Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 33
Tổng truy cập: 1379136
SỨC MẠNH NƯỚC TRỜI
Đức Giêsu nói: “Chuyện nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện người gieo giống trong đồng ruộng”.
Đức Giêsu dùng một so sánh rất tự nhiên mà các thính giả của Người đều biết rõ. “Gieo hạt giống” đó là một cử chỉ rất quen thuộc, đến nỗi ta có nguy cơ không còn nhận ra mầu nhiệm của nó nữa. Đây là việc làm rất mạo hiểm. Hạt giống này sẽ ra thế nào?
Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Đất tự nó sinh ra hoa màu: Trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt.
Người ta đã gọi dụ ngôn này là “hạt giống tự mọc lên”. Quả nhiên, mọi sự diễn tiến như thế. “Không ai” chăm sóc hạt giống khi rớt xuống đất, như thể người nông dân đã không quan tâm đến hạt lúa mà anh đã gieo. Đây là một dụ ngôn lạc quan nhất mà chúng ta có được. Máccô là thánh sử duy nhất đã kể lại dụ ngôn này. Chúng ta hãy để cho trí tưởng tượng hoạt động quay lại cuộn phim về sự tăng trưởng này, mà ta không nhận thấy và không hiểu được ngày nay cũng như vào thời Đức Giêsu.
Những nhà bác học của chúng ta đã tiến bộ rất nhiều trong việc mô tả và phân tách những biến động bên ngoài, nhưng chưa vị nào biết được sự sống là cái gì. Ngay khi một hạt giống rơi xuống đất, thì trong vòng bí mật, bắt đầu một sự chuyển hóa vật chất thật tuyệt vời, một loạt những sự kỳ diệu mà ta không thấy được. Dù con người có lo lắng về việc đó hay không, thì trong phần cốt yếu của nó sự sống không tùy thuộc con người. Việc trồng trọt giúp thiên nhiên, nhưng không bao giờ thay thế thiên nhiên được. Hạt giống, rồi cọng cây xanh non, bông hoa nhỏ xíu, hạt lúa, và sau cùng là vô số những hạt khác.
Lạy Chúa, Chúa muốn nói gì với chúng con qua dụ ngôn hy vọng này? Chúa gởi đến chúng con lời mời gọi nào qua những câu đó? Không ai có thể thay thế chúng ta để trả lời những câu hỏi này. Tình trạng của tôi” như thế nào, vào lúc này, hôm nay, mà Chúa đang nói với tôi? Tình trạng của Giáo Hội, của thế giới hiện nay ra sao, để chúng ta có thể áp dụng bài học hy vọng này?
Lúa vừa chín, người ta đem liềm hái ra gặt vì đã đến mùa.
Bỗng nhiên tình thế biến đổi. Bản văn Hy Lạp của Mác-cô gồm hai từ nhấn mạnh về sự đối chọi này “nhưng” và “ngay sau đó”. Sau một thời gian dài không hoạt động của nơi nông dân, bây giờ là lúc gặt hái sôi nổi. Chúng ta chớ quên phần đầu của dụ ngôn này. Đó là nói về “Nước Thiên Chúa”. Thái độ của người nông dân giúp chúng ta hiểu thái độ của Thiên Chúa. Một lần nữa, Tin Mừng không phải là một bài học luân lý và chúng ta không nên vội áp dụng thực tế vào cuộc sống.
Trước hết Tin Mừng là mạc khải” về Thiên Chúa, và chỉ bằng cách liên quan với chân lý đức tin được khám phá rõ hơn, mà chúng ta mới có thể có một thái độ cụ thể một cách gián tiếp. Như vậy sự mạc khải về Chúa qua dụ ngôn này là thế nào? Đức Giêsu soi sáng cho tình hình vào thời của Người, mà Thánh Gioan Tẩy giả đã nói rõ lên sự thất vọng của ông. “Người có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi một Đấng khác?” (Mt 11,3). Nhưng đó cũng là một câu hỏi ngày nay, như của mọi thời đại: Tại sao người ta không thấy Nước Thiên Chúa rõ hơn? Tại sao Người lại cho ta có cảm tưởng là Người không lo lắng gì đến những việc xảy ra trên thế giới? Đức Giêsu trả lời. Thiên Chúa không làm gì khác hơn là người nông dân. Các người hãy chờ đến “mùa gặt”. Trong khi chờ đợi, nếu ta nghĩ là không có gì xảy ra, thì chúng ta đã bị ảo giác. Các bạn thấy nhưng các bạn khống thấy được tất cả. Chúng ta cũng biết, những gì chúng ta không thấy không phải là không hiện hữu, ngược lại thì có. “Điều cốt yếu thì không thể thấy được”, con chồn đã nói như vậy với vị hoàng tử nhỏ bé” trong chuyện của văn sĩ St Exupéry. Một hạt lúa mì chứa đựng hàng tỷ tỷ hạt nhân, gồm một lõi và những phân tử chỉ to bằng một phần tỷ của một phần tỷ một milimét xoay quanh lõi đó với tốc độ 297.000 cây số/một giây? Bạn không thấy hết được điều đó, nhưng đấy là sự thật của hạt lúa mì.
Tất cả những gì “thần thiêng” ở trong thế giới đều nằm trong đó: Sức mạnh tiềm tàng, khó nhận biết và tích cực… chỉ có những tâm hồn đơn sơ mới tìm thấy được, đó là những người chấp nhận “tin” những gì Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa.
Vậy đối với những người tin “hậu quả thực tế” là gì? Xin bạn hãy tự rút ra kết luận. Chúa tác động trong sự bí mật. Đó là một Thiên Chúa ẩn dật.
Bạn hãy để cho hạt giống chín mùi. Bạn chớ bao giờ nản lòng. Hãy khởi công. Hãy gieo hạt. Vũ trụ không đang đi đến cõi chết, nhưng đang tiến tới “niềm vui của mùa gặt”. Hời nông dân bạn hãy giơ liềm lên!
Rồi Đức Giêsu lại nói: “Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? lấy dụ ngôn nào mà hình dung được?”
Đó là hai câu hỏi. Đơn thuần là một cách hành văn để nhắc nhở đề tài? Hay là những câu hỏi của Đức Giêsu để nhấn mạnh về sự khó khăn khi nói về Nước Thiên Chúa? Dù sao chúng ta cũng nên tìm hiểu Nước Thiên Chúa có thể như thế nào? Nước này sẽ đi đến đâu? Hình thức của nó ra sao? Nó giống cái gì?
Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống để tự nó là loại hạt nhỏ nhất trên thế gian. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ.
Lại một hình ảnh nữa. Đức Giêsu là một “Thầy dạy khôn ngoan” một nhà sư phạm giỏi, một người kể chuyện biết tìm những câu châm ngôn kích thích tính hiếu kỳ. “Hạt cải” đã được nổi tiếng trong những câu tục ngữ vì sự nhỏ bé của nó. Đức Giêsu đã ám chỉ hạt cải này một lần khác khi Người nói: “Nếu anh em có đức tin lớn hơn một hạt cải…” (Lc 17,6). Dụ ngôn này nhấn mạnh về sự bất trung xứng giữa lúc đầu “nhỏ xíu” và khi hoàn thành rất lớn. Trong sự so sánh. này cũng như trong so sánh trước đó. Đức Giêsu đã trả lời cho thái độ bất bình của những người đồng thời cũng là cớ gây chống đối Người. Sự can thiệp của Đấng Mêsia đã được mọi người mong đợi như một biến cố hiển thắng và mau lẹ, thế nhưng “buổi chiều tối quan trọng của Thiên Chúa đã không đến. Đứng trước những đảo lộn hiển nhiên của những niềm hy vọng người Do Thái, tác vụ của Đức Giêsu xem ra thật là vô vị, nhưng Máccô trả lời cho thái độ bất bình của thời ông, vào lúc ông viết Tin Mừng, có một sự kiện không chối cãi được, đã làm mọi người suy nghĩ xôn xao: Làm sao dân Chúa chọn, dân ít-ra-en phần lớn lại không đón nhận Tin Mừng của Đức Giêsu? Có phải là sự thất bại của chương trình Thiên Chúa không? Trang Tin Mừng của Máccô trên đây phù hợp cách diệu kỳ với câu hỏi đáng sợ nhất của thời đại chúng ta: Nếu Thiên Chúa hiện hữu thì mọi việc sẽ sáng tỏ hơn… Vậy tại sao có rất nhiều người ngay thẳng và lương thiện mà lại không tin, hay cứ theo thuyết vô tri. Thiên Chúa có hiện hữu thực sự không? phải chăng đó chỉ là bóng ma, là chủ quan? Hay là ảo giác của một số người cuồng tưởng? Thiên tài, thánh thiện, toàn hảo như thế mà đã không làm cho người đồng thời trở lại được, ngay cả chính thân nhân của Người. (Như bài Tin Mừng Chúa nhật trước đã cho ta thấy). Tuy nhiên với một sự bạo dạn như điên rồ, Người đã tin rằng Người đã không mất thời giờ để gieo “hạt giống nhỏ bé” của Người, và lịch sử chứng minh Người đã có lý kể từ bây giờ, bất cứ ai đã gieo một “mầm” trong một linh hồn người nào để dấn thân phục vụ một công trình giúp đỡ anh em mình, bất cứ ai đã cố gieo Tin Mừng, có thể dựa trên lời nói của Đức Giêsu trên đây, để vượt qua mọi thất vọng và thất bại nhất thời. Cha mẹ, ông bà nào đã nghĩ mình đã thất bại trong giáo dục con cháu, quý vị hãy cầm lên một hạt cải nhỏ: Dù kết quả bề ngoài xem ra nhỏ bé, quý vị vẫn là những người được “mời gọi để hy vọng”. Cuộc phiêu lưu nhỏ bé của Đức Giêsu đã được chứng thực: Cuộc phiêu lưu đó bây giờ đã “lớn lao”. Cuối cùng rồi các bạn sẽ thấy!
Cành lá xum xuê đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.
Hạt nhỏ nhất trong các hạt đã trở nên một cây nhỏ đẹp. Cây là chỗ cho “chim trời tới trú ẩn” đã là một hình ảnh cổ điển trong Thánh kinh (Đn 4,9; Ed 31,6-17,22-23; Tp 9,15). Đttc Giêsu đã hoàn toàn được xác định vị trí trong môi trường văn hóa của Người. Và nói theo lúc đó Người dám tiên đoán sự thành công cuối cùng này, chỉ là một con người u tối xứ Galilê, vùng Na-za-rét có 12 người nghèo khổ, không văn hóa, không thế lực đi theo. Lạy Đức Giêsu, con đọc lại lời hứa của Người và con áp dụng lời đó cho mọi cơn thất vọng của con. Xin Người cho chúng con niềm hy vọng và lòng tin tưởng.
Đức Giêsu dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng Lời Thiên Chúa cho dân chúng nghe tùy theo sức họ hiểu. Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
Vậy Đức Giêsu đã lưu ý đến trình độ đức tin của người nghe. Đó là mầu nhiệm của tự do. Đối với những người có thiện cảm với Người. Với các bạn hữu của Người, Đức Giêsu đã giải thích bổ túc cách riêng. Đức tin là một “sự sống” một tương giao sống động”. Mỗi lời cầu nguyện chuẩn bị cho lời cầu kế tiếp. Mỗi suy niệm chuẩn bị cho suy niệm tiếp theo. Mỗi bước chân đi tới Chúa sửa soạn cho bước kế tiếp. Điều còn là tối tăm khó hiểu đối với nhiều người, lại là một thực tế dần dần trở nên hiển nhiên đối với những người khác. Nếu bạn muốn biết -Thiên Chúa nhiều hơn, bạn hãy bắt đầu bước đi đầu tiên tới Chúa đi. Bạn hỡi, chỉ một bước thôi. Bạn sẽ phải thể hiện một bước đi như thế nào, để cho sự sống tiếp tục nảy nở?
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN- Năm B
TIN TƯỞNG VÀO QUYỀN NĂNG CỦA THIÊN CHÚA (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi các tín hữu hãy tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa.
Ed 17: 22-24
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhắc đồng bào của mình bị lưu đày ở Ba-by-lon nhớ rằng Đức Chúa hạ bệ những kẻ tự cao tự đại và nâng cao kẻ khiêm nhường. Từ một chồi non, Ngài có thể làm phát sinh một cây đại thụ vươn mình lên trên mọi đỉnh non cao.
2Cr 5: 6-10
Trong phần mở đầu thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu hãy tin tưởng vào cuộc sống được đức tin hướng dẫn và tin tưởng vào cái chết vào lúc chúng ta được đoàn tụ với Đức Ki-tô.
Mc 4: 26-34
Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su cũng dùng hình ảnh tương tự để mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào sự phát triển kỳ diệu của Nước Trời, khởi đi từ một hạt giống nhỏ bé nhưng sau trở thành một vụ mùa bội thu, hay khởi đi từ một hạt cải nhỏ nhất trong mọi hạt giống, nhưng sau thành một cây cao bóng cả.
BÀI ĐỌC I (Ed 17: 22-24)
Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en trước khi được gọi làm ngôn sứ đã là tư tế. Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã liên kết tinh thần tư tế với trào lưu ngôn sứ. Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã sống tấm thảm kịch lớn lao của những năm đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên, vào thời kỳ quân Ba-by-lon xâm chiếm vương quốc Giu-đa. Ông đã chứng kiến tận mắt thành thánh Giê-ru-sa-lem bị vây hãm và bị chiếm lần đầu tiên vào năm 598 trước Công Nguyên, và thành phần ưu tú bị dẫn đi lưu đày. Ê-dê-ki-en thuộc nhóm lưu đày đầu tiên này. Chính trong cảnh lưu đày, tư tế Ê-dê-ki-en được Thiên Chúa gọi làm ngôn sứ của Ngài.
Sứ vụ ngôn sứ:
Ông cực lực tố cáo tội lỗi của dân Ít-ra-en, không chừa một ai, từ hoàng gia, tư tế cho đến dân chúng, mọi người đều có tội. Ông thấy trước những án phạt khác sắp xảy đến. Trong thảm họa, ông rao giảng sự sám hối cá nhân: mỗi người phải tự mình sám hối.
Tai họa bất ngờ xảy đến vào năm 587 trước Công Nguyên khi quân đội Ba-by-lon xâm chiếm lần thứ hai, Giê-ru-sa-lem bị cướp phá và thiêu hủy, Đền Thờ bị tàn phá thành bình địa. Trong hoàn cảnh bi thương của đất nước, ngôn sứ Ê-dê-ki-en trở thành vị ngôn sứ của niềm hy vọng; ông tiên báo Ít-ra-en sẽ được phục hưng. Dụ ngôn mà chúng ta đọc hôm nay trích từ 7: 22-24. Đây là một trong những hình ảnh mà ngôn sứ sử dụng để khơi lên niềm hy vọng ở nơi đồng bào ông, đặc biệt những người lưu đày ở Ba-by-lon: dân Ít-ra-en sẽ hồi sinh và sẽ có một tương lai tuyệt vời.
Cây hương bá cao lớn:
Cây hương bá cao lớn và chồi non được ngắt từ ngọn cây muốn nói lên điều gì? Vị ngôn sứ dùng hình ảnh cây hương bá cao lớn trong hai ẩn dụ. Ở chương 31, cây hương bá cao lớn biểu tượng Ai-cập và Pha-ra-ô ngạo mạng và quyền thế:
“Ngươi so sánh sự vĩ đại của ngươi với ai?
Với cây trắc bá, cây hương nam núi Li-băng,
cành to, lá rườm rà, thân to lớn
ngọn vút lên giữa các tầng mây?
…..
Trên cành cây, mọi giống chim trời đến làm tổ,
dưới bóng lá cành, mọi dã thú nẩy nở sinh sôi,
và dưới bóng nó, vô số dân tộc đến cư ngụ.
…..
Vì thế, Đức Chúa là Thiên Chúa phán thế này:
Nó tự cao tự đại vì có thân to lớn, ngọn vươn lên trên các tầng mây, nó cậy mình cao rồi sinh lòng kiêu ngạo, nên Ta sẽ trao nó vào tay kẻ thống lãnh các dân, để xử với nó theo sự gian ác của nó, Ta sẽ loại trừ nó. Những kẻ ngoại bang, những kẻ hung dữ nhất trong các dân tộc, sẽ đốn ngã và bỏ mặc nó… Trên đống đổ nát của nó, mọi thứ chim trời đến ở; nơi cành của nó, mọi dã thú đến nương mình.” (Ed 31: 2-3, 6, 10-13).
Trong ẩn dụ này, vị ngôn sứ nhắm đến Pha-ra-ô Hóp-ra mà vua Giu-đa là Xít-ki-gia-hu cố dựa vào một cách nguy hiểm để kháng cự lại vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo. Nhiều thế kỷ sau này, sách Đa-ni-en sẽ lấy lại hình ảnh tương tự trong một thị kiến được áp dụng cho vua Na-bu-cô-đô-nô-xo (Đn 4: 7-11).
Trong một ẩn dụ khác thuộc chương 17 và trước ẩn dụ chúng ta đọc, Ê-dê-ki-en hình dung một cây to lớn, bị con phượng hoàng bẻ ngọn:
“Con phượng hoàng to lớn
có cánh rộng, lông dài, mình đầy lông sặc sỡ;
nó đến núi Li-băng bẻ ngọn cây hương bá.
Nó ngắt búp ngọn cây
đưa về đất thương nghiệp
đặt vào thành con buôn” (Ed 17: 1, 4).
Con phượng hoàng to lớn là vua Na-bu-cô-đô-nô-xo. Vào năm 597, vua đã bắt vua Giơ-hô-gia-kim lưu đày sang Ba-by-lon. Li-băng chỉ đất Pa-lét-tin. Đoạn, con phượng hoàng “lấy giống cây của xứ ấy rồi đem đặt vào nơi ươm trồng…” (Ed 17: 5-6). Bằng hình ảnh này, ngôn sứ Ê-dê-ki-en gợi lên cách hành xử của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo. Sau khi đã bắt vua Giơ-hô-gia-kim lưu đày, vua đặt vua Xít-khi-gia-hu lên làm vua ở Giê-ru-sa-lem để làm chu hầu và thần dân của mình.
Một chồi non:
Ẩn dụ của 17: 22-24 trả lời cho ẩn dụ trên. Đức Chúa sắp ra tay trừng phạt những kẻ thù của dân Ngài. Chính Ngài sẽ “ngắt một chồi non” từ đỉnh ngọn cây. Ngài sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en và chồi non này sẽ thành một cây hương bá.
“Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng
sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa.
Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp,
Ta làm cho cây xanh tươi phải khô héo
và cây khô héo được xanh tươi” (Ed 17: 24).
Qua ẩn dụ này, ngôn sứ Ê-dê-ki-en muốn nói với những kẻ lưu đày bất hạnh rằng Thiên Chúa sẽ ra tay cứu giúp họ, đưa họ trở về cố hương và phục hưng dân tộc của họ.
Tuy nhiên, sấm ngôn này được hiểu một cách chính xác hơn: trong ẩn dụ này cũng như trong ẩn dụ theo sau, chồi non được ngắt từ đỉnh ngọn cây là chồi non vương đế. Đây là tương lai của hậu duệ nhà Đa-vít mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en thoáng thấy, chứ không phục hưng thể chế quân chủ tương lai mà vị ngôn sứ không một chút tin tưởng. Các vị vua đã là những mục tử xấu. Chính họ đã gây nên biết bao tội bất trung với Đức Chúa, Thiên Chúa của mình và đã dẫn đưa dân Ít-ra-en đến bờ vực thẳm hủy diệt. Tuy nhiên, hình ảnh này lấy lại hình ảnh của ngôn sứ I-sai-a, loan báo vua Mê-si-a là vua Đa-vít tương lai: “Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ” (Is 11: 1), hay còn là hình ảnh của ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Da-ca-ri-a, cả hai đều tiên báo rằng Đức Chúa sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực (Gr 23: 5; 33: 15; Dcr 3: 8; 6: 12).
