Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 200

Tổng truy cập: 1376492

SUY TƯ VỀ TIỀN BẠC

SUY TƯ VỀ TIỀN BẠC

Ở đây cử toạ khác với cử toạ thù nghịch ở chương trên: Chúa Giêsu nói với các môn đệ, điều mà Ngài đã không làm từ 12,22-53. Lập tức Ngài kể một câu chuyện (16,1-8) và Ngài bổ túc phần giải thích bằng đôi lời ()cc.9-13. Dụ ngôn này có lẽ được gợi lên bởi một vài sự kiện khác nhau, thuộc vào số những dụ ngôn mà người ta hiểu rất sai; lấy làm gai hướng, người ta tự hỏi làm sao Chúa Giêsu có thể tán đồng những hành xử gian dối khi khen tên lừa đảo giả mạo giấy tờ. Chúng ta sẽ thấy đó không phải là cao điểm của câu chuyện, trong đó Chúa Giêsu xác định rõ ràng là tên quản lý bất lương (c.8). Nhưng để tránh mọi sự hiểu lầm như thế mà câu chuyện được tiếp tục bằng một giáo huấn về tiền bạc.

Một nhà phú hộ có một đồn điền rộng lớn nghe được báo cáo bất lợi về người quản gia; ông gọi người này lại, bảo ngưng việc và trình sổ sách. Người quản gia lâm vào tình trạng bế tắc vì ông phải thất nghiệp, mà cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Nhưng ông biết xoay sở để bảo đảm tương lai; ông ta sẽ hành động cách khôn khéo để sẽ có người đón rước mình về nhà họ. Phần đầu này (cc. 1-4) làm ta phải nín thở chờ đợi xem người quản lý sẽ biết làm gì.

Và đây, ông ta gọi các con nợ của chủ đến và đề nghị họ bớt những khoản nợ quan trọng. Khi người ta nợ 3.700 lít dầu mà được giảm 50% thì quá ngon rồi… Vài nhà Kinh Thánh nghĩ rằng: người quản gia chỉ bớt tiền lời, những món tiền hoa hồng, vốn thuộc về anh ta một cách khá hợp pháp; một cách giải thích như thế sẽ đi đến chỗ bào chữa cho cách hành xử của anh ta và luân lý hoá dụ ngôn rồi. Nhưng Luca không nghĩ như vậy: nếu người quản lý bất lương, gian dối (c.8) là vì anh ta tỏ ra hào phóng mà gây thiệt hại cho người thuê mướn anh ta! Và ông chủ khen anh ta, đó có lẽ là Chúa Giêsu chứ không phải người điền chủ đâu: Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Chúa Giêsu chấp nhận việc giả mạo chứng từ; phần cuối của câu 8 nói rõ rằng việc khen ngợi hướng về tính cách khôn khéo trong việc xử trí chứ không khen tính chất bất lương của hành động. Còn về tính cách khôn khéo trong những quan hệ hỗ tương, thì những con cái ánh sáng –các Kitô hữu thích gọi nhau như thế, sau khi đã trở nên rạng sáng nhờ nghe Lời Chúa (?Tx 5,5; x. Lc 11,34tt)- có thể rút kinh nghiệm từ con cái đời này, những kẻ không hề lo nghĩ đến chiều kích siêu việt của cuộc sống con người. Ngay cả khi những kẻ này hành động một cách bất lương, người tín hữu đích thực cũng biết rút ra một vài giá trị có thể hữu ích cho cuộc sống của mình.

Bài học của dụ ngôn ở câu 8 lại được Chúa Giêsu giải thích qua lời kết luận thứ hai ở câu 9. Đó là một lời khuyên cho các môn đệ biết cách sử dùng tiền của một cách khôn khéo trong viễn tuợng Nước Trời. Nếu người quản lý bất công đã biết sử dụng của cải đời này để có bạn hữu và chuẩn bị cho tương lai của mình ở đời này, thì các Kitô hữu càng phải chuẩn bị tương lai vĩnh cửu của họ bằng cách chia sẻ với người nghèo bằng việc bố thí; như thế, các kẻ này sẽ tiếp nhận họ (x.14,14) vào thành đô của Chúa –tại đây những kẻ nghèo như đang ở trong nhà họ, phù hợp với các mối phúc 6,20tt. Như vậy, tỏ ra khôn khéo là xem Tiền bạc như một phương tiện chứ không như mục đích. Tiền bạc là bất công, lường gạt –người quản lý cũng được đánh gía như thế ở câu 8, bởi vì nó có thể trở nên thần tượng và bởi vì, so sánh với của cải Vương Quốc là của đích thực và bất diệt (x.12,33), nó có một giá trị bấp bênh và tạm thời: tất yếu nó sẽ vắng mặt vào ngày mà mỗi người chúng ta phải chết. Vương Quốc của Tiền bạc sẽ chấm dứt.

Là kết luận thứ hai của câu chuyện người quản lý bất lương, câu 9 đưa ra hai áp dụng mới mà liên hệ với dụ ngôn có phần lỏng lẻo hơn. Áp dụng thứ nhất dùng để loại trừ mọi hiểu lầm và một cách dứt khoát ngăn cản người ta coi câu chuyện như một lời mời gọi thực hành thói xảo quyệt (cc.10-12). Trái với sự bất chính của người quản lý và Tiền bạc, áp dụng này đòi hỏi phải có sự trung tín được thực hiện từng ngày để quản lý của cải thiêng liêng cũng như vật chất. Nhờ ba điều tương phản, lời khuyên này có lẽ ưu tiên nói với những người có trách nhiệm trong các cộng đoàn Kitô hữu: sự trung thành phải có nơi những kẻ quản lý của cải vất chất lại càng cần thiết hơn đối với những kẻ có trách nhiệm về tài sản thiêng liêng của anh em mình. Được viết từ một dụ ngôn nhỏ và phần áp dụng (c.13) một giáo huấn cuối cùng còn nói đến những liên hệ với tiền bạc. Ai thờ nó và làm nô lệ nó không thể là con cái ánh sáng được. Từ khi Thiên Chúa đột nhập vào trần gian, con người được đặt trước một chọn lựa triệt để; qua việc sử dụng của cải người Kitô hữu phải tỏ ra mình chỉ thuộc về Thiên Chúa mà thôi.

 

57. Chú giải của R. Gutzwiller

DỤ NGÔN NGƯỜI QUẢN LÝ

Trong các diễn từ tiếp theo, Chúa Giêsu nói đến việc sở hữu của cải.

1. Người quản lý tinh khôn

Dụ ngôn này thường gây nhiều vấp phạm và người ta đang cố đề phòng gương mù trong khi lại trình bày thái độ của người quản lý tinh khôn như là được phép. Theo luật lệ thời đó, một chủ trại có thể làm gì tuỳ ý. Con cái sự sáng, trong vấn đề này, phải xử sự khéo léo như con cái trần gian: đây là điểm chính đích thực của dụ ngôn.

Người quản lý không làm theo ý của chủ hay phục vụ quyền lợi của chủ, mà làm hại cho chủ. Xét về ích kỷ, thì đường lối người quản lý thật là tinh khôn. Y xử sự một cách quỷ quyệt, dầu hết sức giận dữ vì bị thiệt, người chủ vẫn phải khen hắn.

Người quản lý sắp mất chức, không muốn làm việc tay chân vất vả, cũng không muốn đi hành khất. Cho nên y đành phải dùng mưu: lừa bịp ông chủ và gây thiện cảm với các con nợ. Những người này phải giúp lại hắn, ít là tạm thời, cho đến khi hắn kiếm được một địa vị tương tự. Sự khéo léo có tính toán đó có tính cách quan trọng.

Con người được Thiên Chúa trao của cải vật chất để quản lý chúng. Họ phải sử dụng làm sao để khi gặp khó khăn, sa sút, sẽ có bạn bè trợ giúp. Hoàn cảnh đó chính là lúc chết. Khi đó, con người phải bỏ lại tất cả những gì lúc đó là sống còn đối với họ. Họ sẽ có những bạn hữu, nếu trước đó họ đã dùng của cải vật chất để giúp đỡ, biện hộ cho họ trước mặt Thiên Chúa, để họ được ‘đón tiếp vào chốn an nghỉ đời đời’.

Đường lối sử dụng của cải khéo léo (dám nói được là xảo quyệt) không phải ở chỗ tăng thêm của cải bất cứ cách nào, hay ham lợi lộc, nhưng là thích cho đi hơn là nhận vào, giúp đỡ hơn là cậy nhờ người khác giúp đỡ. Càng sử dụng tốt của cải, người ta càng dùng nó để mưu cầu đời sau.

‘Bố thí’, một từ ngữ mà ngày nay chúng ta không thích và một cách nào đó lại diễn tả đúng sự kiện. Người thợ đòi hỏi công bằng chứ không xin bác ái. Tâm thức xã hội bừng tỉnh thì ý thức xã hội càng tinh tế… Người ta đòi phải có thù lao tương xứng với công việc chứ không xin bố thí với mục đích trợ giúp hay do lòng thương xót.

Tuy nhiên, người sở hữu phải dùng của cải để làm việc thiện ngay cả khi họ không bị bắt buộc làm và chẳng mang lại lợi ích cho mình. Theo nghĩa này, thì bố thí cũng có giá trị của nó.

Đức Kitô còn đưa ra một áp dụng khác. Ngài cho biết ai từng trung tín trong việc nhỏ, cũng sẽ trung tín trong việc lớn.

2. Quản lý thanh liêm.

Người ta có thể sai lầm khi kết luận con người có quyền quản lý tài sản không theo ý chủ muốn. Một cách rõ ràng, Đức Kitô khẳng định ngược lại. Sự gì đã nhận lãnh từ nơi Thiên Chúa thì phải sử dụng theo ý Chúa. Cả trong trường hợp nhận ít, lòng tín trung của chúng ta cũng được tưởng thưởng và Ngài sẽ ban thêm cho ta.

Tài sản nhỏ nhoi dành cho con người quản lý là những sự vật ngoại tại và phàm trần: phương tiện sử dụng, sức mạnh thân thể và sức khoẻ, năng lực trí tuệ và các ơn thiêng liêng. Không nên đặt vấn đề: cái gì tôi ưa thích? Ước vọng của tôi thế nào? Tính khí và sở thích sẽ lôi cuốn tôi về đâu? Thiên hạ mong muốn gì, họ làm gì? Mối quan tâm duy nhất của tôi là: ‘điều nào hợp vơí ý Chúa, Đấng đã ban cho tôi những ơn đó để quản lý?’

Nếu biết hành động như vậy, người ta sẽ nhận được những điều cao trọng, siêu nhiên, đạo đức, những kho tàng ân sủng và ơn huệ Thánh Thần.

Tuy nhiên, có ít người biết hướng đời sống và dùng các ơn siêu nhiên cũng như các năng lực để tìm Thánh ý Thiên Chúa! Rất ít người ý thức mình là người quản lý. Họ tưởng mình là chủ nhân, cho nên xử sự theo ý mình. Họ làm theo sở thích. Hành động của họ độc đoán.

Trái lại, thái độ đạo đức phải có là lời chúng ta vốn cầu xin trong kinh Lậy Cha: ‘Ý Cha thể hiện’, đó là quy tắc xử thế của con người. Chỉ có như vậy, cuộc sống mới đổi thay được để nhằm mục tiêu phục vụ Thiên Chúa.

Tiền bạc là một trong những cám dỗ lớn lao đối với con người, nó càng nguy hiểm hơn khi có sự trợ lực của ý muốn tự quyền và tình dục. Đó là lý do Đức Giêsu đòi hỏi một yêu sách bất khả nhượng và không thể châm chước.

 

58. Chú giải của Noel Quesson

Đức Giêsu còn nói với các môn đệ rằng

Dụ ngôn về “người quản gia bất lương” là một trong các câu chuyện gây tai tiếng mà người ta tìm thấy trong Tin Mừng, và các tín hữu chờ đợi với một nụ cười khẩy để biết nhà thuyết giáo làm thế nào để xoay xở với bài học về sự lừa bịp đó.

Nhưng đó là một dụ ngôn, một “mâchâl”, một “câu đố “. Chứ không phải là một câu chuyện xây dựng trong mọi chi tiết của nó. Chúng ta, nhưng người chịu ảnh hưởng của tinh thần duy lý Tây Phương, chúng thích những chứng minh họp luận lý và đơn giản. Đức Giêsu lại hoàn toàn thoải mái sử dụng văn phong điển hình của những người kể chuyện phương Đông. Họ nháy mắt ra hiệu cho cử tọa, để yêu cầu người nghe đừng bỏ mất óc phê bình: “Nào, các bạn sáng suốt nhé! Hãy hiểu sự tinh tế ẩn giấu dưới nghĩa đen! Tôi làm bạn khó chịu, hẳn là thế, nhưng đó là cố ý: Các bạn đã bị nhiễm độc và mê man về đề tài quan trọng mà tôi đề cập đến thế sao...!

Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông

Một quản gia phung phí! Tất cả dụ ngôn sẽ diễn tiến trên ý tưởng “quản lý” này. Trong Luật Rôm, cũng như trong tâm thức thông thường, quyền “sở hữu” là “quyền sử dụng và lợi dụng cái gì thuộc về mình”: “Bởi vì cái đó thuộc về tôi, nên tôi làm gì tùy thích”. Trong quan niệm Kitô giáo, quyền tư hữu tư nhân thì khác hẳn: Chúng ta không thật sự là chủ sở hữu, nhưng chỉ là những “người quản lý” của cải vốn vẫn thuộc về tất cả mọi người? Học thuyết truyền thống này trực tiếp đến từ Đức Giêsu (chứ không phải từ chủ nghĩa cộng sản) và vừa qua đã được Công đồng Vatican II nhắc lại: “Thiên Chúa đã trao trái đất và mọi vật chứa trong đó cho con người sử dụng (Gaudium ét Spes, số 69).

Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sđi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!'

Tất cả những gì tôi phải “quản lý”: tài sản, đức tính, sự phong phú tâm linh, trì thục, đạo đức, những khả năng tình cảm của tôi. Người sẽ yêu cầu tôi phúc trình về chúng. Tôi không có quyền “phung phí” những ơn mà Thiên Chúa đã giao cho tôi và chúng vẫn luôn là các công việc “của Người”. Thiên Chúa không thích “sự phung phí”, đó là một sự xúc phạm những người đang thiếu thốn.

Người quản gia liền nghĩ bụng: ‘Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chđã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!'

Cuộc độc thoại nội tâm này bộc lộ rõ ràng sự bối rối của người quản gia. Anh ta phải có quyết định mau lẹ: Ngày mai sẽ quá muộn? Có lẽ trong một hoặc hai giờ nữa, anh ta sẽ bị “sa thải”. Phải hành động thật mau lẹ. Chúng ta đoán được đàng sau sự vội vàng ấy là sự khẩn cấp của thời mạt thế mà Đức Giêsu không ngừng nhắc nhở, quấy rầy những người đồng thời với Người. Chúng ta hãy hiểu cơ may của mình khi còn thời gian, nếu không chúng ta sẽ không có thới gian để “lật lại” như người ta vẫn nói, để thú thật bằng công thức lạ lùng là Người ta tiến tới trước nhưng đi ngược lại mục đích thật sự của chúng ta! Chúng ta phải khẩn cấp hoán cải, và quay về.

Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chđến, và hỏi người thứ nhất: ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?' Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu.' Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.' Rồi anh ta hỏi người khác: ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?' Người ấy đáp: ‘Một ngàn giạ lúa.' Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.'

Sự gian lận này khéo léo đến ba lần: Không mất gì cả không để lại dấu vết, nó là bảo đảm chống lại mọi khám phá đột xuất bởi có thể có những lời đe dọa tố giác. Con người đã chẳng thay đổi kể từ Đức Giêsu.

Về phần hai món nợ: bằng dầu và bằng lúa mì cũng rất điển hình ở Palestine. “Một trăm thùng dầu”, là thu hoạch trung bình của 150 cây ô-liu, tương đương với 365 lít dầu? “Một trăm bao lúa” là thu hoạch của 42 hecta ruộng sa, tương đương với 364 hecto lít lúa mì! Theo các chuyên gia, sự giảm nợ trong cả hai trướng hợp tương đương 500 ngày công trung bình. Ngày nay mỗi người có thể tính ra bằng tiền tổng số tiền gian lận.

Về điểm này của câu chuyện, người nghe hẳn phải chờ đợi một sự kết án một cách mạnh mẽ và thích đáng từ phía Đức Giêsu. Chúng ta hãy nghe tiếp...

Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại

Chúng ta ngạc nhiên. Đức Giêsu ngợi khen người quản gia xảo trá ấy. Chốc nữa, chúng ta sẽ thấy lý do tại sao trong lời giải thích mà Người sẽ đưa ra.

Tuy nhiên, chúng ta ghi nhận rang Đức Giêsu không tán thưởng sự lừa bịp của “người quản gia lừa gạt” hoặc người quản gia bất công” như bản văn Hy Lạp đã nói.

Thật vậy, theo Đức Giêsu, anh ta thuộc về thế giới “bóng tối” mà thủ lãnh là Xatan (Ga 12,31) phải phân biệt với các con cái của “ánh sáng” (1 Thêxalônica 5,4-5).

Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sđón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu

Tạo lấy bạn bè! phát triển tình bạn! Đấy là lý lo của lời khen ngợi.

Trong công thức này ở trọng tâm của bài dụ ngôn, Đức Giêsu đem lại cho chúng ta một bài học chủ yếu: Cách sử dụng tốt sự giàu có là dùng nó để tạo lấy bạn bè, đặt tình yêu thương vào các mối quan hệ. Đó còn là một quan niệm thật sự cách mạng về tiền bạc.Dùng tiền bạc như một phương tiện để chia sẻ và sống tình bằng hữu. Tiền bạc tự nó không xấu. Nó có thể tạo ra mềm vui cho những người khác, và do đó là niềm vui cho người nào đã góp phần vào niềm vui ấy khi “ban tặng”! Luca trong Tin Mừng của Ngài đã nhấn mạnh đến Đấng Mêsia của những người nghèo, nhiều hơn các thánh sử khác. Nước Thiên Chúa hầu như thuộc về họ đến nỗi những người giàu có chỉ vào được đó nhờ sự bảo trợ và giới thiệu của những người nghèo mà những người giàu có sẽ làm bạn.

Bạn làm gì với tiền bạc của bạn? Câu hỏi đáng ngại. Tại sao không! Nhưng tốt hơn là “Tin Mừng” cho những người giàu có giờ đây biết mình có thể được cứu và bước vào “nơi ở vĩnh cửu” như thế nào, khi mà ở nơi đó tiền bạc của họ không còn nữa”.

Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn, ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn

Để kết luận cho câu chuyện cụ thể này, đây là những châm ngôn về tiền bạc mang tính mạc khải cao cả của tư tưởng Đức Giêsu. Và trước tiên, đối với Đức Giêsu tiền bạc là một “việc nhỏ” khi so sánh với “việc lớn” là Nước Thiên Chúa vĩnh cửu. Chúng ta có chấp nhận quan điểm đó không?

Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?

Trong khẳng định thứ hai này Đức Giêsu nói với chúng ta rằng tiền bạc thì “bất lương”. Đó là một cái bẫy chỉ đem lại sự an toàn giả tạo. Không nên tin vào tiền bạc (I Timôthê 6,17). Tính từ “bất lương” trở đi trở lại năm lần trong trang này. Đức Giêsu đã chới chữ. Người nói về “người quản gia bất lương” rồi giờ đây, Người nói về “tiền bạc' bất lương”. Từ này cũng thường được dịch là “người quản gia bất chính, bất hảo, bất công”... và “tiền bạc bất chính, bất hảo, bất công.. Trong linh hồn và trong ý thức, mỗi người được mời gọi để trả lời về tiền bạc của mình: Có bất hảo, bất công, bất chính không? Tiền bạc rất ích lợi, có thể được sử dụng một cách có lợi để tạo thành bạn bè cho mình, nhưng nó cũng có thể là một quyền lực của sự ác.

Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?

Khẳng định thứ ba này có một cung cách hiện đại rất đáng kinh ngạc. Trước cả Các Mác, Đức Giêsu đã lên án “tha hóa” của con Người: Tiền bạc không phải là điều tốt lành thật sự cho chúng ta. Sự giàu sang không làm cho một người nên tốt lành, thông minh, hạnh phúc. Giá trị thật sự ở chỗ khác. Tiền bạc làm “tha hóa” chúng ta, nếu chúng ta để nó “chiếm đoạt” chúng ta.

Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được

Chữ ‘Tiền Của’ viết với một chữ hoa ở đây để dịch từ ‘Mam-mon’, một từ đáng khinh bỉ để chỉ một thần tượng vì nó mà người ta trở thành nô lệ. Bạn có là tù nhân bị tiền bạc xiềng xích, chiếm đoạt, đánh đòn với những lo âu về công việc. Đối với Đức Giêsu, không thể có bất kỳ thỏa hiệp nào: Hoặc là Thiên Chúa, hoặc là tiền bạc. Chúng ta hãy thú nhận chúng ta thường bị cám dỗ phục vụ luân phiên cả hai ông chủ: Thiên Chúa ngày Chúa nhật, cho phần rỗi của chúng ta và Thiên Chúa của các thương vụ, của hầu bao, lợi lộc sáu ngày còn lại trong tuần.

Trong câu tiếp theo sau, Luca đã viết “Người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giêsu Còn tôi? Có phải tôi cũng mặt sang mày sỉa?

 

59. Chú giải của Fiches Dominicales

KHÔN KHÉO THẬT CỦA “CON CÁI ÁNH SÁNG”

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Sự khôn khéo của người quản gia bất lương

Chúng ta đang ở trong bối cảnh chung của cuộc hành trình đi lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Ở đó, Người sẽ hiến mạng sống vì tình yêu đối với Chúa Cha và anh em mình.

Đáp lại lời chỉ trích của nhóm Pharisêu và các kinh sư về thái độ của Người đối với những kẻ tội lỗi, Đức Giêsu vừa kể cho họ nghe 3 dụ ngôn về lòng thương xót. Ba dụ ngôn này là một trong những viên ngọc quý của Tin Mừng Luca.

Trở lại với cử toạ là các môn đệ. của Người, giờ đây Đức Giêsu trao đổi với các ông về một số chủ đề gom lại với nhau bằng những “từ móc nối”: “tiền của bất chính”, “khôn khéo”, “tín nhiệm”.

Bắt đầu là dụ ngôn người quản gia khôn khéo. Dụ ngôn này có thể được gợi lên từ một sự kiện nào đó trong đời thường. Thoạt đầu, dụ ngôn khiến chúng ta bỡ ngỡ vì nó mô tả một người quản gia, do cách quản lý lãng phí - “đã phung phá của cải nhà chủ “ - nên bị ông chủ cho nghỉ việc. Lao động chân tay thì không nổi, ngửa tay ăn xin thì xấu hổ, anh ta đã khéo xoay xở, để tới đâu chăng nữa, vẫn bảo đảm được tương lai: “Mình biết phải làm gì rồi “, anh tự nhủ. Thế là không một chút chần chừ, nhân vật của chúng ta cho gọi “từng con nợ” của chủ lại, và trước mặt mình, anh ta cho phép họ sửa lại số nợ. Đúng là dịp may ngàn năm một thuở, bởi vì thủ đoạn này cho phép giảm món nợ từ 100 phuy dầu xuống chỉ còn 50 (bớt khoảng 2000 lít), và từ 100 giạ lúa xuống chỉ còn 80 (bớt khoảng 6000 ký). Từ nay, mọi người đều đồng lõa với nhau giữ kín bí mật: đám con nợ dĩ nhiên sẵn lòng giữ thinh lặng để được hưởng mục vụ làm ăn quá lời; còn người quản gia thì an tâm “sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ”.

2. Một bài học cho “con cái ánh sáng”

Chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo chắc chắn không phải vì cái trò gian lận kia. Nhưng vì tính khôn léo và nhanh nhạy đáng noi gương bắt chước của anh ta trước một tính thế khó khăn để bảo đảm tương lai cho mình.

Mong sao “con cái ánh sáng”, tức là những môn đệ của Đức Giêsu, hãy học đòi nơi “con cái đời này”, để có được sự khôn khéo và nhanh nhạy tương tự trong việc ưu tiên chọn lựa Nước Trời, và phục vụ Thiên Chúa và anh em hơn tất cả mọi sự!

J. Dupont giải thích: “Lên tiếng với đám đông hiếu kỳ và hoang mang, bất đinh, Đức Giêsu tìm cách làm cho họ hiểu rằng sứ mạng Người lệnh nhận từ nơi Thiên Chúa đang đem lại cho con người một thời cơ trọng đại, phải khẩn trương có thái độ chọn lưạ phù hợp với lời kêu gọi của Người. Người ta phải quyết định ngay đừng để quá muộn: hạnh phúc đời dời của mỗi người tuỳ thuộc ở đây” (“Assemblées du Seigneur”, số 56, trg 70-71).

- Như vậy, bài học dụ ngôn muốn dạy đã rõ ràng sáng sủa. Đức Giêsu nói tiếp: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Nói cách khác, hãy xử sự khôn khéo làm sao để tiền của vật chất mà chúng ta chỉ là kẻ quản lý - không trở thành một sức mạnh thống trị và làm nô lệ con người, nhưng trở thành phương tiện phục vụ tình nghĩa anh em, củng cố tình liên đới và sự chia sẻ, xây dựng mối hiệp thông giữa con người với nhau.

Tóm lại, theo nhận xét của H. Cousin, đây là một lời nhắn nhủ: các môn đệ phải biết cách sử dụng đồng tiền cho khôn khéo, theo viễn tượng của Nước Trời. Nếu người quản gia bất lương kia đã biết lợi dụng của cải trần thế để mua lấy bạn bè và phòng xa cho tương lai của mình trong cuộc đời này, thì người Kitô hữu càng phải biết chuẩn bị như thế nào cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau bằng cách chia sẻ mới người nghèo qua việc rộng tay làm phước, để sau này chính những người nghèo đó sẽ đón tiếp họ vào cõi phúc của Thiên Chúa... Xử sự khôn khéo chính là biết xem tiền bạc như phương tiện chứ không phải là cứu cánh. Tiền là bạc, là gian dối... bơi vì nó dễ trở thành ngẫu tượng là so mới của cải chân thật là bất diệt trên Nước Trời, nó chỉ mang giá trị mong manh tạm bợ, đến ngày mỗi người chúng ta phải từ giã cuộc đời, xuôi tay bỏ lại tất cả khi ấy mới thấy rõ tiền của chẳng là gì cả Triều đại của đồng tiền rồi cũng phải chấm dứt” (L'Evangile de Luc”, Centurion, trg 217).

Rồi, Đức Giêsu kết luận bằng một câu châm ngôn theo kiểu triết lý khôn ngoan: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được!”. Giữa Thiên Chúa và tiền của không thể có chuyện bắt cá hai tay được! H. Cousin tiếp tục nhận xét: “Từ khi Thiên Chúa xuất hiện trên thế giới này người bị đặt trước một sự chọn lựa triệt để, qua cung cách sử dụng tiền của, người Kitô hữu phải chứng tỏ mình chỉ lệ thuộc vào một mình Thiên Chúa” (sđd, trg 218).

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Một trong những đoạn Tin Mừng bị hiểu sai nhiều nhất

(“Missel Emmaus des dimanches”, trg 1113):

Dụ ngôn người quản gia bất lương là một trong những đoạn Tin Mừng từng bị hiểu sai nhiều nhất: bao nhiêu người đã xem đây như bằng chứng Đức Giêsu cho phép làm điều bất lương! Trong khi lời tuyên bố sau cùng của Người rất rõ: “Người ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. Người xót xa cho nhân loại bị đảo điên vì “tiền bạc gian dối “. Giá như con người biết khao khát tìm kiếm những phước lộc thiêng liêng giống như khi họ mê mải làm giàu? Hoặc ít ra họ biết sử dụng tiền của để xây dựng một chút tình liên đới! Chẳng lẽ tất cả khí khôn loài người chỉ để phục vụ cho lòng tham của cải vật chất thôi sao?”.

2. Sống chia sẻ, một chứng tá của đức tin hơn là một lối sống.

(Mgr. L. Daloz, trong “Dieu a visité son Peuple”, Desclée de Brouwer, trg 123).

“Đức Giêsu dạy cho chúng ta một lối sống mới. Người chỉ cho chúng ta một cách sử dụng đồng tiền độc đáo: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè” và Người cắt nghĩa tại sao: “phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Vấn đề không chỉ đơn giản là một lời khuyên sống đạo đức. Vấn đề ở đây là phải biết cách sử dụng của cải trong tương quan vời cuộc sống vĩnh cửu. Gương người quản lý bất lương lén sửa lại các món nợ để tranh thủ thêm bạn hữu không nhằm khuyến khích một thái độ vụ lợi: chia sớt chút đỉnh tiền của để được vào thiên đàng. Qua chính điều Người nói, Đức Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng “con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”. Sự khôn khéo mà Người muốn dạy chúng ta không phải là một thứ tính toán bần tiện, nhưng là lời mời gọi phải sáng suốt phải thực sự là con cái ánh sáng. Đức Giêsu đề cập đến một thứ của cải đích thực “dành cho chúng ta”, đó là phụng sự Thiên Chúa: “không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ”. Sự giàu có thật vượt xa khỏi con người, nó ở nơi Thiên Chúa. Nếu chúng ta hiểu điều đó, chúng ta mới là con cái ánh sáng. Chúng ta phải tỏ ra thật khôn khéo, tỉnh táo để nhận ra những giá trị đích thực và sử dụng tiền của sao cho phù hợp với những giá trị đó. Sống chia sẻ không chỉ là một cách ăn ở tốt, nó còn là chứng tá của đức tin.

Đức Giêsu muốn đổi mới cách chúng ta quan niệm và sử dụng mọi sự đời này.

3. Phải cảnh giác trước tiền của

Người ta nói răng cho đến hôm nay, vị thánh được xem là gần gũi với gương mẫu Đức Giêsu nhất chính là Phanxicô Assisi, người đã kết duyên với Bà Chúa Nghèo. Và có thể nói tất cả sứ điệp của Đức Giêsu đều liên quan đến nhân đức Tin Mừng này. Nó nói nhiều về con người, tuy nhiên, có lẽ, nó cũng mạc khải cho biết về tấm lòng của Thiên Chúa. Hãy nhớ lại ý tương của cha Varinon: Khó nghèo, Khiêm hạ của Thiên Chúa.

Tôi chỉ xin lưu ý đến sự tương phản, hay đúng hơn là giằng co, khó dung hoà được trên cuộc đời này, giữa hai khía cạnh của ‘khó nghèo’.

- Dĩ nhiên, Luca là người có lý hơn cả khi viết trong Tám Mối Phúc: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” không thêm gì sau đó, và cái vế sau đáng sợ “khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có”. Đúng là có một cái gì đó để làm cho con người ra hư hỏng nơi lòng ham muốn có của, thích vơ vét, gom góp. Nước Trời không thể mở ra cho những ai không cưỡng nổi lòng ham muốn.

Nhưng Mátthêu đã bổ túc thêm bằng công thức rất quen thuộc: phúc thay ai, không phải có tinh thần, nhưng có tâm hồn nghèo khó. Nói cách khác: sửa đổi của Mátthêu có ý xác định hai điều. Trước hết, không bao giờ được phép biện minh cho sự nghèo nàn khốn cùng. Đó là điều xỉ nhục cho con người cũng như cho Thiên Chúa. Tiếp đến, phải coi chừng cách người ta tự nguyện khước từ của cải: động cơ thúc đẩy có thể là một thứ kiêu ngạo thầm kín. Madeleine Delbrêl đã thấy rõ điều đó khi tố giác một quan niệm lý tưởng hoá cái nghèo. Bà viết: “Nghèo không hẳn là điều hay”.

Không muốn đi sâu vào những vấn đề kinh tế, với vô số chuyện phức tạp, tôi chỉ xin nói đơn giản thế này: phải luôn luôn cảnh giác trước tiền của, ngay cả khi tiền của đó không nhiều, để tránh tình trạng bị nó sai khiến.

Tuy nhiên con người vẫn phải có vừa đủ để còn giữ được khả năng không bị tiền của sai khiến. Vẫn phải có một chút nào đó để có thể đi từ chỗ mình có đến chỗ mình là.

“Còn Đức Giêsu, vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã không dành địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho chúng ta trở nên giàu có”.

 

60. Chú giải của William Barclay

GƯƠNG TỐT CỦA NGƯỜI XẤU

Đây là một dụ ngôn rất khó cắt nghĩa. Câu chuyện bao gồm những tên lưu manh mà người ta có thể gặp ở bất cứ nơi đâu. Tên quản gia này là một tên lưu manh. Hắn vốn là một nô lệ, tuy vậy hắn được giao trách nhiệm điều hành gia sản của chủ. Tại Palestine có nhiều địa chủ hay đi vắng, nên tất cả công việc của ông ta được trao trong tay người quản gia của ông. Tên quản gia trong câu chuyện này đã ăn cắp khéo léo. Các con nợ cũng là những tên lưu manh. Chắc chắn món nợ của họ là tiền thuế đất. Thuế đất ở Palestine thường được trả cho chủ đất không bằng tiền mà là hiện vật, thường là một phần hoa lợi của đám đất cho thuê. Quản gia này biết rằng hắn sẽ mất chức quản gia, vì thế nảy ra một sáng kiến. Hắn ghi sổ một cách gian lận để các con nợ được trả ít hơn cho chủ. Điều này có hai công hiệu. Thứ nhất, các con nợ sẽ phải mang ơn hắn. Thứ hai, còn có hiệu lực hơn, là hắn làm cho con nợ cũng liên luỵ về hành động gian dối của hắn, và nếu lâm vào tình trạng bế tắc thì hắn ở vào một thế mạnh để thực hiện những vụ tống tiền. Chính chủ hắn cũng là một thứ lưu manh nữa, bởi vì, thay vì khó chịu về hành động này, ông ta lại khen nó thông minh. Điều khó giải thích dụ ngôn này là bởi Luca đã gồm vào đó bốn bài học khác nhau.

1. Câu 8 là bài học con cái ở đời này tỏ ra khôn khéo với đời hơn con cái sự sáng. Điều đó có nghĩa là nếu các Kitô hữu cũng hăng hái khéo léo trên đường hành đạo như người đời khéo tìm của cải tiền bạc thì tốt biết bao. Nếu người ta chú tâm đến linh hồn cũng như việc buôn bán làm ăn thì họ đã tốt hơn nhiều. Nhưng thực ra người ta luôn luôn đổ nhiều thì giờ, tiền bạc, công sức vào những lạc thú, vui chơi đời này gấp 20 lần hơn vào các công việc Hội Thánh của mình. Đạo của chúng ta chỉ trở thành thực tại và hữu hiệu khi nào chúng ta đầu tư vào đó nhiều thì giờ, sức lực như vào các việc thế tục.

2. Câu 9 là bài học của cải vật chất nên dùng để giữ tình bạn. Điều này có thể làm trong hai cách:

a. Làm việc đó cho đời sau. Các rapbi Do Thái có câu “kẻ giầu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng kẻ nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Khi chú giải chuyện người giầu ngu dại xây kho lẫm lớn hơn để tích của. Ambrose có nói: “Lòng của người nghèo, nhà của bà goá, miệng của trẻ nhỏ là những kho vựa còn mãi đời đời”. Người Do Thái tin rằng của bố thì cho người nghèo được ghi vào trương mục đời sau của kẻ cho. Sự giầu có thật của con người không tuỳ những gì mình nắm giữ, nhưng ở những gì mình cho đi.

b. Làm việc đó cho đời này. Người ta có thể dùng của cải một cách ích kỷ, hoặc có thể dùng để giúp cho đời sống dễ chịu hơn, không những cho chính mình, mà còn cho bạn bè và những người chung quanh mình nữa. Biết bao nhà học giả đời đời mang ơn một người nào đó đã dùng tiền bạc mình để giúp học bổng cho mình theo đuổi việc học. Biết bao người đã mang ơn một người bạn giàu có đã tài trợ cho họ trong cơn túng cực một cách thực tế. Tự bản chất, của cải không phải là tội lỗi nhưng đòi trách nhiệm thực hiện chức năng của nó và người nào dùng của cải để giúp đỡ tha nhân túng cực, kẻ ấy đã làm trong trách nhiệm của mình.

3. Câu 10,11 là bài học về cách thi hành việc nhỏ, qua đó, sẽ chứng tỏ người đó có xứng đáng hay không xứng đáng để trao phó những việc lớn. Điều này đúng trong các việc đời này, không ai được cất nhắc lên vị trí cao hơn nếu lúc ở địa vị thấp, người đó đã không chứng tỏ được khả năng và lòng ngay thẳng. Nhưng Chúa Giêsu đã áp dụng nguyên tắc đó vào đời sau. Ngài phán “ở thế gian các ngươi chịu trách nhiệm về những của cải không thực sự thuộc về mình. Các ngươi không thể mang theho mình những của cải đó khi chết. Những của cải đó chỉ cho các ngươi vay mượn. Các ngươi là người quản lý của đó, vì theo bản chất, những của đó không là của các ngươi vĩnh viễn. Nhưng trái lại, ở trên trời, các ngươi sẽ được những của cải thuộc về các ngươi một cách thiết thực, vĩnh viễn và bất di dịch. Những của mà các ngươi sẽ được trên trời lại tuỳ theo cách các ngươi dùng của cải dưới đất. Của cải mà các ngươi sẽ được làm tài sản riêng tuỳ ở cách các ngươi sử dụng những của cải mà các ngươi chỉ làm quản lý”.

4. Câu 13 đặt ra luật: không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ. Chủ chiếm hữu nô lệ cách tuyệt đối. Ngày nay thì đầy tớ hay công nhân có thể làm hai công việc một cách dễ dàng, và có thể làm việc cho hai chủ. Anh ta có thể đảm nhận một công tác trong giờ bình thường và một công tác khác trong giờ rảnh rỗi. Tỉ dụ có người làm thư ký ban ngày và làm ca sĩ vào ban tối. Nhiều người làm thêm để kiếm tiền hay làm theo sở thích trong những giờ tự do. Thế nhưng một nô lệ không có giờ tự do, mọi giây phút trong ngày, tất cả sức lực của anh ta thuộc về chủ. Anh ta không có thì giờ riêng nào. Cũng vậy, phục vụ Chúa không thể nào là một công việc bán thời gian hay công việc của giờ rảnh rỗi. Ai đã chọn phục vụ Chúa thì tất cả thì giờ, tất cả sức lực của người ấy đều thuộc về Chúa trọn vẹn. Chúa là chủ tuyệt đối trên mọi người chủ, chúng ta hoặc thuộc trọn vẹn về Chúa hay không thuộc về Ngài chút nào.

home Mục lục Lưu trữ