Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 64

Tổng truy cập: 1377665

TẠI HỘI ĐƯỜNG CAPHANAUM

TẠI HỘI ĐƯỜNG CAPHANAUM- Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

Bài Tin Mừng tuần trước đã kể cho chúng ta sự kiện Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Các ông sẽ là những người chứng kiến các hoạt động của Người ngay từ đầu. Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,21-18) giới thiệu hoạt động đầu tiên của Chúa Giêsu mà các ông được chứng kiến: Chúa Giêsu giảng dạy tại Caphácnaum và chữa lành người bị quỷ ám.

“Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Caphácnaum. Ngay ngày sabát, Người vào hội đường giảng dạy” (c.21). Ngay từ đầu sứ vụ tại Galilê, giảng dạy đã là một trong những hoạt động chính yếu của Chúa Giêsu. Chính Người sẽ xác nhận cách tỏ tường điều này khi quân dữ tra tay bắt Người: “Ngày ngày tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy…” (14,49). Tác giả Mc rất chú tâm đến hoạt động giảng dạy của Chúa Giêsu. Nhưng, cũng như ở nhiều nơi khác (ví dụ 2,13; 6,2.6.34; 10,1), ở đây ông chỉ kể rằng Chúa Giêsu giảng dạy chứ không nói gì về nội dung của lời giảng dạy. Có lẽ đối với ông, điều đáng quan tâm nhất phải là chính Thầy Giêsu, hơn là điều Người giảng dạy.

Một nét đặc trưng của hoạt động giảng dạy của Chúa Giêsu là hiệu quả lời giảng dạy của Người. Hiệu quả đó được trình bày qua việc kể lại trải nghiệm của những người nghe giảng: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người” (c.22a). Họ bị đánh động sâu xa và rất ngạc nhiên. Tất cả những tiêu chí cổ điển để đánh giá lời giảng đều không còn giá trị nữa. Có một cái gì đó thực sự mới mẻ đã xuất hiện, gây nên một sự sửng sốt trong đám đông dân chúng. Nói cách khác, những lời giảng dạy của Chúa Giêsu có sức mạnh đặc biệt, giống như những hành động quyền năng của Người. Cuối bài Tin Mừng, tác giả sẽ nói rõ hơn về phản ứng của dân chúng: “Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (cc.27-28).

Sở dĩ đám đông dân chúng sửng sốt, là vì “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (c.22b). Các kinh sư là những người hiểu biết Thánh Kinh, nhất là Tôra. Họ giải thích Thánh Kinh cho dân chúng. Họ chỉ cho dân chúng thấy cần phải làm gì để thi hành thánh ý của Thiên Chúa. Bản văn Mc 1,22 này không có bất cứ yếu tố nào cho phép chúng ta đánh giá tiêu cực về hoạt động giảng dạy của các kinh sư. Nhưng đồng thời, tác giả Mc muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng dân chúng đã mau chóng nhận ra rằng lời giảng dạy của Chúa Giêsu thì hoàn toànb khác với lời giảng dạy của các kinh sư. Lời giảng dạy của Người có một thẩm quyền đặc biệt, khác hẳn. Sau này, chính sự khác biệt hoàn toàn này sẽ gây nên những phản ứng tiêu cực nơi các kinh sư: họ sẽ vu cáo rằng Chúa Giêsu nói phạm thượng (2,7), rằng Người liên minh với quỷ vương (3,22), rằng Người đáng bị kết án tử hình (14,53-65).

Cùng với việc giảng dạy, Chúa Giêsu còn thể hiện uy quyền của Người bằng cách trừ quỷ. Khi ấy, “trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta” (cc.23-26).

Trừ quỷ là một trong những hoạt động của Chúa Giêsu mà tác giả Mc ưa thích kể lại nhất, ví dụ trong 1,23-27.34.39; 3,11-12; 5,1-20; 9,14-29. Ở đây, quỷ được gọi là “thần ô uế”. Chữ “thần” ở đây có ý nói đến một sức mạnh đầy quyền năng, hoạt động, và rất khó kiểm soát. Chữ “ô uế”, trong ngôn ngữ Thánh Kinh, chỉ về thực tại xấu xa, phàm tục, khác hẳn thực tại của Thiên Chúa, đối nghịch hoàn toàn với Thiên Chúa. Trong sách Tin Mừng, thần ô uế xuất hiện như một sức mạnh không phải của con người, nhưng hành động một cách cá vị, có hiểu biết đặc biệt, hoàn toàn đối nghịch với Thiên Chúa, khống chế nhiều người và buộc họ phải làm những điều xấu xa… Thần ô uế rõ ràng là sức mạnh hoàn toàn đối nghịch với Thần Khí của Thiên Chúa. Nó cũng là sức mạnh thù nghịch với con người, phá hoại sự tự do hành động của con người.

Chúa Giêsu được khắc họa trong tư thế có quyền siêu việt tuyệt đối trên thần ô uế. Người quát mắng nó. Và chỉ bằng một lời quát mắng như thế, Người đã chiến thắng nó. Người giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ thần ô uế, trả lại cho họ sự tự do.

Trước khi bị trục xuất, thần ô uế đã kêu lớn tiếng với Chúa Giêsu: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”. Lời này nói về sứ mạng và căn tính của Chúa Giêsu. Nó cho thấy Chúa Giêsu có mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Người được Thiên Chúa sai đến. Người đến để tiêu diệt quyền lực ma quỷ. Sau này, Người sẽ nói rõ ràng hơn: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (2,17); “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (10,45).

Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay khắc họa cho chúng ta những đường nét chính yếu trong hoạt động của Chúa Giêsu:

(1) Ngay từ đầu, Người không hoạt động đơn độc, nhưng là trước sự hiện diện và chứng kiến của các môn đệ mà Người đã kêu gọi; họ đã bỏ mọi sự mà theo Người và Người cho họ được đồng hành với Người trong hoạt động cứu độ của Người.

(2) Người giảng dạy. Đây là một hoạt động chính yếu của Người ngay từ đầu.

(3) Người giảng dạy theo một cách thức hoàn toàn khác với các kinh sư Do Thái đương thời.

(4) Người trừ quỷ, tức là thực hiện những hành động quyền năng để giải thoát con người khỏi tình trạng nô lệ những thế lực gian ác.

(5) Người hoạt động trong một mối tương quan đặc biệt với Thiên Chúa: Người là Đấng Thánh của Thiên Chúa.

(6) Người giảng dạy và hành động như một Đấng có thẩm quyền đặc biệt.

Chúa Giêsu vẫn đang hoạt động như thế giữa thế giới hôm nay, nhờ Hội Thánh. Sứ vụ của Người được tiếp nối bởi Hội Thánh. Và Hội Thánh được mời gọi hành động như Chúa đã hành động. Chúng ta được mời gọi ý thức về điều đó, để cầu nguyện cho Hội Thánh và để sống xứng đáng với sứ vụ cao cả của Hội Thánh.

 CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- Năm B

CHÂN TƯỚNG CỦA ĐỨC GIÊSU- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Người đồng thời với Đức Giêsu chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy vì Đức Giêsu là một người như bất cứ ai khác, Ngài là người hoàn toàn đến độ một người bình thường như thế nào thì Ngài cũng như vậy. Ngài nghèo như bất cứ người nghèo nào. Không ai biết Ngài, Ngài vô danh như bất cứ ai khác. Lời tựa trong tin mừng theo thánh Yoan gọi Ngài là Lời Thiên Chúa, Lời đã thành xác phàm.

Đức Giêsu là một ngôn sứ đối với người đương thời

Ngôn sứ là người Thiên Chúa dùng để nói với dân về ý định của Ngài, chuyển thông cho dân những gì Thiên Chúa muốn. Một vị ngôn sứ không nhất thiết phải là người biết trước những biến cố sẽ xảy ra ở tương lai. Dân Do Thái tin rằng Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ “lớn” như Môsê. Vì thế nên khi Đức Giêsu làm những dấu lạ cả thể, thì người đương thời đã coi Ngài là một ngôn sứ.

Khi một ký lục giảng dạy, ông ta tựa vào Lời Chúa để dạy dân chúng. Uy quyền của lời giảng dạy của ký lục, không đến từ họ nhưng đến từ uy quyền Lời Chúa. Đức Giêsu giảng dạy không giống như các ký lục, Ngài giảng dạy như người có uy quyền. Không chỉ là người có uy quyền qua giảng dạy, Đức Giêsu còn đuổi được quỷ qua lời truyền phán của Ngài. Đức Giêsu là ai mà có thể làm những điều này. Hành vi của Đức Giêsu làm dân chúng đặt câu hỏi về chân tính của Ngài.

Một ngôn sứ xuất hiện, là dấu chỉ Thiên Chúa đang ở với dân. Thiên Chúa đang thực hiện việc kỳ diệu qua vị ngôn sứ. Khi dân chúng nhận ra Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là một ngôn sứ, thì họ nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với họ. Thiên Chúa đang quan tâm và yêu thương họ.

Hơn một vị ngôn sứ

Đức Giêsu không chỉ là một ngôn sứ (tiên tri), nhưng Ngài còn là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân Ngài. Dân chúng thời Đức Giêsu đang ao ước thoát ách đô hộ của người Roma, nên họ mong chờ Thiên Chúa sai đến một vị cứu tinh giải thoát họ khỏi cảnh áp bức chính trị này. Đức Giêsu ý thức Ngài không phải là vị Kitô chính trị, nên Ngài đã cấm các tông đồ nói cho người ta biết Ngài là Kitô (Mt.16, 20).

Cái chết trên thập giá của Đức Giêsu làm cho dân chúng và các tông đồ như bừng tỉnh. Đức Giêsu không là Đấng Kitô như họ nghĩ. Các tư tế, kỳ lão và biệt phái nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như bất kỳ ai khác, nên khi Ngài chết là họ tưởng rằng họ đã giải quyết được một bận tâm tranh chấp ảnh hưởng. Đức Giêsu sống lại, là một điều gì hoàn toàn mới. Không ai có thể nghĩ rằng Ngài sẽ sống lại. Ngay cả các tông đồ cũng không dám tin Ngài sống lại, cho dù Ngài đã báo trước vài lần, vì thế nên các ngài mới hoảng loạn sợ hãi, và hai môn đệ trên đường Emmau là hai người đã bỏ cuộc về quê vì thất vọng.

Đức Giêsu sống lại và truyền trao sứ mạng cho các tông đồ, làm các tông đồ và những người tin vào lời rao giảng của các tông đồ, suy nghĩ và hiểu biết hơn về Đức Giêsu. Đức Giêsu vẫn đang sống, cho dù bây giờ Ngài vượt khỏi tầm kiểm soát của con người, của những thế lực thù ghét Ngài cũng như cả của những người yêu mến Ngài. Ngài là ai? Đây là một câu hỏi luôn theo sát những người yêu mến Ngài, và cả những kẻ không thích Ngài. Ngay khi Ngài còn sống, Đức Giêsu đã biết người ta nói Ngài là ai, và cũng chính Ngài đã hỏi các tông đồ Ngài là ai, nhưng dường như những câu trả lời đó chưa đủ (Mt.16, 13-16).

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng cả với câu trả lời này, người ta cũng có thể hiểu Đức Giêsu chỉ là một người đặc biệt thôi, vì nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn như những người được Thiên Chúa chọn, được Thiên Chúa yêu thương (Xh.4, 22; Hs.2, 1; Tv.82, 6). Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, theo nghĩa là Ngài Con “đồng bản tính” với Thiên Chúa, được xác định sau này bởi công đồng Nicea (325).

Đức Giêsu là ai? Đối với các tông đồ, Ngài là người rất đặc biệt, luôn kết hợp với Thiên Chúa, đến độ lấy ý Thiên Chúa là lương thực cho mình (Ga.4, 34), là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa (Mt.17, 5). Ngài là Đấng “ngự bên hữu” Thiên Chúa (Mc.16, 19). Nhưng tất cả những “từ ngữ” ấy nghĩa là gì? Ngay cả từ ngữ “đồng bản tính” với Thiên Chúa có nghĩa là gì khi đức tin Kitô giáo dạy chúng ta Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Dnl.6, 4).

Đức Giêsu là một người như bất kỳ ai khác, Ngài bị cám dỗ, Ngài biết đói biết khát, Ngài cũng bị cám dỗ về danh lợi ở trong hoang địa, Ngài cũng bị cám dỗ “mất lòng tin vào Thiên Chúa” khi ở trên thập giá: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con;” nhưng Đức Giêsu còn hơn là một con người nữa, Ngài là một tiên tri, và hơn một tiên tri vì Yoan Tẩy Giả không đáng cởi dây giầy cho Ngài; Ngài là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu con người. Và còn hơn thế nữa, Giáo Hội dạy rằng Ngài là Con Thiên Chúa, Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài có trước khi Ngài được sinh ra bởi Đức Maria. Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài khác biệt với Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài lại là một với Thiên Chúa Cha. Ngôi Hai Thiên Chúa cũng là một từ ngữ các nhà thần học dùng để diễn đạt chân tướng của Ngài. Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, và người ta đã dùng nhiều từ ngữ để diễn đạt về Ngài, về chân tướng của Ngài, về mầu nhiệm Giêsu.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

Bạn hiểu thế nào về từ ngữ diễn tả Thiên Chúa “Một Thiên Chúa Ba Ngôi”?

Đức Giêsu là ai đối với bạn? Ngài ảnh hưởng trên đời bạn như thế nào?

home Mục lục Lưu trữ