Ẩn dụ của Ê-dê-ki-en dẫn chúng ta đến ngưỡng cửa Tin Mừng. Chúa Giê-su sẽ diễn tả theo một cách tương tự vóc dáng nhỏ bé của Nước Trời vào lúc khởi sự: như hạt cải nhỏ nhất trong các hạt giống, nhưng khi mọc lên thành một cây xum xuê cành lá “đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
Các thế hệ sau này vẫn hằng nhớ đến ngôn sứ Ê-dê-ki-en, vì ông đã tiên báo cuộc hồi sinh dân Ít-ra-en. Thị trấn nhỏ, ở đó vị ngôn sứ đã sống và chết trong cảnh lưu đày, được gọi Tel-Aviv. Chính để tôn vinh sấm ngôn của ông mà Nhà Nước Ít-ra-en hiện nay đã lấy tên thị trấn này mà đặt tên cho một trong những thành phố của họ.
BÀI ĐỌC II (2Cr 5: 6-10)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô trong suốt bốn tuần Chúa Nhật. Thư này được gọi là thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, nhưng trong thực tế không là thư thứ hai, ít nữa là thư thứ tư trong số những thư mà thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô. Thư này được biên soạn hoặc vào cuối năm 56 hay vào cuối năm 57.
Đây là bức thư riêng tư nhất mà thánh nhân đã viết, bức thư ngỏ lời trực tiếp nhất với những đối thủ của ngài, bức thư nồng nàn nhất khi thánh nhân nói về sứ mạng của mình và là bức thư thấm thía nhất khi thánh nhân phác họa bốn bức tranh về những nỗi đắng cay lẫn những niềm vui mà ngài đã kinh qua. Đây là một chứng liệu duy nhất, nhờ đó chúng ta biết được vài chi tiết về những nỗi gian truân mà thánh nhân đã đối mặt và những ân sủng mà thánh nhân đã nhận được.
Hoàn cảnh của bức thư:
Thánh Phao-lô đã thiết lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Không bao lâu sau khi thánh nhân ra đi, cuộc khủng hoảng đầu tiên làm chao đảo cộng đoàn non trẻ này. Thánh nhân viết thư can thiệp, thư này đã bị thất lạc, không được bảo tồn đến chúng ta. Sau một thời gian tạm lắng, thánh nhân viết thư thứ hai có lẽ vào mùa xuân 56, thư này hiện nay được gọi “thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô”.
Những sóng gió bất ngờ xảy đến. Chính xác là chuyện gì? Chắc chắn đây là những sự cố nghiêm trọng. Thánh nhân nghĩ mình nên đến tận nơi; thánh nhân hứng chịu sự thất bại, ngài bị lăng nhục và tước hiệu Tông Đồ của ngài bị đặt vấn đề. Trở về Ê-phê-xô, thánh nhân viết một bức thư nghiêm khắc, thư này cũng bị thất lạc, ít ra còn lại vài dấu vết trong các chương 10-13 trong “thư thứ hai” gởi tín hữu Cô-rin-tô này.
Rất lo âu, thánh nhân sai cộng tác viên của mình là ông Ti-tô đến Cô-rin-tô. Lúc đó, sau những biến cố mà chúng ta không được biết rõ, thánh Phao-lô buộc phải rời Ê-phê-xô. Thánh nhân đến thành Trô-a và đợi ông Ti-tô ở đó, nhưng không gặp; sau đó, ngài đến Ma-kê-đô-ni-a, ông Ti-tô cuối cùng đến gặp ngài ở đó và đem đến những tin tốt lành. Chính vào thời điểm đó, thánh nhân viết thư này hiện nay được gọi “thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô”.
Ý nghĩa của đoạn thư hôm nay:
Đoạn trích thư chúng ta đọc hôm nay thuộc vào phần thứ nhất của thư này, ở đó thánh nhân đưa ra tầm mức cao cả và những thăng trầm của sứ vụ truyền giáo (2: 14-7: 4).
Những kinh nghiệm truyền giáo của thánh Phao-lô đã đem lại cho đức tin của ngài một nền tảng không lay chuyển và đã cho phép ngài củng cố những xác tín của mình mà thánh nhân kể ra: niềm xác tin về thân xác sống lại (2Cr 4: 14), về “một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2Cr 4: 17) và về việc được đoàn tụ với Đức Ki-tô ngay khi từ giả cõi đời này.
Chính niềm xác tín sau cùng này mà đoạn trích thư quy chiếu đến, niềm xác tín này phải giúp cho người Ki-tô hữu một thái độ đầy tin tưởng khi đối mặt với cái chết và phải là nguồn động viên khích lệ họ thực hành nhân đức.
Niềm xác tín khi đối mặt với cái chết:
“Ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa”: Ở đây, thánh Phao-lô diễn tả tư tưởng của mình rất gần với quan niệm Hy-lạp: “thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn”. Thánh nhân nói: “Điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa”.
Tuy nhiên, thánh Phao-lô tránh dùng từ “linh hồn”, từ này có thể gợi lên trong tâm trí người đọc nhị nguyên thuyết Hy-lạp (không phải thánh nhân vừa mới nói về thân xác sống lại, vốn xa lạ với tư tưởng Hy-lạp đó sao?). Vả lại, Do Thái giáo đã khai triển khái niệm về “cái tôi tinh thần” có thể hưởng một cuộc sống hạnh phúc cá nhân, như sách Khôn Ngoan làm chứng.
Sau cùng, thật thích hợp khi liên kết chặc chẽ đoạn văn này với phần khai triển trước đó, ở đó thánh nhân gợi lên kinh nghiệm của mình. Suốt sứ vụ của ngài, thánh nhân đã gặp phải những hiểm nguy nghiêm trọng nhất, những mối đe dọa chết người. Ấy vậy, Ơn Quan Phòng của Thiên Chúa luôn luôn bảo vệ che chỡ ngài cho tai qua nạn khỏi. Phải đọc lại lời minh chứng phi thường này của thánh nhân, chúng ta mới có thể cảm nhận những gian truân mà thánh nhân đã kinh qua: “Chúng tôi bị dồn ép tứ bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt” (2Cr 4: 8-9). Lý do của những cứu giúp được nhắc đi nhắc lại ở đây: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (4: 10). Nói cách khác, ở giữa những gian truân trăm chiều này, kề cận với cái chết, thánh nhân, một cách nào đó, đã kinh qua trước từ cái chết đến sự sống, nhờ bàn tay cứu độ của Thiên Chúa. Niềm xác tín từ kinh nghiệm này tăng cường niềm xác tín về Mặc Khải.
Từ đó, niềm xác tín mà thánh nhân nhắm đến là giây phút tối hậu, giây phút sẽ vượt qua từ tư thế của người tin đến tư thế của người được thấy Chúa nhãn tiền: “Chúng tôi tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa”. Trong thứ nhất gởi các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân đã diễn tả cùng một tư tưởng: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sao tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1Cr 13: 12).
Làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự:
Thánh nhân muốn chúng ta hiểu rằng ngài thích rời bỏ thân xác này hơn để được đoàn tụ với Đức Ki-tô, nhưng trước tiên phải “làm đẹp lòng Chúa”. Thánh nhân cũng đã diễn tả ước muốn này với các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài: “Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1: 23-24).
Điều quan trọng chính là: người Ki-tô hữu phải biết rằng mình sẽ được hội ngộ với Đức Ki-tô, nhưng trước tiên phải hành động một cách thích đáng, họ sẽ bị xét xử theo những công việc của mình. Thánh Phao-lô không xác định phải chăng cuộc phán xét trước Tòa Án của Đức Ki-tô được định vị vào ngày Chung Thẩm hay là cuộc phán xét riêng vào lúc mỗi người từ giả cõi đời này.
TIN MỪNG (Mc 4: 26-34)
Chúa Giê-su rao giảng cho đám đông bằng dụ ngôn, từ những hình ảnh đơn sơ giản dị được lấy ra từ đời thường, để dẫn đưa họ vào những thực tại cao vời khôn ví của Nước Trời. Văn chương Đông Phương (Ai-cập, Cận Đông) thích những bí nhiệm, các sách khải huyền Do thái được điểm tô với những bí nhiệm này. Các dụ ngôn rất gần với thể loại văn chương này. Tuy nhiên, Chúa Giê-su giải thích các dụ ngôn cho các môn đệ, vì sau này, họ sẽ tiếp tục sự nghiệp của Ngài mà loan báo Lời rõ ràng và phong phú cho quần chúng.
