. Nhưng trên thực tế, chúng ta không nên hy vọng rằng đức tin sẽ giải quyết hết mọi vấn đề của chúng ta. Không phải chỉ vì chúng ta tin mà chúng ta có được mọi câu trả lời. Tuy nhiên chúng ta đâu cần biết hết mọi câu trả lời, vì tin là tín nhiệm chứ không phải là chắc chắn.
Câu chuyện của văn hào Tolstoy giúp chúng ta nhận thức rằng đức tin được chứa đựng trong một chiếc bình dễ vỡ như thế nào. Nó cũng giúp ta hiểu thêm rằng đức tin kitô giáo chủ yếu không phải là tin vào một mớ giáo điều, mà là tin vào một Đấng đã yêu thương chúng ta – những thương tích của Ngài chứng tỏ điều đó. Hơn nữa, Thánh Kinh còn cho ta biết điều quan trọng không phải là niềm tin chúng ta đặt vào Thiên Chúa mà là niềm tin mà Thiên Chúa đặt vào chúng ta. (FM)
*6. Chuyện minh họa
Có một vị hoàng đế kia trị vì một đất nước giàu có hùng mạnh. Nhưng tâm hồn ông không thoải mái an vui vì ông luôn bị ray rứt bởi những tội lỗi tàn bạo đã phạm trong thời quá khứ. Một hôm ông bỏ hoàng cung đi vào rừng, cất một túp lều đơn sơ. Trong rừng có một vị ẩn sĩ. Nhà vua tìm đến và nói: “Thưa Ngài, tôi muốn từ bỏ kinh thành ồn ào náo nhiệt vào đây để tìm được một sự bình an như Ngài đang hưởng”. Ẩn sĩ đáp: “Tâu đức vua, ở đây cũng không hơn gì nơi khác, vì bình an phải ở trong lòng người”. Nhà vua trở về lều mình. Khi thì quỳ gối tha thiết đọc kinh, khi thì thơ thẩn trong rừng, chỉ ăn lương khô và uống nước lã. Chiều đến nhà vua mệt lả ngả mình xuống đất có trả một mớ lá khô. Nhưng suốt đêm cứ trằn trọc không ngủ được. Sáng hôm sau ông tìm đến vị ẩn sĩ: “Thưa ngài, lương tâm tôi cắn rứt làm tôi không ngủ được. Xin ngài nghe lời thú tội của tôi”. Ẩn sĩ đáp: “Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội thôi”. Nhà vua cãi: “Nhưng tôi không nghe được tiếng Chúa”. Ẩn sĩ trả lời: “Tiếng Chúa chỉ nghe được trong thinh lặng, mà thinh lặng chỉ có ngay trong lòng ta. Người nào chỉ biết kêu cầu than rên rỉ mãi mà không biết thinh lặng lắng nghe thì sẽ không nghe được tiếng Chúa”. Nhà vua trở về. Vài hôm sau ông đến chào vị ẩn sĩ: “Tôi đã nghe lời ngài, tôi không kêu than rên rỉ nữa mà tập thinh lặng lắng nghe, và tôi đã được nghe tiếng Chúa. Nhưng đó không như tiếng loài người, tôi chỉ nhận thấy như một cảm xúc êm dịu là lỗi lầm của tôi đã được tha thứ. Xin cám ơn ngài, hôm nay tôi sẽ trở về triều đình”.
Vài năm sau nhà vua lại trở vào rừng, và cũng tìm đến vị ẩn sĩ: “Thưa ngài không bao giờ tôi quên được tâm trạng an bình khi sống trong rừng này. Hôm nay tôi muốn trở lại đây ít lâu để cầu xin Chúa cất bớt những gánh nặng mà hằng ngày tôi phải vác”. Ẩn sĩ đáp: “Tâu Bệ Hạ, khi chúng ta phàn nàn với Chúa về các gánh nặng của mình thì cách đáp ứng tốt nhất của Chúa là không phải cất những gánh nặng đó đi, nhưng là tăng cường đôi vai của ta để ta có thể vác nổi những gánh nặng đó”. Nhà vua thắc mắc: “Nhưng làm sao biết được Chúa đang tăng cường sức mạnh cho ta?” Ẩn sĩ: “Bao lâu ta còn dãy dụa chiến đấu thì ta chưa nhận biết được điều đó. Cần phải thinh lặng, ngưng chiến đấu mà chờ đợi sự trợ giúp của Chúa thì khi đó ta mới cảm thấy được bàn tay uy quyền của Chúa đang giúp sức cho ta”. Nhà vua cám ơn lui về. Vài ngày sau trở lại chào biệt vị ẩn sĩ: “Thưa ngài tôi đã cảm nghiệm rằng Đấng đã làm cho cỏ cây xanh tốt và nuôi nấng chim trời cũng đang dang tay tăng sức mạnh cho đôi vai tôi. Xin cám ơn ngài và chào ngài”.
Thế là nhà vua trở về triều đình. Mấy năm sau ông lâm trọng bệnh, sai người đi mời vị ẩn sĩ đến. Khi ẩn sĩ đến, nhà vua nói: “Thưa ngài đã hai lần ngài giúp tôi tìm thấy bình an. Bây giờ là lần thứ ba mà cũng là lần chót, vì tôi sắp từ giã cõi đời này”. Ẩn sĩ hỏi: “Bệ Hạ có còn nhớ cái ngày mà cơn khủng khiếp đầu tiên rời xa Bệ Hạ?” Vua đáp: “Không bao giờ tôi quên, đó là ngày tôi biết lắng nghe tiếng Chúa trong thâm tâm”. Ân sĩ hỏi tiếp: “Bệ hạ còn nhớ cái ngày mà cơn khủng khiếp thứ hai rời xa Bệ Hạ không?” Nhà vua đáp: “Cũng không bao giờ quên, đó là ngày tôi biết chờ đợi trong thinh lặng ơn Chúa đến tăng sức cho tôi”. Ẩn sĩ bây giờ cao giọng: “Tâu Bệ Hạ, Bệ Hạ đã được nghe tiếng Chúa, Bệ Hạ đã được thấy bàn tay Chúa tăng sức cho Bệ Hạ. Bây giờ Bệ Hạ sắp được chiêm ngưỡng Chúa”. Nhà vua sung sướng như đang mơ: “A, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Chúa. Nhưng làm sao được?” Ẩn sĩ giải thích: “Chỉ khi ở trong yên lặng tuyệt đối, khi cái nhìn của chúng ta không còn nhìn vào cõi đời đầy những sầu thương tang tóc, không còn ngó nhìn về những tương lai với những ước mơ hay sợ sệt, không còn ngó vào bên trong mình để ngắm chính cuộc đời mình, mà chỉ nhìn về hướng duy nhất là Chúa thôi, thì khi ấy chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng Chúa”. Nhà vua thì thầm: “Yên lặng tuyệt đối. Người ta có thể yên lặng tuyệt đối không?” Ẩn sĩ đáp: “Ở đời này thì không. Nhưng trong sự chết thì được”. Nhà vua sung sướng thì thầm: “Thế thì tôi muốn chết”. Và ông sai sứ giả đi khắp nơi trong nước ra lệnh cho thần dân đừng cầu nguyện cho ông khỏi chết nữa. Còn trong phòng của nhà vua thì cả ngày hôm đó rất yên tĩnh. Khi bình minh ló rạng thì nhà vua ra đi an bình. Cái nhìn của ông như chìm vào một cõi xa xăm, một nụ cười tươi sáng rạng ngời trên gương mặt của nhà vua. Ông đã chiếm hữu được sự an bình vĩnh cửu (Vị Ẩn sĩ)
*7. Thơ Tagore
“Vào hôm thần chết đến gõ cửa, anh sẽ lấy gì biếu hắn hở anh?
Ồ, tôi sẽ đặt trước mặt khách cốc rượu đời mình tràn đầy, tôi sẽ chẳng chịu để khách ra đi tay không.
Lúc năm tháng đời tôi khép lại, khi thần chết đến gõ cửa mời đi, tôi sẽ đặt trước hắn tất cả trái nho thơm dịu của những ngày mùa thu, những đêm mùa hè, những gì kiếm được, những gì chắt chiu trong suốt cuộc đời cực nhọc.
Ôi thần chết, ngươi làm cuộc đời tràn đầy lần cuối. Thần chết của ta ơi, hãy lại và thì thầm cùng ta chứ (…)
Tôi biết ngày ấy thế nào cũng đến, lúc tôi nhắm mắt thôi không nhìn trái đất này, rồi cuộc đời sẽ thầm lặng ra đi, kéo manh che kín mắt tôi lần cuối (…)
Khi tôi nghĩ đến phút giây cuối cùng ấy (…) nhờ ánh sáng lâm chung tôi thấy thế giới Ngài trần trề châu ngọc. Ở đó, chỗ nương thân tầm thường nhất cũng thú vị, ở đó cuộc đời hèn mọn nhất cũng thơm tho (…)
Tôi đã được phép giã từ. Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em! Tôi cúi đầu chào tất cả trước khi lên đường!”
*V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng ta hãy tôn vinh Người và dâng lời cầu xin:
- Chúa luôn hiện diện trong Hội thánh cho đến ngày tận thế / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giám mục / linh mục / phó tế / biết luôn chu toàn sứ mạng dẫn dắt Dân Chúa trên con đường lữ thứ trần gian.
- Khát vọng sâu xa nhất của hết thảy mọi người trên trái đất này / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho thế giới được bình an / và mọi người thoát được cảnh đói nghèo.
- Khi sống lại từ cõi chết / Chúa đem niềm hy vọng đến cho những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Người thương nâng đỡ những kẻ tật nguyền đau yếu / cho họ mau bình phục / để họ sống mạnh khỏe an vui.
- Lạy Chúa / Lạy Thiên Chúa của con / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / cũng biết noi gương thánh Tôma mà tuyên xưng niềm tin của mình / bằng đời sống mến Chúa yêu người.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, sau khi Phục sinh vinh hiển, Chúa đã hiện ra cho các tông đồ được thấy tỏ tường. Xin củng cố niềm tin còn quá yếu kém của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
*VI. Trong Thánh Lễ
– Chúc bình an: Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, Ngài đã chúc bình an cho họ. Giờ đây, trong niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh, chúng ta cũng hãy chúc cho nhau được bình an.
*VII. Giải tán
Chúa Giêsu phục sinh đã mang lại bình an cho những kẻ tin Ngài. Chúc anh chị em ra về và luôn sống trong bình an của Chúa.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam