Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 39

Tổng truy cập: 1379025

Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Để mô tả một sứ mệnh, người đời thường nêu lên những chương trình, kế hoạch to lớn mà họ sẽ thực hiện trong cuộc sống. Tuy nhiên chẳng có ai nói về cái chết của họ như phần cốt yếu trong sứ mệnh cả! Đối với Chúa Giêsu, cuộc Thương khó và cái chết của Người mới là tột đỉnh của sứ mệnh. Cái chết của Người cần thiết để chu toàn sứ mệnh, sứ mệnh của “Con Một” được Chúa Cha ban cho nhân loại để minh chứng sự thật “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian” như thế nào. Bài Tin Mừng tuần trước cho ta hình ảnh cái chết cứu độ của Chúa Giêsu: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14). Chúa Nhật hôm nay, bài Tin Mừng lại đề cập đến cái chết cứu độ của Chúa Giêsu qua một hình ảnh sống động và quen thuộc: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).

a) Cái chết đem lại sự sống

Qua hai hình ảnh, con rắn đồng treo cao trong sa mạc và hạt lúa gieo vào lòng đất, Chúa Giêsu đều muốn nói lên ý nghĩa và hiệu quả cái chết của Người, là cứu sống và ban sự sống. So sánh giữa con rắn đồng trong sa mạc với Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đồi Gôn-gô-tha thật vô cùng ý nghĩa. Rắn lửa sa mạc đã làm cho nhiều người Ít-ra-en phải chết. Cũng thế, trong vườn địa đàng con rắn Xa-tan quỷ quyệt đã cắn nguyên tổ loài người và gieo nọc độc là tội lỗi và sự chết cho nhân loại. Thiên Chúa thực hành nguyên tắc dĩ độc trị độc, đã dùng hình ảnh con rắn đồng để cứu sống dân Ít-ra-en. Giờ đây, Người lấy chính cái chết của Con Một Người trên thập giá để đánh bại cái chết và tội lỗi, đem lại sự sống cho nhân loại.

Hình ảnh hạt lúa gieo xuống lòng đất cũng hết sức linh hoạt. Hạt lúa muốn trở thành một cây lúa và sinh bông hạt cần phải trải qua một tiến trình kỳ lạ. Trước hết nó phải nằm trong bàn tay người gieo hạt. Ông ta vung nó xuống đất. Nằm trong lòng đất, nó phải chờ đợi những yếu tố cần thiết để bắt đầu một cuộc biến đổi: một khoảng đất màu mỡ, hơi ẩm của đất, ánh nắng mặt trời... Tất cả sẽ ảnh hưởng tới lớp vỏ bên ngoài, làm cho nó vỡ ra và mục nát. Lúc vỏ trấu vỡ ra là lúc hạt lúa thấy mình sắp sửa không còn là hạt lúa nữa! Rồi mầm sống dấu ẩn bên trong được đánh thức dậy, nảy nở, biến thành một mầm xanh, thoát ra khỏi lớp vỏ đã vỡ và từ từ chui lên khỏi lòng đất để đón lấy ánh mặt trời. Biến thành cây lúa, nó không còn là hạt lúa nữa. Nhưng chính nó sẽ đem lại nhiều hạt lúa khác.

Nếu đem so sánh hình ảnh trên với cuộc đời Chúa Giêsu, ta sẽ thấy một tiến trình y hệt. Chúa Cha đã gieo hạt lúa Giêsu xuống trần gian, đặt trong cung lòng Đức Trinh nữ Maria. Người đã sinh ra, lớn lên và sống ẩn dật tại Na-da-rét. Người đã lên đường thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Sau hết, qua cái chết cứu chuộc, Người đã cứu mọi người khỏi tội lỗi, phục hồi cho nhân loại sự sống đời đời mà ma quỷ đã cướp đi khi nguyên tổ không tuân phục Thiên Chúa. Đặc biệt, cuộc Thương khó, cái chết trên thập giá, an táng trong mồ và sự Phục sinh của Chúa Giêsu quả thực là những diễn tiến y hệt như tiến trình biến đổi của hạt lúa. Như hạt lúa phải chết đi để đem lại sự sống cho những hạt lúa khác thì Chúa Giêsu cũng phải chết đi để chia sẻ sự sống đời đời cho toàn thể nhân loại.

b) Những bài học về hạt lúa

Không phải Chúa Giêsu chỉ nói về sứ vụ của Người là chết để loài người được sống, nhưng Người còn đưa ra những bài học vô cùng ý nghĩa về cái chết của hạt lúa.

Bài học đầu tiên là về sự ưu tiên của sự sống đời đời, được trình bày qua nghịch lý sống và chết, tạm bợ và vĩnh cửu. Sống ở đời này, nếu ta chỉ lo lắng hưởng thụ mà không lấy cuộc sống để phục vụ, ta sẽ mất cuộc sống vĩnh cửu mai sau, tức là chết muôn đời. Nếu ta lấy cuộc sống đời này như một cơ hội để phục vụ, làm điều lành mặc dù phải chịu thiệt thòi, thì ta sẽ được sự sống muôn đời.

Bài học thứ hai về gương phục vụ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã phục vụ mọi người vì Người nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi người khác. Phục vụ người khác là phục vụ chính Thiên Chúa ở trong họ. Giờ đây, Chúa Giêsu đã đồng hóa Người với anh chị em. Người khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Ta là môn đệ Chúa Giêsu nên là người phục vụ Chúa trong anh chị em. Sống đời phục vụ, ta sẽ được Thiên Chúa Cha “quý trọng” như Người đã quý trọng Con Một Người.

Bài học thứ ba là biết xử sự sao cho đúng khi ta cảm thấy xao xuyến vì phải chấp nhận hy sinh. Chúa Giêsu biểu lộ hoàn toàn những tâm tình hãi sợ, xao xuyến khi thấy cái chết tủi nhục đến gần. Cảm giác “biết nói gì đây?” đã cho ta thấy Người như bị tê liệt, hoảng hốt. Nhưng đó cũng chính là lúc Chúa Giêsu biểu lộ trọn vẹn sự tín thác của Người nơi bàn tay quan phòng của Chúa Cha. Người chỉ còn nhìn thấy một điều ưu tiên phải làm, tức là làm cho Danh Cha được tỏ rạng. Tất cả ý nghĩa cuộc đời của Chúa Giêsu ở trần gian này là để tôn vinh Danh Cha. Cái chết của Người sẽ là hành vi cuối cùng làm cho Danh Cha được chiếu sáng tột đỉnh. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha đã biểu lộ sự tuân phục tuyệt đối. Lập tức Chúa Cha nhìn nhận việc tôn vinh Chúa Giêsu đã làm cho Người và đáp lại với lời hứa chính Người sẽ tôn vinh Chúa Giêsu qua cuộc Phục Sinh vinh hiển.

c) Cuộc phán xét thế gian này đang diễn ra

Nói đến cái chết của Người, Chúa Giêsu nhắc nhở ta hướng đến một trời mới đất mới: quyền lực ma quỷ và thế gian sắp bị đánh bại. Cái chết của Người sẽ dứt khoát làm cho “thủ lãnh thế gian này bị tống ra ngoài”. Sau chiến thắng ở vườn Địa đàng, thế gian này đã biến thành lãnh thổ của Xa-tan rồi. Nó tha hồ tung hoành và khống chế con người. Nhưng sau chiến thắng của Chúa Giêsu nhờ cái chết, Xa-tan không còn đất đứng nữa. Con đường đi đến với Thiên Chúa đã được nối lại để ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô.

Tuy nhiên ta nên hiểu cuộc phán xét thế gian, hoặc chiến thắng của Chúa Giêsu là điều đang tiếp tục xảy ra và sẽ kết thúc vào ngày thế mạt khi Người trở lại để phán xét muôn loài. Do đó, ngay bây giờ và tại thế gian này, Chúa Giêsu mời gọi ta tham dự vào cuộc chiến thắng ấy bằng cách để cho Người “kéo ta lên với Người”. Đừng chống cự, nhưng ta cứ theo Người, để cho Người kéo ta vào trong mối thâm giao với Người và ngày sau được chung hưởng vinh phúc với Người. Nhưng ngay bây giờ, ta hãy để cho Người kéo ta lên với Người trên thập giá, bắt chước Người cam chịu mọi gian nan thử thách, nhưng vẫn luôn trung thành và hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.

d) Suy nghĩ và cầu nguyện

Có khi nào tôi suy nghĩ về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu không? Tôi đã cầu nguyện về cái chết của Người như thế nào? Cái chết ấy ảnh hưởng gì đến đời sống đức tin của tôi?

Bài học nào về hạt lúa Chúa dạy làm cho tôi phải suy nghĩ nhất? Tại sao? Tôi sẽ thực hành như thế nào?

Điều gì ngăn cản tôi, không để cho Chúa Giêsu kéo tôi lên với Người? Tôi sẽ nghe Chúa nói gì về tình trạng này?

Cầu nguyện

“Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,

đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha

trong mọi nỗi khổ đau của đời con,

và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá

bao lâu tùy ý Cha định liệu.

Xin đừng để con trở nên chua chát

nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ

với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ

và lòng khát khao nóng bỏng

có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.

Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ

của những người đã yêu mến Cha,

đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ,

tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.

Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con

nói lên lòng tin của con

vào những lời hứa của Cha,

lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha

và lòng mến mà con dành cho Cha.

Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân

và yêu Cha chỉ vì Cha,

chứ không mong phần thưởng.

Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,

là ánh sáng cho đêm tăm tối,

nhờ đó con không còn coi khổ đau

như một tai họa hay một điều vô lý,

nhưng như một dấu chỉ cho thấy

con đang thuộc về Cha mãi mãi.”

- Cha Karl Rahner

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 63)


 

62. Học Yêu – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

“Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng, Lề luật của Ta” (Gr 31,33). Chắc hẳn Lề luật mà Thiên Chúa muốn khắc ghi vào tâm khảm dân của Người chính là Luật của tình yêu. Sau này chính Con Một Người nhập thể đã khẳng định rằng mọi lề luật và lời ngôn sứ gồm tóm trong điều này là anh em hãy làm cho tha nhân những gì anh em muốn tha nhân làm cho mình (x.Mt 7,12).