Tin Mừng Mác-cô đề nghị cho chúng ta hai dụ ngôn: dụ ngôn hạt giống tự mọc lên và dụ ngôn hạt cải: dụ ngôn thứ nhất thuộc nguồn riêng của Mác-cô, dụ ngôn thứ hai chung với Mát-thêu (13: 31-32) và Lu-ca (13: 18-19).
Dụ ngôn hạt giống tự mọc lên (4: 26-29):
Bản văn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Bài Đọc I) giúp chúng ta hiểu dụ ngôn hạt giống tự mọc lên này. Chính Đức Chúa sẽ trồng một chồi non mà Ngài đã ngắt từ ngọn hương bá. Vì Đức Chúa trồng, chắc chắn chồi non này sẽ mọc và lớn lên: “Nó sẽ trổ cành và kết trái”. Cũng vậy trong dụ ngôn hạt giống tự mọc lên, hình ảnh Nước Thiên Chúa được phát triển trong thầm lặng nhưng vững chắc. Có lẽ không dụ ngôn nào đem đến niềm an ủi hơn dụ ngôn này. Thiên Chúa hiện diện và hành động trong thế giới và hành động của Ngài chắc chắn rồi sẽ sinh hoa kết quả, dù bên ngoài âm thầm lặng lẽ. Thời gian cũng không được tính đến.
Phải chăng dụ ngôn này muốn nói rằng người Ki-tô hữu không cần phải hành động bởi vì “đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết”? Không phải như thế! Việc dọn đất được nêu lên, vấn đề đất có thuận lợi hay không cho hạt giống phát triển đã được bàn đến trong một dụ ngôn khác (dụ ngôn người gieo giống: 4: 1-9). Chúng ta không những có bổn phận cầu xin cho “Nước Chúa trị đến”, nhưng còn phải góp phần mình vào việc xây dựng Nước Chúa ở ngay trong cõi thế này. Ở đây, vấn đề được nêu lên đó là quyền năng tất thắng của Thiên Chúa, Ngài hướng dẫn Triều Đại của Ngài cho đến lúc phát triển viên mãn: đó sẽ là mùa thu hoạch.
Tuy nhiên, phải chăng Chúa Giê-su dùng dụ ngôn này nhằm nhắn gởi những người nôn nóng và bạo động, tức là nhóm Nhiệt Thành được nuôi dưỡng bằng những giấc mơ đầy tham vọng của họ mà vài người trong số họ là môn đệ của ngài? Thật ra, Ngài muốn dẫn các môn đệ của Ngài đến một sự hiểu biết đầy đủ hơn về sứ mạng của Ngài. Ngài đã đến gieo Lời Ngài và Lời Ngài sẽ sinh hoa kết trái. Họ phải đặt trọn niềm tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Lời Ngài, tuy nhiên, chiều kích năng động của lời này cốt yếu là nội tại và tinh thần.
Dụ ngôn hạt cải (4: 30-32):
Để diễn tả năng lực phát triển kỳ diệu của Nước Trời từ một khởi đầu rất khiêm tốn, Chúa Giê-su đưa ra một so sánh được mượn từ một hình ảnh rất quen thuộc thường ngày: hình ảnh hạt cải khi được gieo thì nhỏ nhất trong mọi hạt giống, nhưng khi “mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”. Nước Trời cũng sẽ như vậy. Khởi đi hầu như không gì cả: mười hai tông đồ, vài môn đệ và vài người phụ nữ, nhưng sẽ phát triển rực rỡ.
Chúa Giê-su ám chỉ đến các bản văn của Ê-dê-ki-en và Đa-ni-en trong các dụ ngôn cây hương bá của họ; tuy nhiên, rõ ràng Ngài tránh lấy lại hình ảnh cây hương bá cao vút trên đỉnh non cao, biểu tượng cho quyền lực thống trị. Ngài cũng không lấy lại hình ảnh chồi non, vì hình ảnh này gợi lên hậu duệ nhà Đa-vít và có thể gợi lên việc phục hưng quyền lực chính trị. Hình ảnh hạt cải chắc chắn hàm chứa tính chất phi chính trị của Nước Trời.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam