Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 57

Tổng truy cập: 1379478

SỐNG KHÔNG THÀNH KIẾN

Sống không thành kiến

Người ta, ai cũng yêu mến quê hương, yêu mến nơi sinh trưởng, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Nhưng tình cảm người đồng hương dành cho mình thì khác, đôi khi phải chấp nhận chân lý bất hủ của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay là "không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình". Đây cũng là một quan niệm cố hữu bình dân: "Bụt nhà không thiêng". Chúa Giêsu đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản thân Ngài tại quê hương Nagiareth của Ngài. Chúng ta hãy xem xét và sửa đổi quan niệm sai lệch để vui lòng tiến bước trong đường lối và ân sủng của Thiên Chúa.

Người ta thường dễ mắc phải sai lầm do thành kiến, do cái nhìn bề ngoài của mình nên dễ rơi vào lối suy nghĩ coi thường người khác "Bụt nhà không thiêng". Điều này dẫn đến những lời nói, thái độ và hành động lệch lạc gây ảnh hưởng không tốt cho cuộc sống. Thật thế, Phúc âm hôm nay kể lại, Chúa Giêsu trở về quê hương Nagiareth của mình, trong tư cách là một ngôn sứ, là một bậc thầy. Ngài trở về lần này có các môn đệ tháp tùng. Vào ngày Sabat, Ngài vào hội đường đọc sách Thánh và công bố giáo lý của mình. Dân làng ngạc nhiên. Họ bảo nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?" Và họ vấp ngã vì Người. (Mc 6, 2-3). Người dân làng Nagiareth ngạc nhiên, vì họ thấy Ngài không đi học ở trường lớp nào mà sao lại có những lời lẽ khôn ngoan, cao siêu, mới lạ. Mặt khác, biết quá rõ về thân thế và lý lịch của Đức Giêsu, biết quá rõ họ hàng của Ngài nên họ không thể nào để cho khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ. Họ thấy Ngài chỉ là con bà Maria và ông Giuse thợ mộc, bản thân Ngài cũng chỉ là một anh "thợ mộc con", mà sao có thể giỏi như thế? một người bình thường nếu không muốn nói là dân quê, dốt nát, nghèo hèn,...Càng nghĩ đến thân thế, nguồn gốc, địa vị xã hội và họ hàng Ngài, họ càng thấy khó chịu, nên họ có vẻ châm biếm khi gọi Ngài là thợ mộc. Một người như vậy mà có thể là ngôn sứ, là Đấng Mêsia ư? Trăm lần không, ngàn lần không và họ đã bị vấp phạm, bị chạm tự ái. Họ không thể công nhận một người như thế làm ngôn sứ, làm Đấng Mêsia của họ, cho dù Ngài ăn nói giỏi hay làm được phép lạ cũng thế. Từ đó, sự hiện diện của Ngài khiến họ không thể chịu nổi. Họ không thể ngờ được giữa bụi đất lại có kim cương, họ không thể hiểu được nơi Chúa có hai bản tính, họ không thể nhận ra yếu tố Thiên Chúa và con người, hữu hạn và vĩnh cửu, trời và đất, hạnh phúc và đau khổ giao hòa lại trong một thực tại duy nhất, là nơi con người Chúa Giêsu. Đó là điều làm cho họ vấp phạm, họ khinh thường Chúa và không thiết nghe lời chân lý của Ngài.

Cái nhìn thiên kiến làm cho họ lệch lạc. Theo họ, Đấng Thiên Sai, phải xuất thân từ dòng dõi Vua Chúa chẳng hạn như Vua Đavit, sống trong cung điện hay trong hàng tư tế chính hiệu hay phải là thuộc người có đầy quyền uy thế lực nổi tiếng. Thế nhưng rõ ràng trước mắt họ đây là một tên thợ mộc Giêsu "không có gì hay" chỉ là người thuộc giới nghèo hèn, không có lấy một tiếng tăm, không có địa vị gì trong xã hội cả, một người quá tầm thường! Như thế, từ lý lịch gia đình đến nghề nghiệp và địa vị xã hội, tất cả rõ ràng như ban ngày. Họ quá biết về Ngài. Điều này đã trở thành chướng ngại cho họ tin Ngài là Đấng Thiên Sai. Vì thế, họ nhạo cười Ngài, không đón nhận Ngài, quay lưng lại với cả Thiên Chúa, Đấng sai Ngài đến, quay lưng lại với sứ mạng Cứu Thế mà Thiên Chúa uỷ thác. Do đó, một lần nữa người đồng hương đã chứng tỏ thái độ kiêu ngạo, phản loạn chống lại Thiên Chúa. Đầy cũng là hình ảnh biểu trưng cho con người thời đại.

Ở đây Thánh Marco cho thấy thái độ của dân làng Nagiareth đối với Chúa Giêsu như thái độ chung của loài người. Ngài là nạn nhân của chủ nghĩa lý lịch như Ngài đã tuyên bố sau thái độ này: " Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi" (Mc 6, 4). Những người đồng hương, bà con của Ngài đã không muốn trở thành bà con đích thật của Ngài nhờ lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Sai, là Vị Cứu Tinh.

Người Công Giáo nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta là những người đồng hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta trở thành anh em của Chúa Giêsu trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Có thể, chúng ta chẳng còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Phúc âm, trong Lời Ngài, trong quyền năng cứu độ của Chúa trong Giáo Hội và các Bí tích. Rất có thể, chúng ta đã và đang đi tìm sự khôn ngoan, tìm ơn cứu độ ở những người khác, nơi khác. Khi đó, chúng ta làm như thể Chúa Giêsu cũng chỉ là bác thợ mộc làng Nagiareth không hơn không kém, một người Do Thái của thế kỷ thứ nhất. Phúc âm hôm nay một lần nữa mời gọi chúng ta xác định lập trường, thái độ của mình đối với Đức Giêsu Kitô. Đừng đánh giá người ta theo cái nhìn định kiến, theo cái nhìn lý lịch, càng không thể nhìn Đức Giêsu bằng con mắt giống như người Do Thái năm xưa. Thiên Chúa đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người nơi Đức Giêsu Nagiareth. Thiên Chúa đã mạc khải tình thương và ơn cứu độ của ngài không phải ở bề ngoài, không ở giàu sang danh vọng, càng không giống theo kiểu lý lịch của con người nhưng ở trong người nghèo khổ, trong người bị bỏ rơi...

Ở đây niềm tin mời gọi chúng ta phải vượt qua dáng vẻ bề ngoài để đạt tới mầu nhiệm thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng Thiên Sai, là Vị Cứu Tinh, là Đấng cứu chuộc nhân loại có một không hai trong thế giới. Với cuộc khổ nạn và phục sinh của mình, Chúa Giêsu Kitô đã nói lên tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa tình yêu đối với nhân loại, đối với mọi người, kể cả những kẻ chống đối, kẻ phản bội tình yêu Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không phải là một thất bại nhưng là một chiến thắng, chiến thắng của tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự hèn yếu của con người

Chúng ta có quyền trách dân làng Nagiareth quá vội vàng hoặc tiếc thay cho họ vì họ đã bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, chúng ta sẽ tự trách mình, và còn tiếc nuối biết bao cơ may trong đời chúng ta đã đánh mất vì quan niệm hay cái nhìn hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta kiểm điểm về cách chúng ta phán đoán và đánh giá trị người khác, chúng ta cũng đã nhiều lần phán đoán hay đánh giá người khác hoặc vội vàng, hấp tấp, hồ đồ, hoặc không trung thực vì thành kiến, vì tự ái, vì ganh tị, đôi khi còn bài bác, dèm pha nữa. Chúng ta hãy kiểm điểm và sửa chữa lại tật xấu này để mối tương giao của chúng ta với mọi người được tốt đẹp hơn. Hơn nữa, thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Chẳng hạn, yêu nên tốt, ghét nên xấu: "Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng". Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền. Chúng ta thường to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm. Hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn", "Xanh vỏ mà đỏ lòng". Cho nên, đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.

Tóm lại, dân làng Nagiareth đã không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng cứu tinh. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về tha nhân, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thiên Chúa của chúng con. Chúng con tin mạnh mẽ và hoàn toàn tín thác vào Chúa. Xin Chúa giúp chúng con can đảm loại bỏ thành kiến, loại bỏ quan niệm đánh giá và hành động theo cái nhìn bề ngoài để chúng con luôn nhìn nhận giá trị đúng mức những gì Chúa thương dành cho chúng con và để chúng con nhìn thấy những giá trị cao quý nơi tha nhân. Amen.


 

49. Chối bỏ.

Đức Giêsu trở về quê hương, với những người dân mà Người đã lớn lên ở giữa họ. Bỗng chốc, họ thấy rõ ràng Người đã thay đổi. Khi rời bỏ Nagiarét, Người đã tìm thấy ơn gọi thật của Người (việc Người làm), và tặng vật của Người (sự giáo huấn và chữa lành bệnh) đã nở rộ. Giờ đây Người nổi tiếng là một thầy dạy và một người hay làm phép lạ.

Thông thường, người ta phải đi xa nhà và xa quê hương mình để được triển nở. Ở nhà người ta cảm thấy gò bó, vướng víu vì thiếu cơ hội, sự thách đố và thừa nhận.

Khi trở lại quê nhà, những người ở quê nhà không sẵn sàng chấp nhận điều đó. Họ muốn nhìn một người đi xa trở về như kẻ đã bỏ họ; họ cảm thấy yên tâm và chấp nhận người ấy. Người ấy không còn là một thách thức đối với họ.

Nếu người đi xa trở về ở tình trạng sa sút càng tốt. Thế là họ cảm thấy xót xa cho người ấy. Nhưng nếu người ấy trở về và trở thành một con người đã thay đổi, có lẽ họ cảm thấy bực bội và chối bỏ người ấy. Chính họ bị kẹt cứng trong những lề thói xưa cũ. Vì thế họ cảm thấy bực bội với một người trở về mà bản thân đã làm được một điều gì. Họ cố gắng cắt gọt người ấy theo kích thước riêng của họ.

Dẫu sao, Đức Giêsu đã trở về, và một cách thân tình muốn chia sẻ quà tặng của Người cho những người dân ở quê nhà. Nhưng thay vì Người được đón tiếp nồng hậu. Người thấy dân giám sát, dò xét và theo dõi Người.

Ngay khi Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường họ có thể thấy Người có một món quà đặc biệt – món quà của sự khôn ngoan. Lúc đầu họ có ấn tượng thậm chí họ rất đỗi ngạc nhiên. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó và cởi mở với những điều Người đã ban tặng họ, họ lại hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế?” Đó cũng là câu hỏi mà nhiều cha mẹ hỏi khi nghe con mình biểu lộ một điều làm họ ngạc nhiên. Ở đây chúng ta gặp một mầu nhiệm về sự phát triển của con người. Chúng ta là ai mà đặt giới hạn và biên giới cho khả năng của người khác?

Người dân Nagiarét nhớ lại nguồn gốc khiêm hạ của Đức Giêsu. Vậy thì, Người là ai ngoài một bác thợ tầm thường, họ biết rõ gia đình của Người. Thật vậy, họ đã nói: “Ông ấy nghĩ mình là ai?” Họ cảm thấy họ đã nắm rõ về Người. Họ đã đặt ra những giới hạn cho Người. Một thái độ như thế không cho phép sự trưởng thành và phát triển.

Họ đã từ chối tin Người. Họ đã từ chối nhìn Người một cách nghiêm túc. Bởi thái độ của họ, họ làm cho Người không thể làm gì cho họ, và như thế họ không hưởng được ơn ích từ cuộc viếng thăm của Người.

Đây là một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn – Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận. Thường chúng ta không chịu thừa nhận quà tặng và tài năng của những người gần gũi với chúng ta, trong nhà chúng ta hoặc khu xóm chúng ta. Chúng ta không đánh giá đúng hoặc chấp nhận họ và do đó giới hạn khả năng của họ. Chúng ta không cho họ một cơ hội. Tệ hơn, chúng ta hạ thấp họ. Chúng ta có thái độ bất công rất lớn với họ. Và chúng ta cũng chịu thiệt hại bởi vì chúng ta không được hưởng lợi từ lòng tốt và quà tặng của họ.

Bị chối bỏ là một điều thương tổn. Nhưng đặc biệt thương tổn khi bị những người thân chối bỏ. Đức Giêsu đã ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Người rất muốn giúp đỡ họ nhưng chính Người cũng chịu bó tay. Bạn không thể giúp đỡ những người làm ngược lại ý nuốn của họ. Đức Giêsu buồn rầu vì sự việc đó nhưng Người không tức giận. Sự chối bỏ thường dễ dàng làm cho người ta tức giận.

Chúng ta đều có chút ít kinh nghiệm về điều đó. Chúng ta đã muốn giúp đỡ một người nào đó nhưng người ấy khước từ sự giúp đỡ của chúng ta. Chúng ta cảm thấy bực bội và vô dụng. Khi gặp phải sự chối bỏ, chúng ta có thể bị cám dỗ nói rằng: “Thế đấy! Đừng hòng tôi giúp cho”. Chúng ta quyết định không giúp đỡ một ai nữa. Điều này làm người ta đau khổ.

Đức Giêsu đã không phản ứng như thế. Người không trở nên cay cú. Người đã làm điều nhỏ bé còn có thể làm được ở Nagiarét. Người đã chữa lành một vài bệnh nhân – Rồi người quyết định đem ánh sáng và món quà của Người đi nơi khác.


 

50. Cái dằm.

Trong một giờ phút rất chân thành, thánh Phaolô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã ban cho ngài mọi thứ thị kiến và cho ngài cảm nhận rằng ngài đã đặt một chân vào thiên đàng. Nhưng ngài cũng nói rằng: “Một cái dằm đã đâm vào da thịt tôi” để nhắc ngài nhớ đến sự yếu đuối của mình và để gìn giữ ngài trong sự khiêm nhường.

Một cái dằm trong da thịt – đó là một hình ảnh sống sượng và mạnh mẽ. Chúng ta đều có kinh nghiệm bị dằm đâm vào bàn chân hoặc vào ngón tay. Và chúng ta đã quen thuộc với thành ngữ “Cái gai trước mắt”.

Hình ảnh gợi ra một điều sống sượng và đau đớn – nó liên tục quấy rầy làm người ta không quên được. Nó là một vật ở không đúng chỗ. Nó hết sức phiền hà và làm chúng ta tức giận. Nó có thể là vật rất nhỏ. Tuy nhỏ nhưng lại rất đau.

“Dằm” là hình ảnh của một vấn đề và có thể có nhiều hình thức: một bệnh tật, một điều hối tiếc, một gánh nặng, một nỗi đam mê, một sự cưỡng bách… Nó có thể là những người khó khăn mà chúng ta phải sống với họ. Thánh Phaolô không nói cái dằm của ông là gì. Có lẽ đó là một căn bệnh thể chất tái phát theo định kỳ.

Nhưng ông không nói ông tha thiết muốn thoát khỏi căn bệnh ấy. Nhiều lần ông cầu xin Thiên Chúa lay động cái dằm ấy. Nhưng Thiên Chúa đã không làm. Điều này chứng tỏ rằng chúng ta không được chấp nhận cái dằm mà còn phải tìm cách thoát khỏi nó.

Tình cờ, Phaolô phải chấp nhận sự kiện cái dằm đã có ở đó. Nhưng Thiên Chúa bảo đảm với ông Người sẽ ban cho ông sức mạnh để đối phó với nó: “Ơn của Thầy đã đủ cho con”. Chúng ta cũng phải chấp nhận nếu cái dằm của chúng ta vẫn ở đó. Và những lời “Ơn của Thầy đã đủ cho con” cũng được nói với chúng ta, và cũng là một an ủi to lớn cho chúng ta Thiên Chúa hoạt động vì sự yếu đuối của con người và qua sự yếu đuối ấy.

Cuối cùng, Phaolô phải thừa nhận giá trị và thậm chí khoe mình về cái dằm ấy. Nó giữ ngài khiêm nhường. Nó cho ngài một kinh nghiệm yếu đuối và bất lực. Có nó ngài mới cảm nghiệm quyền năng của ân sủng Thiên Chúa. Chính khi trời êm, con thuyền của mình không đi đâu cả, người thủy thủ mới đánh giá đúng sức mạnh của gió.

Điều như thế cũng xảy đến với chúng ta. Chính trong sự yếu đuối của mình chúng ta mới cảm nghiệm quyền năng của Thiên Chúa. Trong bóng tối của chúng ta, chúng ta mới cảm nghiệm ánh sáng của Người. Trong tội lỗi của chúng ta, chúng ta mới cảm nghiệm lòng thương xót của Người. Nếu “cái dằm” làm chúng ta biết trông cậy nhiều hơn vào quyền năng của Thiên Chúa và gia tăng sự phó thác nơi Người, vậy nó trở nên một suối nguồn của sự trưởng thành và ân sủng cho chúng ta.


 

51. Chối bỏ.

Một gánh xiếc đi lưu diễn đóng trại bên ngoài một ngôi làng. Một buổi tối nọ, không lâu trước giờ trình diễn, ngọn lửa bùng lên trong một chiếc lều. Ông giám đốc gánh xiếc sai một anh hề, lúc đó đã mặc trang phục cho buổi diễn đi vào làng kế cận để xin được giúp đỡ. Nếu ngọn lửa lan tràn qua cánh đồng chỉ còn những gốc rạ khô thì ngôi làng có nguy cơ bị hỏa hoạn.

Anh hề vội vã chạy vào làng. Anh xin người ta ra ngoài làng càng nhanh càng tốt để giúp đỡ dập tắt đám cháy. Nhưng không ai cho rằng anh nói nghiêm túc. Người ta nghĩ đó là một màn quảng cáo khéo léo của giám đốc gánh xiếc. Anh càng cố làm cho họ biết rằng thật sự có hỏa hoạn, thì họ càng cười anh. Sau cùng lửa đã lan đến ngôi làng và thiêu rụi.

Lý do chính mà dân làng không nghe lời cảnh báo là vì họ nhìn người đưa tin chỉ như một anh hề. Điều này làm cho họ hầu như không thể xem xét sự thật trong lời nói anh ta nói với họ.

Có một điều tương tự đã xảy ra với Đức Giêsu khi Người trở về quê hương Nagiarét. Người ta từ chối nghe lời Người. Họ biết rất nhiều về Người. Sứ điệp không gặp may vì người ta đã chối bỏ sứ giả. Thật vậy, họ cố gạt bỏ Người.

Người đã nói sự thật nào cho những người đồng hương để họ thấy đó như một lời đe dọa đến nỗi họ muốn giết chết Người? Người cho họ biết họ là dân được Thiên Chúa chọn. Thế nên người ta phải thấy họ có ít đức tin. Tuy nhiên Người nói với họ Người thấy dân ngoại còn có nhiều đức tin hơn họ. Người tiếp tục gợi ý dân ngoại sẽ chiếm chỗ của họ trong Nước Trời. Vì thế, họ muốn giết Người.

Một trong những dấu chỉ Thiên Chúa chăm sóc dân Người là Người hứa gởi đến cho họ những ngôn sứ để kêu gọi họ trở về với chính họ. Cho dù lời của các ngôn sứ thường là lời phê phán, lời ấy là lời biểu lộ tình yêu.

Thiên Chúa cũng làm thế đối với chúng ta. Người không bỏ mặc chúng ta trong bóng tối sai lầm hoặc làm điều sai trái. Người gởi các ngôn sứ đến với chúng ta, phần lớn ở gần chúng ta. Có thể là ai khác? Nhưng chúng ta cũng có thể chối bỏ các ngôn sứ, đặc biệt khi ngôn sứ mang đến một sứ điệp mà chúng ta không thích nghe. Sự thật mất lòng.

“Bạn làm việc quá vất vả. Bạn bỏ bê gia đình quá nhiều. Bạn không quan tâm đến đời sống trong gia đình và con cái bạn... Bạn làm hư hỏng con cái bạn... Bạn quá chú trọng về vật chất... Bạn uống rượu nhiều quá... Bạn có quá nhiều thành kiến... Bạn luôn đề cao bạn nhất... Bạn thờ phượng Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng...”

Nếu có ai nói với chúng ta một hoặc nhiều sự việc ấy, chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Chúng ta không tấn công ông hay bà ngôn sứ đó hay sao? Sự thật là ít ai trong chúng ta ham thích sự thật. Chúng ta phải cầu nguyện để có can đảm lắng nghe sự thật cho dù có thể đau đớn và đến như cơn gió làm tan đi lòng kiêu ngạo của chúng ta. Sự thật như lời Đức Giêsu nói sẽ giải phóng chúng ta.

Người nào vì yêu thương chúng ta nói với chúng ta sự thật, biết rằng nói ra sẽ làm chúng ta mất lòng và đánh mất tình bạn, người ấy là một người bạn chân thành.

Chúng ta cũng phải cầu nguyện để có can đảm nói ra sự thật với người khác. Kéo một người về với chính lộ là một việc cao cả. Nhưng có một cách để làm việc đó. Đó là làm với tình yêu thương và sự quan tâm. Bí quyết là đồng thời phải có lòng trung thực và nhân hậu.


 

52. Phép lạ.

Bài Tin mừng hôm nay đề cập về phép lạ: Ở quê hương Nagiarét, Đức Giêsu chỉ làm được một ít phép lạ bởi vì dân Nagiarét không tin. Nhân dịp này, chúng ta hãy tìm hiểu xem: phép lạ là gì? Và ngày nay phép lạ còn xảy ra nữa không?

Điều chúng ta cần lưu ý trước tiên là người ta dùng chữ phép lạ theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng, phép lạ là một điều gì có vẻ khác thường, xảy ra lạ hơn bình thường và không giống như người ta dự kiến. Thí dụ như người Do thái ngày nay đã vận dụng nhiều cố gắng lao động, kết hợp với khoa học kỹ thuật mà trồng được những vườn cam ngon ngọt trên miền đất trước đây là sa mạc. Người ta đã coi đó là một phép lạ (theo nghĩa rộng). Còn theo nghĩa hẹp, nghĩa chính xác, phép lạ là điều không những kỳ diệu khác thường, mà còn xảy ra ngoài những qui luật tự nhiên nữa. Thí dụ: trong khoa vật lý học, chúng ta biết có qui luật là một vật có trọng lượng thì bị rơi xuống do sức hút của trái đất. Nhưng nếu có một người nào đó té từ một nhà lầu cao nhưng không rơi xuống đất mà cứ lơ lửng giữa chừng, thì khi đó sự kiện không xảy ra theo qui luật tự nhiên nữa, nên được coi là phép lạ.

Sau khi đã hiểu phép lạ là gì theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bây giờ chúng ta tìm hiểu xem có thể xảy ra phép lạ hay không. Phép lạ hiểu theo nghĩa rộng thì ai cũng nhìn nhận rằng có, kể cả những người không có đạo, kể cả những kẻ vô thần. Người ta nói nhiều đến phép lạ cải tạo ruộng đất, làm theo nghĩa hẹp thì những người vô tín ngưỡng lại không nhìn nhận. Bởi vì muốn có phép lạ theo nghĩa hẹp này thì cần có sự can thiệp của quyền năng thần thánh. Kẻ vô tín ngưỡng không công nhận thần thánh nên cũng không công nhận phép lạ.

Còn đối với chúng ta, những người Công giáo thì sao? Dĩ nhiên vì tin vào quyền năng Thiên Chúa nên chúng ta nhìn nhận có phép lạ. Tuy nhiên cũng cần lưu ý thêm điều này là: Thiên Chúa không làm phép lạ một cách bừa bãi đâu. Vì như đã nói trên: phép lạ (theo nghĩa hẹp) là điều xảy ra ngoài qui luật tự nhiên. Qui luật tự nhiên ấy ai đã thiết lập ra? Thưa là chính Thiên Chúa. Vậy nếu Thiên Chúa đã thiết lập những qui luật tự nhiên thì đương nhiên Thiên Chúa cũng muốn cho vạn vật vận hành theo đúng qui luật tự nhiên mà Người đã thiết lập. Chỉ thỉnh thoảng khi nào có một lý do thật quan trọng thì Chúa mới cho một sự kiện xảy ra ngoài những qui luật tự nhiên đó (và khi đó là phép lạ).

Vậy lý do quan trọng khiến Chúa làm phép lạ là gì? Thường là đức tin. Phép lạ xảy ra để đáp ứng một lòng tin mạnh mẽ vững vàng – hoặc để mời gọi những người chứng kiến càng tin mạnh mẽ vững vàng hơn.

Trong các sách Tin mừng chúng ta đã đọc thấy nhiều lần trước khi làm phép lạ chẳng hạn trước khi chữa cho một người mà từ thuở mới sinh Đức Giêsu hỏi “Con có tin không?” Người đó tuyên xưng đức tin thì Chúa mới làm phép lạ. Ngược lại, đối với vua Hêrôđê không tin mà chỉ muốn có phép lạ để xem cho thỏa thích hiếu kỳ thì Đức Giêsu không làm một phép lạ nào hết. Trong đoạn Tin mừng hôm nay cũng thế: những người đồng hương với Đức Giêsu ở Nagiarét một mặt khinh thường Đức Giêsu chỉ là con của một bác thợ mộc nghèo nàn, tầm thường, nhưng mặt khác khi nghe biết Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ ở những nơi khác thì cũng muốn Đức Giêsu làm phép lạ ở quê hương Nagiarét cho họ hưởng nhờ thì Đức Giêsu cũng không chịu làm phép lạ chỉ để thỏa mãn tính vụ lợi của họ.

Có những người rất nhẹ dạ dễ tin: chuyện gì hơi lạ một chút cũng coi là phép lạ.

Có những người rất hay cầu xin phép lạ: phép lạ được trúng số, phép lạ được khỏi bệnh.

Không phải chúng ta không nên tin cũng như không nên cầu xin nữa. Nhưng sau những phân tích nãy giờ, chúng ta hãy lưu ý: điều quan trọng nhất trong các phép lạ không phải là khía cạnh lạ thường, khía cạnh lợi lộc của chúng, mà chính là đức tin: phép lạ xảy ra là vì đức tin: hoặc để đáp ứng đức tin mạnh mẽ của con người, hoặc để mời gọi con người qua đó mà càng tin vững hơn vào Thiên Chúa.

- Ở Lộ Đức, ở Fatima, ở La Salette v.v... khi mà những biến cố lạ thường xảy ra làm nhiều người xôn xao thì Giáo hội vẫn im lặng. Chỉ sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng một thời gian dài rồi thì Giáo hội mới tuyên bố đấy là phép lạ. Giáo hội cẩn thận như vậy là để khỏi rơi vào mê tín dị đoan. Thiết tưởng mỗi người chúng ta cũng phải cẩn thận như thế trước những điều xảy ra có vẻ khác thường, bởi vì đức tin của chúng ta không phải là nhẹ dạ, mê tín, mà là một đức tin có nền tảng vững chắc, trong sáng.

- Rồi trong cuộc sống đạo của chúng ta, điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý hơn hết là cố gắng rèn luyện cho đức tin của mình càng ngày càng vững mạnh trong sáng hơn. Nói cụ thể: tôi giữ đạo, tôi làm theo những điều Chúa dạy là vì tôi thực sự tin vào Chúa... chứ không phải vì tôi mong Chúa sẽ làm phép lạ cho tôi giàu có, cho tôi trúng số, cho tôi khỏi bệnh một cách lạ lùng... Những điều đó nếu thấy cần thì chúng ta cứ cầu xin, và Chúa nếu thấy rằng tốt thì sẽ ban cho chúng ta. Nhưng chúng ta không nên chỉ giữ đạo vì những điều đó. Chúng ta giữ đạo vì chúng ta tin vào Chúa. Tin vào Chúa chẳng những khi cuộc sống thoải mái dễ chịu, nhưng dù cuộc đời có gặp lúc gian nan, túng thiếu, bệnh tật, buồn khổ... chúng ta vẫn một niềm tin son sắt vào Chúa. Đó mới là một đức tin vững mạnh.


 

53. Thành kiến - Lm Mark Link, SJ.

Bs. Charles Drew là anh cả trong năm người. Ông tốt nghiệp từ McGill ở Gia Nã Đại với bằng Bác Sĩ Y Khoa và Tiến Sĩ Phẫu Thuật.

Tại Đại Học Columbia ở Nữu Ước, ông tìm ra một phương cách để gìn giữ máu trong một thời gian dài, sử dụng trong việc tiếp máu.

Trong Thế Chiến II, ông là giám đốc của ngân hàng máu quốc gia, cung cấp máu cho các quân nhân.

Trong khả năng của mình, ông đã đặt nền tảng cho thủ tục lấy máu và dự trữ máu của Hồng Thập Tự. Thật cay đắng, ông là người da đen và vì thế ông không được phép hiến máu cho Ngân Hàng Máu Hồng Thập Tự.

Vào năm 1944, ông trở thành trưởng phòng nhân viên và giám đốc y tế tại bệnh viện Freedman tại Hoa Thịnh Đốn. Ông được rất nhiều giải thưởng và được nhiều người trong ngành y khoa nhìn nhận ông là một trong những y sĩ hàng đầu thế giới.

Vào năm 1950, ông bị tai nạn xe hơi trầm trọng và mất rất nhiều máu. Một bệnh viện kỳ thị chủng tộc ở Burlington, North Carolina, đã từ chối không tiếp máu cho ông. Ông từ trần trên quãng đường dài để đến một bệnh viện khác mà họ chấp nhận người da đen.

Và vì vậy điều xảy ra là vị bác sĩ trẻ tuổi, thông minh đã từ trần khi mới 45 tuổi - ở đỉnh cao sự nghiệp – chỉ vì một bệnh viện kỳ thị chủng tộc đã từ chối không cho ông được hưởng kết quả của chính sự khám phá của ông.

Câu chuyện thương tâm này đưa chúng ta về với bài Phúc Âm hôm nay.

Ở đây chúng ta thấy người dân không thể hiểu được Đức Giêsu, con của một bác thợ mộc, lại có được kiến thức và quyền năng lạ lùng như vậy.

Do đó, cũng vậy, người ta không hiểu được ở đâu Bs. Drew, con của người da đen, lại có được kiến thức và khả năng tài giỏi như vậy.

Đức Giêsu bị tẩy chay bởi chính người dân mà Người quý mến bất kể những việc lạ lùng mà Người đã thi hành.

Tương tự, Bs. Drew bị từ chối quyết liệt bất kể những thành quả đáng kể của ông.

Sau cùng, Đức Giêsu, là người chữa lành và cứu được nhiều người, lại bị mất mạng bởi chính những người mà Đức Giêsu đã chữa lành và cứu vớt.

Tương tự, Bs. Drew, người đã chữa trị và cứu được rất nhiều người, lại bị mất mạng vì những người mà ông đã chữa trị và cứu giúp.

Điều Thiên Chúa nói với ngôn sứ Ê-giê-kien trong bài đọc một hôm nay có thể là câu nói với Đức Giêsu và cả Bs. Drew:

Ta sai con đến với một dân mà nó từng phản nghịch Ta. Dù chúng có nghe con hay không, chúng sẽ biết là ở giữa họ có một ngôn sứ. Ez 2:3-5

Làm thế nào những câu chuyện của Đức Giêsu trong Phúc Âm hôm nay và của Bs. Drew có thể áp dụng vào đời sống chúng ta?

Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi này khi Người cảnh cáo các môn đệ về những bách hại sắp đến mà nhiều môn đệ sẽ phải chịu. Người nói:

“Hãy nghe đây! Thầy sai anh em đi giống như chiên vào đám sói… [Nhiều người] sẽ ghét anh em bởi vì Thầy. Nhưng ai trung thành đến cùng sẽ được cứu…

“Học trò thì không trọng hơn thầy; nô lệ thì không cao hơn ông chủ. Vì vậy một học trò phải bị hy sinh để trở nên giống thầy của nó, và một nô lệ giống ông chủ của nó” Mt 10:16, 22, 24

Nói cách khác, Đức Giêsu nói rằng nếu người ta tẩy chay Người khi còn sống, chúng ta cũng sẽ đừng ngạc nhiên nếu người ta cũng từ khước chúng ta, môn đệ của Chúa, trong thời gian chúng ta sống.

Thí dụ, chúng ta đừng ngạc nhiên nếu người ta tẩy chay chúng ta vì chống đối việc giết hại mạng sống vô tội qua sự phá thai. Chúng ta đừng ngạc nhiêu nếu người ta tẩy chay chúng ta vì lên tiếng bảo vệ việc khai thác các trẻ vị thành niên.

Chúng ta đừng ngạc nhiên khi người ta tẩy chay chúng ta vì đứng lên bảo vệ những gì chúng ta tin là quyền lợi.

Chúng ta đừng ngạc nhiên ngay cả khi các Kitô Hữu khác từ khước chúng ta vì quốc tịch hay tình trạng kinh tế, xã hội của chúng ta.

Chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi chính gia đình tẩy chay chúng ta. Đức Giêsu nói điều này sẽ xảy ra:

“Người ta sẽ nộp chính anh em mình để bị tử hình, và các người cha sẽ thi hành như vậy với con cái; ngược lại, con cái sẽ chống đối với cha mẹ.” Mt 10:21

Thí dụ, một cha mẹ có thể không muốn thật lòng tha thứ cho đứa con. Hoặc một đứa trẻ có thể từ chối không thật lòng tha thứ cho cha hay mẹ.

Khi sự khước từ này xảy ra, chúng ta bị cám dỗ bỏ cuộc. Chúng ta bị cám dỗ ngừng yêu thương. Chúng ta bị cám dỗ trở nên hận thù và hằn học.

Nếu điều này xảy ra, chúng ta không được khoán trắng cho cảm tưởng. Thay vào đó, chúng ta phải bắt chước Đức Giêsu, Người nói chúng ta phải tha thứ cho kẻ thù và “cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em.” Luke 6:28

Hãy nghĩ đến một thí dụ cụ thể. Vào năm 1861, Jefferson Davis, tổng thống của Liên Bang Hoa Kỳ, đang tìm kiếm ai đó để giữ chức vụ then chốt trong nội các. Do đó ông hỏi Tướng Robert E. Lee về một người nào đó tên là Whiting. Tướng Lee rất khen ngợi người này.

Một trong những sĩ quan của Tướng Lee mời ông ra ngoài và hỏi ông có biết về những nhận xét mà Whiting đã xúc phạm đến ông không. Tướng Lee trả lời, “Tôi hiểu rằng Tổng Thống muốn biết ý kiến của tôi về Whiting, chứ không phải ý kiến của Whiting về tôi.”

Tướng Lee đã không để sự cám dỗ làm chủ ông vì những tổn thương, thay vào đó ông đã nhìn đến sự thật và tình thương.

Nói tóm, các bài đọc hôm nay dậy chúng ta hai điều.

Thứ nhất, có khi người ta sẽ tẩy chay chúng ta, cũng như họ đã tẩy chay Đức Giêsu. Thứ hai, chúng ta không thể để sự tẩy chay này khiến chúng ta thù hận, cũng như Đức Giêsu không để sự khước từ khiến Người không còn yêu mến họ nữa.

Chúng ta hãy kết thúc bằng cách lắng nghe những lời của Đức Giêsu nói trong Bài Giảng Trên Núi:

“Phúc cho anh em khi bị người đời ghét bỏ, tẩy chay, sỉ nhục anh em, và nói đủ điều xấu xa cho anh em, tất cả chỉ vì Con Người! Hãy vui lên khi những điều đó xảy ra và hãy nhảy múa mừng rỡ, bởi vì phần thưởng lớn lao được dành cho anh em ở trên trời.” (Lc 6:22-23)

home Mục lục Lưu trữ