Một trong những khao khát đượm tình hiện sinh của con người đó là được sống và sống mãi. Cái khát vọng này như đã trở thành vô vọng với cả những người quyền cao chức trọng, với các vua chúa xưa nay. Sở dĩ nó đã trở thành vô vọng, vì người ta quá băn khoăn về cuộc sống đời này trong sự vị kỷ. “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”(Ga 12,25 ). Sự coi thường ở đây không phải là thái độ lơ là, vô trách nhiệm, mà là một sự hiến mình vì tha nhân trong tình yêu.

Quy luật của tình yêu đã được thánh Phanxicô Axidi phác họa trong lời kinh hoà bình: “Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính khi quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chắc hẳn thánh nhân thuộc nằm lòng lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Thật, Thầy bảo thật với anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).

Đã là quy luật thì có tính khách quan cần phải tuân thủ. Để tuân thủ quy luật nào đó thì trước hết phải nhận biết nó. Thế nhưng không phải mọi quy luật đều hiện hữu cách minh nhiên dễ thấy, dễ nhận ra. Định luật vạn vật hấp dẫn đã có từ khi vũ trụ hình thành thế mà đến cuối thế kỷ XVII Isaac Newton mới phát hiện. Việc khám phá định luật này là kết quả của một quá trình nghiên cứu mà việc thấy quả táo rơi chỉ là điểm khởi đầu. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã khẳng định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục…” (Dt 5,9), nói đúng hơn, đó là Chúa Giêsu đã trải qua nhiều đau khổ mới học biết thế nào là yêu thương.

Yêu thương không hẳn chỉ là cho đi những gì mình có. Với quyền năng của Đấng tạo thành, có từ đời đời với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Chúa Kitô có thể biểu lộ tình yêu bằng việc cung cấp lương thực cho con người. Người cũng đã biểu lộ tình yêu bằng việc giáng phúc thi ân chữa lành bệnh tật, cho người què được đi, người mù được thấy người điếc được nghe… Người cũng đã biểu lộ tình yêu khi làm chủ thiên nhiên hay làm chủ cả quỷ thần. Người lại đã từng biểu lộ tình yêu khi làm cho một số người sống lại từ cõi chết. Tuy nhiên, nếu chỉ cho đi những gì mình có bằng khả năng và quyền hạn của mình thì cũng chưa hẳn đã là yêu đến cùng.

Yêu thương cách đích thực là cho đi những gì mình là. Phút giây nhập thể trong cung lòng Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa đã tự nguyện cho đi thân phận của một vị Thiên Chúa. Lời đáp ca trong Thánh Lễ Truyền Tin, nói đúng hơn là Thánh Lễ mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể: “Hy sinh và lễ vật, thì Chúa chẳng ưng, này Con xin đến để thực thi ý Người” (x.Tv 40). Suốt ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nỗ lực không ngừng cho đi cái thân phận của Đấng Thiên Sai, Đấng từ trời mà xuống, để sống kiếp “không chỗ tựa đầu”(x.Lc 9,58). Vì yêu thương Chúa Giêsu đã đau xót đến tột độ đến nỗi mồ hôi tuôn ra pha lẫn máu trong vườn cây dầu, để rồi cho đi thân phận một con người, thân phận của vị vua trên các vua và cả thân phận Con Thiên Chúa của mình bằng cái án bất công và cái chết ô nhục trên thập giá. “Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào!” (Mt 27,40). “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”(Lc 23,37). Người vẫn ở đó, trên thập giá cho đến hơi thở cuối cùng.

Mất những tất cả gì mình có, thật đau xót, nhưng dẫu sao vẫn còn chính mình. Mất tất cả những gì mình là, đúng là một điều tồi tệ, vì chẳng còn gì, ngay cả bản thân. Thế nhưng khi cái điều tồi tệ ấy khi được thực hiện bằng sự ý thức và tự do vì hạnh phúc của tha nhân, thì nó trở thành tiền đề cho tiến trình yêu thương và phát triển. Khi bị mục nát đi, chẳng còn là hạt lúa thì cây lúa mọc lên và các gié lúa trĩu hạt hình thành.

Đã yêu là phải tuân thủ quy luật của tình yêu. Để biết được quy luật thì phải học hỏi, tìm tòi. Học mà thôi, vẫn chưa đủ, cần phải tập luyện liên lỉ. Có đau đớn và cũng có xót xa. Có xao xuyến và cũng có hy sinh. Nhưng không thể không tập luyện. Để được sống và sống dồi dào, để sinh được hoa trái và hoa trái tồn tại, khởi đầu xin hãy tập cho đi những gì mình có và tiến dần đến chỗ trao ban những gì mình là, vì người mình yêu, vì người yêu mình, vì cả người ghét mình lẫn kẻ bách hại mình.


 

63. Chuyện tình có hậu

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Hàng năm theo niên lịch phụng vụ, để chuẩn bị cho đại lễ Giáng Sinh, Hội Thánh không chỉ dành quãng thời gian mùa Vọng mà còn dành một tuần đặc biệt từ 17-24/12 như thời gian chuẫn bị gần. Tuần đặc biệt này có các bài đọc riêng để giúp tín hữu y thức hơn. Để đón mừng đại lễ Phục Sinh, đón mừng mầu nhiệm Khổ Nạn -Phục Sinh của Đức Kitô thì có những ngày mùa chay thánh và tuần lễ chuẩn bị gần khởi từ chủ nhật thứ V mùa chay. Xin chia sẻ đôi nét suy nghĩ được gợi ý từ hai bài đọc của ngày thứ hai tuần đặc biệt này: bài trích sách tiên tri Đaniel kể về chuyện bà Suzana và bài trích tin mừng thánh Gioan về chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang.

Thưở còn "làm chú" trong Tiểu Chủng Viện dù phải nghe một bài đọc rất dài, bài trích sách tiên tri Daniel nhưng không ai trong chúng tôi cảm thấy oải vì chuyện kể về bà Suzana vừa hấp dẫn vừa lôi cuốn trí tò mò của các chú thiếu niên đang độ tuổi nhổ giò. Hơn nữa, ai cũng hể hả như vừa theo dõi một cuốn phim hay, một câu chuyện đậm tính bi hài mà lại kết thúc có hậu: kẻ gian ác phải chết còn người vô tội thì được cứu sống. Câu chuyện bà Suzana còn trên môi miệng những chú tinh nghịch trong các giờ chơi những ngày sau đó: nè,cho tao biết cây chò hay cây sồi? Sự tinh nghịch của chúng tôi cũng có phần do thích thú trước trí thông minh của cậu bé Đanien biết phân biệt điểm khác nhau giữa sự thật và điều dối trá. Sự thật vì chỉ có một nên phải tương đồng còn điều dối trá thì dễ khác biệt. Đây là một trong những chìa khoá giúp các nhà điều tra tìm ra sự thật hoặc phát giác sự giả dối. Hai người gian dối nếu không quá lanh mưu hay lưu manh thì rất dễ lộ tẩy do những khác biệt trong lời khai về một vấn đề hay một sự kiện. Đanien đã khôn ngoan tách hai ông lão dù tóc đã bạc nhưng tuổi mãi ở tầm 35 riêng ra để tra xét. Và thế là sự dối trá đã lộ ra nơi chính lời khai của hai ông. Người thì nói bà Suzana phạm tội dưới gốc cây sồi ông kia lại bảo dưới gốc cây chò. Thú thật khi chọc ghẹo nhau, lũ mới lớn chúng tôi đã tự thú nhận trí tò mò của mình về những chuyện " rồi ai cũng sẽ biết". Tuy nhiên phải nhìn nhận điều này rằng tính có hậu của câu chuyện làm ai ai cũng hể hả. Kẻ gian ác, dù là vị vọng hay quyền cao chức trọng cũng phải chết, phải bị nghiêm trị còn người vô tội cần được cứu sống, người thấp cổ bé miệng và người bị bóc lột, bị áp bức cần được giải phóng. Chúa đã thực thi điều ấy và chúng ta đương nhiên phải làm như vậy. Phải có công bình và cần giữ công lý nghiêm minh.

Trên núi cây dầu, trời vừa tảng sáng, một đoàn người trai gái, già trẻ, lớn chức, bé quyền đủ cả, mặt hí hửng dẫn một chị phụ nữ ngoại tình đến gặp Chúa Giêsu: " Thưa thầy hạng phụ nữ này theo luật Môsê thì phải ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy thế nào?". Thánh Gioan nhận ra đây chính là một mũi tên nhắm hai mục đích mà mục đích chính là Chúa Giêsu. Những tưởng rằng trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan, Chúa Giêsu thế nào cũng bị sập bẫy, một cái bẫy tinh quái, hiểm độc do các luật sĩ và biệt phái giăng ra để thực hiện âm mưu thâm độc của mình. Các ông này không ngần ngại thức trắng đêm để bắt tại trận tội yếu đuối, bất trung của người phụ nữ để làm mồi nhử, hãm hại Chúa Giêsu. Nếu tội của người phụ nữ là một thì tội các ông này phải đáng mười vì đâu phải do yếu đuối như chị phụ nữ kia mà là do lòng nham hiểm ác độc, một sự ác độc nham hiểm tột độ đến nỗi không chừa một thủ đoạn bỉ ổi nào.

Chúa Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất và khi bị gặn hỏi nhiều lần Ngài đã đứng lên rồi ôn tồn: "Ai trong các ngươi xét mình vô tội hãy ném đá chị này trước đi'. Rồi Ngài lại cúi xuống tiếp tục lấy ngón tay viết lên đất. Không biết Chúa Giêsu viết những gì nhưng chắc chắn khó có ai đọc ra vì trời vừa tảng sáng và khoảng cách giữa Ngài với đám đông chắc không thể gần vì có sự ngăn cách của người phụ nữ, nhất là đám đông đứng đối diện thật khó mà đọc được những gì Ngài viết. Xét theo công lý như cảm nghĩ của con người thì những người có mặt sáng hôm ấy ( trừ Chúa Giêsu ), tất thảy đều phải chết, nhất là những kẻ lòng dạ nham hiểm, ác độc.

Tư tưởng của ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của ta cũng không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của ta và đường lối của ta vượt cao hơn tư tưởng và đường lối các ngươi bấy nhiêu. Mạc khải của Thiên Chúa dần hé mở qua lời của tiên tri Isaia. Mạc khải ấy nay hiện thực và nên hoàn hảo nơi chính Đức Giêsu: kẻ có tội, người gian ác không phải chết. Đám đông hung dữ hôm ấy lẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đã được cứu sống bằng lòng nhân hậu của Chúa Giêsu. "Ta cũng không kết tội chị hãy về và đừng phạm tội nữa". Chúa Giêsu không chỉ khoan dung với chị phụ nữ mà còn tế nhị đánh thức lương tri của đám đông hiểm độc bấy giờ. Thánh Gioan đã tường thuật rằng sau khi ngẩng lên nói: "Ai trong các ngươi......" thì Ngài lại cúi xuống viết dưới đất. Giả như lúc bấy giờ sau khi nói, Chúa Giêsu vẫn ngước mắt nhìn chằm chằm vào đám đông thì thử hỏi có được mấy ai tự nguyện rút lui, nhất là người rút lui đầu tiên. Hình như Chúa Giêsu không muốn nhìn, Ngài tế nhị tạo cơ hội cho những người hôm ấy nhìn nhận tôi lỗi mình và rút lui trong danh dự. " Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tôi lỗi của loài người, để họ còn ăn năn hối cải' ( Kn 11,23 ).Kẻ gian ác đã được cứu sống đúng như lời Chúa đã phán: "Ta lấy mạng sống ta mà thề: Ta đâu muốn cho kẻ dữ phải diệt vong, nhưng là muốn nó bỏ đường tà để được sống". ( x.Ed 18,23 ).

Lẽ công minh theo cảm nghĩ của con người, một kết cục có hậu mà thường ai cũng thích khi xem phim hay đọc tiểu thuyết đó là kẻ gian ác phải chết và người công chính được cứu sống. Tuy nhiên đây chỉ là lẽ công minh hay là sở thích của đám đông dân thường. Với các hiền triết, các nhà đạo đức thì dường như có cao hơn một bậc. Nên khoan dung với người có tội, cần lượng thứ cho người gian ác để giúp họ hoán cải, ăn năn. "Buông đao thành Phật. Quay đầu là bờ". Những lời giáo huấn trong Phật giáo cho ta hay chân lý này. Các quốc gia tiến bộ đã và dần bỏ án tử hình. Án hình giam giữ cũng là một trong những cách thế giúp tội nhân có cơ hội ăn năn và sửa đổi. Kẻ gian ác không bị diệt trừ ngay nhưng cần được giáo huấn để đổi thay.

Tuy nhiên để thực hiện điều này thì một người công chính, duy nhất xứng là công chính đã không được cứu sống. "Người này đích thực là người công chính" (Lc 23,47). Để kẻ gian ác được cứu sống thì Giêsu Kitô, người công chính đích thực đã phải chết. Chuyện thật nghịch lý nhưng rất đượm tình. Chết cho người công chính thì xưa nay vốn hiếm, ở đây Thiên Chúa lại tự nguỵên hy sinh vì chúng ta là những tội nhân. Tình yêu thật khó lý giải vì Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Có nhiều người dễ biện minh rằng nếu ta hành xử như thế thì có thể làm cho nhiều người lạm dụng tình yêu và không chịu đổi thay hay vươn lên. Cũng có thể lắm nhưng ngược với khôn ngoan loài người như Tào Tháo đã quan niệm: thà ta phụ người chứ không để người phụ ta hay thà giết lầm hơn bỏ sót thì với tình yêu đích thật phải chăng phải là thà yêu lầm còn hơn bỏ sót. Dẫu có lầm thì cái lầm trong tình yêu cũng thật đáng yêu vậy.


 

64. Suy niệm của Gs. Phạm Văn Lưỡng.

“ĐÃ ĐẾN GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH”

I. BỐI CẢNH BÀI TIN MỪNG

Trình thuật Tin Mừng hôm nay diễn ra trong bối cảnh người Do Thái lũ lượt tiến về Giêrusalem để mừng đại lễ Vượt Qua theo luật dạy. Khi “nghe tin Đức Giêsu cũng tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Israel!” (Ga 12, 12-13). Họ đâu ngờ rằng, trong đại lễ này, chính Đức Kitô, là Chiên Vượt Qua Mới, sẽ biến thành lễ Vượt Qua Mới để cứu chuộc nhân loại.

Ngay đầu trình thuật (câu 20), tác giả Gioan kể rằng, không chỉ có người Do Thái lên Giêsusalem thờ phượng Thiên Chúa mà còn có mấy người Hy Lạp là những người ngoại giáo cũng đến đền thờ để tỏ lòng tôn kính thờ phượng Người. Câu 21-22, tác giả Gioan kể tiếp, những người Hy Lạp này đã qua trung gian các môn đệ Philipphê và Anrê mà xin được gặp Đức Giêsu. Từ "gặp" trong Kinh Thánh có nghĩa là "tin". Những người ngoại giáo này đã tin vào Người, Sự kiện này cho thấy chương trình Cứu Độ là phổ quát, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc chứ không chỉ hạn hẹp trong dân Do Thái. Đức Giêsu trả lời khi hai môn đệ hỏi Người:

"Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga 12, 23) hàm ý Ơn Cứu Độ phổ quát ấy giờ đây bắt đầu được thực hiện. Từ câu 23, tác giả Gioan không còn nói gì đến những người ngoại giáo này nữa, cũng chẳng cho biết lời yêu cầu của họ có được toại nguyện hay không, nhưng để tập trung bài trần thuật của mình vào Đức Giêsu Kitô, Đấng được tôn vinh nhờ mầu nhiệm khổ nạn, thập giá mà Người sẽ phải Vượt Qua để vào vinh quang Phục Sinh.

II. GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH:

1. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).

Từ "giờ" được sử dụng hai mươi sáu lần trong Tin Mừng của Gioan, thường thường ám chỉ một thời điểm đặc biệt thuận tiện trong đó ơn cứu độ được thực hiện. Xuyên suốt phần thứ nhất của Tin Mừng, "giờ" này còn chưa đến. Chúng ta lấy một ví dụ: Thân mẫu của Đức Giêsu, trong khi muốn cậy nhờ đến Con mình ở tiệc cưới Ca-na, được nghe trả lời rằng: "Giờ của con chưa đến" (Ga 2, 4)... Mãi đến đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu mới mặc khải "giờ" của Người đã đến.

2. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).

Giờ, vừa là sự chết, vừa là sự tôn vinh. Giờ, vừa là Thứ Sáu Tuần Thánh, vừa là Chúa Nhật Phục Sinh. Để diễn tả sự phong phú từ cái chết của mình được mời gọi tiến đến vinh quang, Đức Giêsu đi từ một dụ ngôn ngắn gọn, quen thuộc ở nơi thôn dã về hạt lúa cần phải mục nát đi để mang lại nhiều hoa trái. Đây là một bài học thực tế, một hình ảnh rất cụ thể ngay trong thiên nhiên: Nhà nông gieo hạt giống xuống đất, sau ít lâu thấy làn vỏ mục thối, một mầm sống trồi lên, và với ngày tháng trôi qua, mầm sống đã vươn lên thành cây, phát sinh bông hạt nặng trĩu và một đồng lúa chín vàng, ngào ngạt hương thơm, đem lại cho nhà nông một mùa gặt phong nhiêu và một niềm vui dào dạt (trích bài suy niệm của Lm. Minh Văn CMC). Cũng như hạt giống, Đức Giêsu cần phải được gieo vào lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại hoa trái là ơn cứu độ cho mọi người, kể cả lương dân.

3. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).

Cái chết của Đức Giêsu không chỉ là một sự bắt buộc phải kinh qua để tiến đến vinh quang phục sinh, mà còn là điều kiện để khai sinh và phát triển Giáo Hội.

Cái chết của Đức Giêsu quả là thời điểm kiến tạo con người Kitô hữu, bởi vì "Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó" (Ga 12, 26). Quả vậy, các câu 25 – 26 nối kết cộng đoàn tín hữu vào với thân phận của Đức Giêsu:

"Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thướng mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời (Ga 12, 25)... Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy" (Ga 12, 26)... Ai yêu quý mạng sống mình, theo ngôn ngữ của Gioan, là kẻ ưa thích sự tối tăm, yêu thích thế gian này và sự vinh quang riêng mình.

Ở đây vẫn còn là vấn đề Đức Tin, dù nó không rõ ràng như trong Tin Mừng Nhất Lãm nhằm nhấn mạnh mối tương quan với Đức Giêsu: "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8, 35). Tương quan với Đức Giêsu còn được nêu rõ qua câu: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy". Môn đệ cần phải đi bất cứ nơi nào Đức Giêsu đi, nghĩa là cũng như Người đi vào cái chết để dự phần vào vinh quang phục sinh. Trong trường hợp này, Đức Giêsu đã nói: "Cha Ta sẽ tôn vinh nó".

4. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).

Giờ khổ nạn và thập giá gần kề, tâm hồn Đức Giêsu xao xuyến! Người đã cầu nguyện với Cha. Chúng ta cùng lắng nghe hai lời cầu nguyện của Người: "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" và "Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha". Đức Giêsu đã chọn lời cầu nguyện thứ hai. Nghĩa là Người đã chu toàn cách tuyệt hảo sứ mệnh Chúa Cha giao phó: thí mạng sống mình để cứu rỗi toàn thế giới. Trốn tránh giờ đó là hủy bỏ mọi giá trị của nó đã từng được gói ghém trong mầu nhiệm nhập thể. Còn chấp nhận giờ đó là làm vinh danh Chúa Cha. Vì vậy, nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu mà chương trình cứu độ phổ quát của Người được thực hiện.

5. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).

Sự chết của Đức Giêsu sẽ mang lại nhiều bông hạt. Người ta thấy dân chúng tuốn đến với Người: Ban đầu là dân Do Thái (Ga 12, 9.12.17.18.34), rồi đến dân ngoại làm nên hoa trái đầu mùa (Ga 12, 20 – 22). Đó cũng là điều được nói lên ở câu 32: "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi". Khởi đầu của việc Đức Giêsu được giương cao là khi Người chịu đóng đinh trên thập giá.

6. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23)

Giờ Con Người được tôn vinh cũng là giờ thế gian bị xét xử. Cuộc sáng tạo cũ đến đây chấm dứt để bắt đầu cuộc sáng tạo mới. Số phận mọi người tùy thuộc giờ Đức Giêsu là giờ phán xét, giờ phân chia: giờ này ai từ chối Đức Giêsu thì bị xếp vào phe của Sa-tan, thủ lãnh thế gian, đối thủ lợi hại của Đức Giêsu, và bị luận phạt như nó.

III. KẾT LUẬN:

Bản văn Tin Mừng hôm nay với những gợi ý nêu trên, nhằm gửi đến mỗi người chúng ta tín thư sau:

Giờ của Đức Giêsu là trung tâm điểm của lịch sử ơn cứu độ. Giờ này đánh dấu việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu chuộc nhân loại. Cả cuộc sống của Đức Kitô đều qui hướng về Giờ đó. Từ Giờ đó mà có sự phán xét nhân loại, có sự phân chia những kẻ tin hay không tin mầu nhiệm Đức Kitô chết và phục sinh vinh quang. Ai tin thì được cứu rỗi và được sống; còn ai từ chối thì bị luận phạt và phải chết.

Để tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu và mừng Đại Lễ Phục Sinh của Người trong những ngày sắp tới, mỗi chúng ta hãy sẵn sàng mở toang cánh cửa lòng mình ra với tình yêu chân thật và sâu thẳm để đón nhận Đức Kitô, Đấng đã chết khổ hình thập giá và phục sinh vinh hiển, nguồn Ơn Đức Độ của chúng ta.

Xin được đưa ra một vài gợi ý áp dụng vào thực tế cuộc sống Kitô hữu:

1. Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Bạn và tôi, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?

2. Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được. Bạn và tôi có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?

3. Đức Kitô đã chấp nhận bị nghiền nát để trở nên Thánh Thể – bánh trường sinh cho nhân loại, cho bạn và cho tôi. Nếu lãnh nhận thứ bánh ấy mà không có sự đồng cảm với Đức Kitô thì có nghĩa gì đâu? Cánh cửa nguồn ơn cứu độ đã mở rộng từ lâu lắm rồi... phải chăng bạn và tôi vẫn đi vào mà lại không nhận ra là mình đi đâu?


 

65. Lẽ sống chết – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

“Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời” (Ga 12:25).

Từ một câu chuyện có thật:

Anh Sundar được sinh ra trong một gia đình theo Ấn giáo. Lớn lên, được nghe biết về Chúa Giêsu, anh đã xin rửa tội theo Kitô giáo, sau đó tình nguyện ở lại Ấn độ làm thừa sai, chứng tá cho niềm tin của mình.

Một chiều kia, Sundar cùng với một tu sĩ Phật giáo phải băng qua vùng núi Himalaya để đi đến một tu viện. Trời lạnh buốt và màn đêm như sắp bao phủ không gian. Sundar và nhà tu kia được báo cho biết họ sẽ bị lạnh và có thể mất mạng nếu không kịp về đến tu viện trước khi trời tối.

Đang lúc đi vào một đoạn đường hiểm trở, với những vách đá cheo leo, thì chợt, họ nghe có tiếng cầu cứu. Một người đàn ông đã trợt chân rơi xuống khe núi từ khi nào. Chân anh ta bị gãy, không thể nào leo lên được, và đang nằm chờ chết.

Người tu sĩ kia lên tiếng nhắc nhở Sundar:

- Chớ dừng lại. Ý trời đã định cho hắn như vậy rồi, ta không nên can dự vào làm chi. Phần chúng ta, phải đi gấp lên nếu như không muốn bỏ mình nơi này.

Sundar đáp lại:

- Theo tôi, ý Trời đã định cho ta đi ngang qua đây để cứu giúp kẻ không may này đấy. Tôi không thể bỏ rơi anh ta.

Nói xong Sundar tìm cách trèo xuống khe núi. Vị tu sĩ kia vội vã tiếp tục cuộc hành trình.

Nơi khe núi, nhìn đôi chân bị gãy, biết nạn nhân không thể tự bước đi được, Sundar phải dùng tấm mền bó anh lại, cõng lên lưng, nặng nhọc lần mò trèo khỏi khe núi, tìm trở lại con đường lúc nãy.

Sau mấy tiếng đồng hồ vất vả, Sundar và nạn nhân đến được lối mòn dẫn về tu viện. Lúc này tuyết rơi mỗi lúc một dày. Trời tối. Cóng lạnh. Sức lực hầu như khô cạn. Đang lúc tưởng chừng không còn bước thêm được nữa thì Sundar chợt thấy có ánh lửa phát ra từ một cánh cửa sổ của tu viện.

Mừng quá! Sinh khí dường như được phục hồi. Sundar hăng hái dấn bước về phía có ánh lửa. Chợt anh vấp té, bổ nhào trên tuyết lạnh.

Không phải anh đuối sức. Nhưng vì vấp phải một vật gì đó nằm chắn ngang đường đi. Sundar quì xuống, lấy tay gạt lớp tuyết phủ bên trên thì nhận ra đấy là xác của người tu sĩ đã cùng đi với mình ban chiều. Thương cho người bạn đồng hành xấu số, Sundar âm thầm dâng lên Chúa một lời nguyện…. Và rồi từ thẳm sâu của tâm hồn, anh chợt nghe vang vọng một câu Phúc Âm: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời.” (Theo lời kể của William Bausch)

“Sự sống thoát thai từ nỗi chết,” một linh mục đã nói như thế. Mà đúng lắm, trong thực tế của đời người, để sự sống tiếp diễn, sự chết đã phải xảy ra không ngừng. Khi chấp nhận nỗi đau thương mất mát trong cái chết, mầm sống mới được phát sinh ra và triển nở. “Nếu hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, nó sẽ trơ trọi một mình; nhưng nếu chết đi, nó mới sai hoa lắm quả” là vậy.

Khi chỉ biết lo cho sự sinh tồn của mình mà làm ngơ trước nỗi khổ đau của kẻ khác, khi chỉ chú trọng đến lợi ích riêng tư hơn là nhu cầu của tha nhân, tôi đã tự đóng khung trong chiếc vỏ trấu để rồi cứ trơ trọi giữa giòng đời. Nhưng nếu biết chết đi con người vị kỷ, tôi sẽ có được một mầm sống mới làm phát sinh bao niềm hy vọng của một mùa gặt thành công.

Thói ích kỷ trong tôi càng chết đi, hình ảnh Thiên Chúa càng rạng sáng. Càng cương quyết chiến đấu với chính mình, dung nhan Thiên Chúa càng được hiện tỏ.

Thánh Kinh có kể lại: Trong một cuộc hành hương thánh địa nhân dịp lễ Vượt qua, có sự hiện diện của một số người Hilạp. Họ là những người ngoại, có lẽ đang khao khát tìm ra Lẽ Sống của cuộc đời. Khi nhìn vào Do thái giáo, họ thấy thấp thoáng bóng hình của Lẽ Sống mà họ đang kiếm tìm. Thế rồi trong dịp hành hương đền thờ Giêrusalem lần này, họ nghe nói về một con người có tên Giêsu, nơi Ngài biết bao nhiêu tâm hồn đã tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống-từ những cô gái điếm cho đến các kẻ thu thuế tội lỗi, từ những người khốn khổ bần cùng đến các quan lính của ngoại bang…

Thế rồi những người Hilạp đã tìm hỏi và xin được “trông thấy” Đức Giêsu. Đây không phải là một sự trông nhìn thuần tuý, vì đứng đâu mà lại không thấy được Ngài. Song, họ muốn gặp gỡ, trao đổi, hiểu biết, và nhất là muốn bước vào một tương quan thân thiết với Đức Giêsu.

Trong ngôn ngữ thần học của Thánh sử Gioan, sự “trông thấy” đó luôn đi kèm với “niềm tin”. Như sau này, khi vào mồ Chúa trong ngày Phục sinh, Gioan “đã thấy và tin” (Ga 20,8).

Thế nhưng trước khao khát chân thành của người Hilạp, Đức Giêsu lại trả lời với các môn đệ, những trung gian của niềm tin: “Giờ đã đến!”

Ngài đã chẳng trả lời “cho gặp” hay “không cho gặp”, Ngài chẳng bảo “đang bận” hay “đợi lúc khác.” Song Ngài tuyên bố: Giờ đã đến!” Mà đây là giờ gì nếu không phải là giờ tử nạn.

Thế ra để mang lại ý nghĩa cho cuộc đời con người, để tăng thêm sức sống cho các tâm hồn đang khát khao tìm kiếm Lẽ Sống, để trả lời cho tất cả mọi câu hỏi của nhân loại, Chúa Giêsu lại nói đến giờ chết. Phải chăng đó chính là giờ cao điểm của cuộc sống Ngài: bước vào sự chết để diễn tả tột cùng hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương con người-yêu thương đến độ chấp nhận cái chết “hầu thế gian được sống,” để nhân loại “thấy” được Lẽ Sống đích thật của cuộc đời.

Nhưng chính trong cái chết của Chúa Giêsu lại mang mầm một cuộc phục sinh vinh quang. Bởi vì đây là cái chết diễn tả tình yêu. Mà tình yêu thì chẳng bao giờ chết. Tình yêu sẽ bất diệt. Nghe có vẻ nghịch lý, nhưng những giá trị của yêu thương lắm khi không thể đo lường hay lý giải được. “Con tim có những tiếng nói mà lý trí không hiểu thấu” là vậy.

Thế nhưng, ai có dám chết cho yêu thương-yêu thương Thiên Chúa và bao người đang sống bên mình-họ sẽ dần dần khám phá ra chân dung của sự không-thể-hiểu-thấu kia. Chính khi biết tự hủy những đam mê, ích kỷ, tự mãn, tự kiêu, tự ái…, con người sẽ cảm nhận sâu xa tại sao.

“Chính lúc trao ban lại là khi nhận lãnh,

Chính lúc quên là lúc gặp lại bản thân,

Chính khi thứ tha là khi được tha thứ,

Chính lúc chết đi là khi vui sống muốn đời.”

Và niềm vui sống này chỉ được trao ban cho những ai biết quên mình vì Yêu Thương.

home Mục lục Lưu trữ