Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 62

Tổng truy cập: 1379796

TẤM BÁNH ĐƯỢC BẺ RA

Tấm bánh được bẻ ra – Văn Hào.

Chúa Nhật tuần trước, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành giàu lòng yêu thương con người đã nhân bánh và cá lên gấp ngàn lần để cho 5000 người ăn no nê. Phép lạ đã xảy ra. Nhưng chắc chắn Đức Giêsu không phải là một kinh tế gia, cũng không phải là một chuyên viên đi làm công tác từ thiện xã hội, hoặc xóa đói giảm nghèo. Phép lạ Đức Giêsu thực hiện là một dấu chỉ khải thị một chân lý sâu xa hơn. Ngài chính là tấm bánh được bẻ ra để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Đức Giêsu không đóng vai một nhà từ thiện giầu hảo tâm, giúp con người vượt qua cái đói vật chất. Ngài chính là Đấng Cứu Độ, là Bánh Trường Sinh, Đấng đến trần gian để cho chúng ta được sống. Đó chính là nội dung bài diễn từ về bánh mà Thánh Gioan trình bày cho chúng ta trong chương 6, bắt đầu từ Chúa Nhật hôm nay.

  1. Tấm bánh thần thiêng

Năm 1868, một cô gái người Bỉ yếu ớt được in năm dấu thánh. Cô ta tên là Louis Lateau. Từ đó trở đi, cô không còn có thể ăn uống được nữa. Trong bảy năm trời, cô ta sống nhờ lương thực duy nhất là rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày. Trường hợp tương tự cũng xảy ra với chị Têrêsa Newman và cô Matta Robin, người Sáng lập Tu hội Bác Ái. Những điều kỳ diệu đó phần nào chứng minh cho lời Chúa nói hôm nay: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát nhưng để có lương thực mang lại sự sống trường sinh, là lương thực mà Con Người sẽ ban cho các ngươi.” (Ga 6, 27). Thế, lương thực Chúa nói đây là lương thực gì?

Chúa Giêsu đã công bố: “Tôi là Bánh Trường Sinh”. Để có tấm bánh, dù là bánh bột mì hay bột gạo, trước hết phải có hạt. Hạt được gieo trồng trong ruộng, rồi phải có người tưới nước, làm cỏ, bón phân. Hạt lúa cần ánh nắng để được chín vàng. Kế đến phải có người gặt, đem về xay thành bột. Bột được nhào, nặn thành bánh và bánh phải được nung chín trong lò. Đức Giêsu, tấm bánh được Thiên Chúa ban tặng, cũng trải qua những công đoạn tương tự như thế. Ngài đã được cấy vào mảnh ruộng trần gian, nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Ngài cũng đã được lớn lên trong ánh nắng mặt trời vùng quê Nazareth, đã vươn lên giữa đám cỏ lùng trong thửa ruộng dương gian. Ngài đã trưởng thành, đã chín vàng dưới ánh nắng kỳ diệu của Thần Khí. Sau cùng, Ngài đã được gặt hái, bị nghiền nát phơi thây trên Thập Giá, và được nung chín trong cuộc khổ nạn. Ngài đã trở nên một Tấm Bánh, được bẻ ra và hiến trao cho nhân loại. Tấm bánh Giêsu được hiến tặng cho ta chính là tấm bánh được nướng chín trong mầu nhiệm Thập Giá, nơi kết tụ đỉnh cao của Tình yêu mà Thiên Chúa đã tỏ bày.

Văn hào Fortry đã viết: “Dầu bầu trời có tối đen đến mấy đi nữa, thì Thánh Giá vẫn là dấu hiệu cao cả nhất và tuyệt vời nhất của tình yêu”. Cha Thánh Gioan Maria Vianney cũng diễn tả một xác tín tương tự: “Chúng ta phải đeo bám vào Thập Giá Chúa như một kẻ hà tiện bám víu vào tiền bạc, vì Thánh Giá là chóp đỉnh của tình yêu, là lương thực trường sinh, là nguồn mạch cứu độ”.

Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào tôi sẽ được sống đời đời”. Tin vào Đức Giêsu, Đấng bị phân thây trên Thập Giá, chính là tiếp nhận Ngài, mở lòng ra để “ăn” Ngài, vì Ngài chính là tấm bánh cứu độ được bẻ ra và được phân phát nhưng không cho tất cả mọi người.

Muốn trở nên lương thực nuôi sống con người, tấm bánh phải được nghiền nát và bị phân hủy để đi vào thịt máu, đem lại cho chúng ta sự sống. Đây là định luật về Bánh, đã được chính Đức Giêsu biểu tỏ qua cái chết của Ngài trên Thập Giá. Định luật đó cũng được Chúa Giêsu chuyển giao để chúng ta sống và thực hành: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày theo tôi”.

  1. Sống định luật về bánh.

Văn hào Leon Tolstoi viết một tiểu thuyết ngắn với tựa đề: “Con người chúng ra sống bằng gì?” Tác giả nêu ra câu hỏi và trả lời ngay sau đó “Con người chúng ta sống bằng tình yêu”. Tần Thủy Hoàng ngày xưa đã cho nhiều người tài giỏi đi khắp nơi lùng sục những thang thuốc quý, hay những lương thực cao lương mỹ vị để được sống mãi. Nhưng ông ta đã chết, cũng như tất cả mọi người khác. Dùng đồ ăn thức uống hằng ngày cũng chỉ có thể vỗ béo và tẩm bổ thân xác hầu kéo dài thêm thời gian sống, nhưng cuối cùng ai ai cũng phải chết. Trái lại, sống bằng tình yêu, con người sẽ không bao giờ chết. Thánh Gioan trong thơ thứ nhất, đã định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, nên những ai đi vào quỹ đạo tình yêu với Thiên Chúa và sống sung mãn huyền nhiệm yêu thương, người đó không bao giờ chết. Điều đó, chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay: “Tôi là bánh đem lại sự sống cho trần gian (Ga 6, 33-35). Ai ăn bánh này sẽ không còn đói.. Ai tin tôi sẽ được sống đời đời”. Định luật về bánh phản chiếu qua mầu nhiệm Thập Giá luôn hàm ngậm một nghịch lý. Hạt lúa được gieo vào lòng đất phải thối đi mới có thể nảy mầm và đơm bông kết trái. Tấm bánh phải được nhai nát, được tiêu hủy trong dạ dày mới có thể chuyển hóa thành máu và thịt. Cũng vậy, chúng ta phải đi qua cái chết mới đến được sự sống, phải đi qua Thập Giá mới có thể đón nhận vinh quang. Per Crucem ad Lucem. Per angusta ad augusta.

Con đường theo Đức Kitô, tấm bánh được bẻ ra, không phải là con đường thẳng tắp và phẳng lặng. Lối bước Thập Giá không phải là nẻo đường được đan kết bằng những bông hoa và nụ cười. Đó chính là con đường gập ghềnh đầy sỏi đá gai chông, là con đường đưa dẫn đến núi sọ và huyệt đá, hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy để cùng chịu đóng đanh và cùng chết với Chúa Giêsu. (Mt 16, 24-25). Muốn trở thành môn đệ Ngài, chúng ta cũng phải trở nên tấm bánh được nghiền nát, được bẻ ra để phân chia cho mọi người.

  1. Ví dụ cụ thể.

Một ngày cuối năm 1965, trên một chuyến bay từ Rôma đến Mỹ mang theo một số Giám Mục tham dự công đồng Vaticanô II trở về, có một tiếp viên hàng không khá xinh đẹp. Cô ta ân cần phục vụ hành khách, nhưng hôm đó cô tỏ vẻ hơi khó chịu vì có một cặp mắt cứ nhìn cô đăm đăm mỗi khi cô xuất hiện. Cô khá bực mình và cũng hơi bối rối, vì đó lại là cặp mắt của một vị Giám Mục đáng kính và khá nổi tiếng lúc bấy giờ: Đức Cha Fulton Sheen. Khi phi cơ đáp xuống, Đức Cha là người sau cùng rời máy bay. Ngài tiến lại gần cô tiếp viên và nói: “Thưa cô, cô rất xinh đẹp. Cô hãy cám ơn Chúa vì đã ban cho cô sắc đẹp tuyệt vời như thế”. Vị Giám Mục nói rất đứng đắn và trang nhã, nhưng cũng đầy trìu mến. Chỉ vài ngày sau, có tiếng gõ cửa tại văn phòng của Đức Cha ở New York. Người đến gặp Đức Cha không ai khác, mà chính là cô tiếp viên hôm nọ. Cô vào đề ngay: “Thưa Cha, con phải làm gì để cám ơn Chúa đã ban tặng cho con sắc đẹp?” Thay vì trả lời, Đức Cha hỏi lại cô: “Cô có bao giờ nghe nói về trại phong Di Linh ở Việt Nam chưa?” Cô trả lời rằng cô có biết qua báo chí. Đức Cha nói tiếp “Những người cùi ở đó cũng xinh đẹp lắm. Chúa Giêsu đang hiện thân nơi họ. Nếu cô muốn cám ơn Chúa, cô hãy sang Việt Nam và phục vụ họ như Chúa Giêsu đã yêu thương và phục vụ chúng ta”.

Cô tiếp viên xinh đẹp đó đã bay sang Việt Nam và sau đó trở thành nữ tu. Châm ngôn sống của cô là “Tôi cũng phải trở nên như một tấm bánh được bẻ ra để trao ban tình thương của Chúa Giêsu cho những người cùng khổ.”

Kết luận: Xin được tóm kết với bài thơ ngắn của thi sĩ Thagor: “Tôi đã nài xin Chúa cất khỏi tôi sự kiêu hãnh. Chúa trả lời rằng không. Chính tôi là người phải phấn đấu để vượt thắng. Tôi đã nài xin Chúa cho đứa con tật nguyền của tôi được lành lặn. Chúa nói không. Tinh thần mới cần lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ. Tôi đã nài xin Chúa cho tôi được hạnh phúc. Ngài cũng nói không. Ơn Ta thì luôn đủ cho con, hạnh phúc con phải tìm lấy. Và cuối cùng tôi xin Chúa ban cho tôi một quả tim để biết yêu thương. Chúa nói rằng đây là lời cầu nguyện Ta vẫn hằng mong chờ. Ta sẽ ban cho con một trái tim biết rung lên những nhịp đập yêu thương để con trở nên như một tấm bánh được bẻ ra, được nhai nát và góp phần đem lại sự sống cho mọi người”.

 

8. Bánh Hằng Sống

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)

Trong bài Tin Mừng của ngày Chúa Nhật vừa qua chúng ta đã nghe tường thuật lại việc Đức Giêsu khi thấy dân chúng lũ lượt tuôn đến với Người và Người đã động lòng thương họ. Người đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi họ. Vì thế dân chúng đã đi tìm Người để theo Người, như thánh sử Gioan đã tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay.

Thật vậy, con người dù sống trong thời đại nào đi nữa cũng đều là con người và đều giống nhau: Là luôn tìm mọi cách để được no đủ và để thỏa mãn được những nhu cầu thể xác của mình. Trong cuộc sống hằng ngày của một gia đình hay của một quốc gia vấn đề kinh tế và tài chính luôn luôn đóng một vai trò rất quan trọng có tính cách quyết định. Bởi vậy, tất cả mọi vấn đề, mọi kế hoạch hay mọi lo toan tính toán của một gia đình hay của một quốc gia đều tùy thuộc vào tình trạng kinh tế hay tình trạng ngân sách của gia đình cũng như của quốc gia đó. Các vấn đề có được giải quyết hay không, phần lớn đều lệ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của đương sự.

Cả trong tôn giáo tình trạng kinh tế cũng có một ảnh huởng rất to lớn. Mọi hoạt động và mọi phương tiện thực hành đạo và sống đạo đều cần đến tài chính. Không có tiền bạc, mọi chuyện sẽ dậm chân tại chỗ hay ít ra sẽ bị giới hạn rất nhiều. Cũng như ngày xưa, động lực đã thúc đẩy người ta đến cùng Đức Giêsu và tuôn đi tìm kiếm Người là vì Người đã cho họ ăn no nê. Đúng là “miếng trầu là đầu chuyện” hay “Có thực mới vực được đạo”!

Nói một cách thành thật, tâm trạng đó vẫn không thay đổi cả trong thời đại của chúng ta ngày nay. Vâng, nếu người ta nghèo hay gặp phải cơn túng quẫn, người ta sẽ sống đạo sốt sắng hơn, sẽ chăm chỉ kinh nguyện hơn, sẽ siêng năng đi nhà thờ xem lễ đọc kinh hơn! Trái lại khi sống trong giàu sang phồn thịnh, người ta sẽ dễ lơ là với vấn đề tôn giáo, sẽ coi đời sống tôn giáo là việc thứ yếu hay chỉ là việc làm trong khi rảnh rỗi. Vì theo tâm lý của những người giàu có là họ cảm thấy cuộc sống của mình đầy đủ rồi, mọi sự đã được đảm bảo rồi, nên không cần phải nhờ cậy ai nữa, không cần phải nhờ cậy đến Thiên Chúa nữa, không cần phải cầu nguyện nữa.

Nhưng đó là cả một sự lầm lẫn nguy hiểm! Bởi vậy, Đức Giêsu đã quá thất vọng nói với các thính giả của Người: “Các ngươi tìm Ta vì các ngươi đã được ăn bánh no nê”. Tiếp đến, Người còn thêm: “Các ngươi hãy ra công tìm kiếm không phải vì thứ lương thực mau hư nát, nhưng là thứ lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ngươi”. Và thứ lương thực trường tồn và có thể đưa lại hạnh phúc vĩnh cửu cho con người, chính là Người: “Ta là bánh hằng sống!”

Đúng vậy, tôn giáo không phải là một loại ý thức hệ thuộc lãnh vực thứ yếu hay chỉ là một chuyện làm trong khi nhàn rỗi mà thôi. Tôn giáo cũng không phải là “thuốc phiện mê dân”, chỉ có giá trị qua thời, cốt giúp cho con người tạm quên đi những đau khổ hiện tại, hay chỉ dùng để an ủi vuốt ve con người đang trong cơn túng quẫn, nghèo khổ.

Không, đức Giêsu đã nói: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Ai theo Ta sẽ không phải chết, và ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ được sống lại”. Thiên Chúa Giáo không phải là một thứ phương tiện để tạm an ủi và thoa dịu nổi khổ đời này, nhưng là chân lý dẫn đưa con người tới sự cứu rỗi đời đời.

Tuy nhiên, một điều chắc chắn là con người vẫn hoàn toàn được tự do để đến cùng Thiên Chúa, nguồn cứu rỗi vĩnh cửu, hay không! Thiên Chúa không bao giờ bó buộc ai cả. Nhưng một điều khác cũng rất chắc chắn là qua phương tiện kinh tế và tiền bạc vật chất mà thôi, con người sẽ không thể tìm được lối thoát sau cùng cho những vấn đề nan giải của cuộc sống, và, cũng không thể làm thỏa mãn hoàn toàn được những băn khoăn khắc khoải của mình bằng “cơm bánh” mà thôi. Bởi vì người Đức cũng đã có câu châm ngôn rất sâu sắc và rất thực tế: “Viel Geld heisst nich viel Gluck: Nhiều tiền không có nghĩa là nhiều hạnh phúc”.

Như vậy, chúng ta đã thấy rằng con đường duy nhất dẫn chúng ta tới hạnh phúc chân thật chính là lối đi đưa chúng ta về với Thiên Chúa, vì người chính là “Bánh hằng sống”. Dĩ nhiên, lối đi đó cũng đòi nơi chúng ta sự sẵn sàng nội tâm tự nguyện, sự đổi mới và cải thiện đời sống nội tâm. Chúng ta hãy cố gắng bước đi trên con đường đó, hãy cố gắng mỗi ngày bước đi trên con đường đó, vì nó là con đường cứu rỗi!

 

9. Bánh hằng sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Lịch sử ơn cứu độ là một tiến trình dài cả mấy ngàn năm liên quan đến một dân tộc đã được chọn lựa. Dân tộc này được Thiên Chúa yêu thương và hướng dẫn cách đặc biệt. Thiên Chúa chọn các tổ phụ là Abraham, Isaac và Giacob để rồi sinh xôi ra một dân tộc đông đúc, gọi là dân Do-thái. Lịch sử của dân tộc này cũng là lịch sử của ơn cứu độ. Diễn tiến cuộc sống thăng trầm của dân riêng là một qúa trình thanh luyện, thử thách và tôi luyện ròng rã để đón nhận Đấng Cứu Thế. Tuy được Thiên Chúa chở che và bảo vệ, dân chúng thường lại muốn vượt rào và chạy theo cách sống của ngoại lai. Thiên Chúa đã nhiều lần thiết lập giao ước với dân để giữ mối giao hảo thủy chung. Thực tế, dân chúng lại cứ chứng nào tật đó và ngựa theo đường cũ từ bỏ đường lối Chúa chạy theo thói đời.

Gặp nạn đói kém, các con cháu của Giacob di dân đến đất Ai-cập. Dân Do-thái sinh sống tại đất nước này khoảng 430 năm, 12 người con của ông Jacob trở thành các ông tổ của mười hai chi tộc dân Israel. Con cái cháu chắt nhiều đời đã sinh xôi nẩy nở trở thành một dân lớn mạnh. Khi Môisen dẫn dân ra khỏi Ai-cập: Con cái Israel nhổ trại rời Ram-xết đi Xúc-cốt, có khoảng sáu trăm ngàn bộ hành, chỉ kể đàn ông không kể trẻ con. Cả một đám đông hỗn tạp cùng lên với họ, mang theo chiên cừu, bò dê, họp thành một đàn súc vật đông đảo (Xh 12, 37-38). Qua câu truyện Xuất Hành của người Do-thái, chúng ta không thể hiểu và tưởng tượng được việc Chúa đã làm cho dân riêng. Lữ hành trong sa mạc, cả triệu người này lấy gì mà ăn uống, lấy gì mà mặc và rồi các sinh hoạt cá nhân, gia đình và cộng đồng… Họ trở thành dân du mục sống 40 năm tạm cư tại nhiều nơi trước khi vào miền Đất Hứa.

Sách Dân Số ghi nhận số người của từng chi tộc khi ra khỏi đất Ai-cập. Tại sa mạc Sinai, theo lệnh truyền của Thiên Chúa,ông Môisen kiểm tra dân số:Tất cả con cái Israel đã được kiểm tra theo gia tộc của họ, từ hai mươi tuổi trở lên, tất cả các chiến binh trong dân Israel,tổng số người được kiểm tra, là 603.550 (Ds 1, 45-46). Chúng ta thử tínhtrên 600 ngàn chiến binh cộng thêm các phụ nữ và con trẻ nữa, phải có trên một triệu người vượt Ai-cập. Cuộc sống văn minh tiến bộ với nhiều phương tiện như hiện nay, con số trên một triệu người di dân qủa là một vấn đề lớn. Biết bao nhiêu các nhu cầu cuộc sống cần phải đáp ứng. Dân Do-thái đã trải qua những thách đố tôi luyện rất căng thẳng. Tuy nhiên, cho dù đối diện với muôn ngàn khó khăn, sau cùng, họ cũng đã tiến vào miền đất hứa chảy sữa và mật.

Sách Xuất Hành ghi lại cuộc sống nay đây mai đó, dân chúng cảm thấy thiếu thốn mọi bề, nên than khóc. Nhớ về qúa khứ ở Ai-cập ngồi bên nồi thịt và ăn no nê, dân chúng đã bắt đầu thấy chán nản và kêu trách Môisen và Aaron về lương thực hằng ngày. Thiên Chúa phán: “Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”.(Xh 16, 12). Qua những thăng trầm cuộc sống, Thiên Chúa từ từ mạc khải những mầu nhiệm Nước Trời. Qua bánh Manna nuôi sống thân xác, Chúa dẫn đến của ăn nuôi dưỡng phần hồn. Tất cả những sự cố xảy ra trong cuộc lữ hành của dân Do-thái đều mang một ý nghĩa nhiệm mầu trong chương trình cứu độ. Từ những sự kiện Môisen lãnh nhận Thập Giới, việc ông Môisen đập gậy vào tảng đá để nước chảy ra và việc Môisen treo con rắn đồng lên làm dấu trong hoang địa, để ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, sẽ được cứu. Thiên Chúa vừa thanh luyện tâm hồn vừa mạc khải những ý nhiệm sâu xa về Thiên Chúa độc nhất và chương trình cứu độ.

Lịch sử cứu độ được lồng vào lịch sử của dân tộc Do-thái, dân Chúa chọn. Dân Do-thái đã cưu mang chương trình cứu chuộc trong suốt hành trình lưu lạc trần thế. Thiên Chúa luôn yêu thương và giữ lời giao ước với đoàn dân. Dân chúng cũng đã vui hưởng những năm tháng an bình thịnh trị. Nhưng họ cũng không tránh khỏi những thăng trầm, gian nan, thách đố của cuộc sống. Trải qua lịch sử, cho dù nhiều lần dân chúng bỏ Chúa chạy theo bụt thần, Chúa vẫn luôn chờ đợi ngày họ quay trở về. Thiên Chúa quan tâm sai các tiên tri như là những sứ giả mở đường khai thông và bắc những nhịp cầu kết nối để giúp họ quay đầu sám hối.

Lời mời gọi sám hối là bước đầu đi vào cuộc sống an lạc và bình an. Chúa Giêsu khi ra rao giảng, Ngài cũng kêu gọi sám hối vì Nước Trời đã gần. Thánh Phaolô tông đồ cũng không ngừng nhắc nhở: Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em (Eph 4, 22-23). Lời mời gọi sám hối không phải chỉ để nghe nhưng là thực hành. Chúng ta không phải chờ tới ngày mai hay có cơ hội thuận tiện mới sám hối quay về. Lời của Chúa có sức mạnh tác động ngay trong hiện tại nếu chúng ta biết mở lòng đón nhận và quyết tâm sửa đổi cách sống.

Trong bài phúc âm hôm nay, từ những của ăn phần xác hay hư nát, Chúa Giêsu đã giới thiệu một loại bánh trường sinh. Bánh ban sự sống, đó là chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã dậy: Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (Ga 6, 27). Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống ban sự sống cho thế gian. Đây là một ý tưởng ngoại thường, dân chúng không dễ dàng chấp nhận. Sau khi nghe Chúa nói về bánh hằng sống chính là thịt và máu của Chúa, các môn đệ cũng xì xầm nhỏ to và có nhiều môn đệ rút lui, không đi theo Thầy nữa.

Lời của Chúa Giêsu phán hai ngàn năm trước, hôm nay vẫn mang tròn đầy ý nghĩa. Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, Chúa dùng bánh và rượu là của nuôi thân xác biến đổi thành Thịt và Máu Thánh Chúa để nuôi linh hồn. Đây chính là mầu nhiệm đức tin. Chúa phán:Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Lời truyền của Chúa Giêsu không thay đổi vì là lời hằng sống. Giáo Hội tin và tôn thờ Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Thánh Thể trở nên trung tâm điểm trong đời sống của các Kitô hữu. Đến với Thánh Thể là đến với chính Chúa Giêsu. Thực tế niềm tin cuộc sống, nhiều người không còn tin thật Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh hình rượu trong Bí tích Thánh Thể. Cả chúng ta, các Kitô hữu nhiều khi cũng lơ là và không tôn kính đủ khi đến với Thánh Thể nơi Nhạ Tạm.

Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin để chúng con nhận diện ra Chúa đang ngự giữa chúng con trong Bí Tích Thánh Thể. Đã nhiều lần chúng con đi qua Nhà Tạm Thánh Thể, Chúa hiện diện đó nhưng chúng con vô tình ngoảnh mặt làm ngơ. Chúa đã dùng Bí Tích Thánh Thể để hiện diện và trở nên thần lương nuôi dưỡng chúng con. Xin cho chúng con biết kết hợp mật thiết với Chúa trong mọi nơi và mọi lúc. Amen.

 

10. Đối xử công bằng với linh hồn ta

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Sau khi được Chúa Giêsu ban cho một bữa ăn no nê thỏa thích qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông người Do-thái đổ xô tìm đến với Chúa mong được Người cho ăn tiếp. Chúa Giêsu không bằng lòng với toan tính đó nên Người nói thẳng với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”

Biết rõ bận tâm của đám đông là chỉ lo cho có lương thực nuôi xác, còn lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đời sống thiêng liêng thì chẳng màng tới, Chúa Giêsu răn bảo họ: “hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh.” (Ga 6, 27).

Khi nói như thế, Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người hãy cố công chăm lo cho linh hồn mình được phúc đời đời chứ đừng chỉ dồn tất cả công sức chăm lo cho thân xác mau hư nát nầy.

* * *

Một nhà kia có hai người con. Người con út được cha mẹ đem hết lòng yêu thương chăm sóc: cho ăn, cho mặc, cho học hành, cho thuốc men, cho tiêu xài thoải mái, cho tất cả những gì nó muốn và không từ chối nó bất cứ điều gì.

Trong khi đó, đứa con cả không được cha mẹ đoái hoài: không được nuôi ăn, chẳng được cấp dưỡng chút gì, bị cha mẹ bỏ mặc như thể nó không hề có mặt trên đời, mặc dù nó không làm điều gì sai trái.

Cha mẹ phân biệt đối xử như thế là quá bất công, đáng bị lên án. Nếu chúng ta ở vào địa vị người cha người mẹ trên đây, chắc chắn không bao giờ chúng ta đối xử bất công như thế.

Thế nhưng, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có “hai người con” trong đời mình, đó là linh hồn và thân xác. Thân xác nầy nay còn mai mất thì được nhiều người chăm sóc chiều chuộng tối đa, còn linh hồn trường sinh bất tử thì chẳng được đoái hoài.

Châm ngôn của một số đông là: Tất cả dành cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy. Người ta không từ chối thân xác bất cứ điều gì. Dù thân xác có đòi hỏi những điều hèn hạ, vô luân, người ta cũng chiều theo nó.

24 giờ của mỗi ngày đều dành trọn cho thân xác. 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng đều dành trọn để lo cho thân xác và cứ như thế hết tháng nầy qua tháng khác, hết năm nầy qua năm kia.

Trong khi linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài!

Đó là một bất công không thể chấp nhận được và mang lại hậu quả đau thương cho cuộc sống mai sau, vì không sớm thì muộn, cái chết cũng sẽ đến để cướp hết những gì người ta đang có và hủy hoại thân xác ra không. Cuối cùng thân xác con người chỉ là một nhúm bụi đất còn linh hồn thì phải trầm luân muôn đời muôn kiếp.

Thật là điên rồ khi người ta dành hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực của mình cho thân xác để rốt cuộc nó chỉ còn là bụi đất!

Qua sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy đối xử công bằng với linh hồn mình.

Thân xác nầy nay còn mai mất thì chỉ cần chăm lo vừa đủ, còn linh hồn sống đời đời vĩnh cửu thì phải được chăm lo nhiều lần hơn.

Khi nuôi xác bằng cơm bánh được thu hoạch từ lòng đất thì cũng phải nuôi hồn bằng “Bánh từ trời xuống.”

Chính Chúa Giêsu là Bánh bởi trời được Chúa Cha ban cho nhân loại để mang lại sự sống cho thế gian. (Ga 6, 32-35)

“Ăn” Chúa Giêsu (theo nội dung đoạn Tin Mừng hôm nay, Gioan 6, 24-35) không có nghĩa là nhai, là nuốt Chúa Giêsu nhưng là đến với Chúa Giêsu và tin vào Người: “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”

Nói khác đi, “ăn” Chúa Giêsu là đến với Chúa Giêsu, học với Chúa Giêsu, sống như Chúa Giêsu để đào tạo mình nên người có phẩm chất cao đẹp như Chúa, để rồi mỗi người chúng ta trở nên hình ảnh sống động của Chúa Giêsu và được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người.

 

11. Bánh bởi trời

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Tôi đã đọc đâu đó câu này: “Cần một ngày để đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập, nhưng cần bốn mươi năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái”.

Tại sao phải mất 40 năm để đưa Ai cập ra khỏi người Do thái? Bài đọc 1 hôm nay nêu lý do. Dân Do thái than vãn với Môsê: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,3).

Dân Do Thái đã buông ra những lời trách móc nặng nề ông Môsê và ông Aharon. Nhiều lần dân Ítraen đã trách móc, xỉa xói và tỏ thái độ vô ơn bạc nghĩa đối với ông Môsê, vị đại ân nhân của họ: “Bên Aicập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? … Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Aicập! Thà làm nô lệ Aicập còn hơn chết trong sa mạc!” (Xh 14,11-12);“(Thà) chúng tôi chết … trên đất Aicập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê … (còn hơn là) vào sa mạc này, để … phải chết đói cả lũ ở đây!” (Xh 16,2-3);“Ông đưa chúng tôi ra khỏi Aicập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17,3); “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Aicập … Chúng tôi đã chán ngấy (manna) thứ đồ ăn vô vị này (rồi)” (Ds 21,5); “Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Aicập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! Sao Đức Chúa lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt? Chúng tôi trở về Aicập có tốt hơn không?” (Ds 14,2-4).

Hành trình sa mạc với nhiều thử thách là dịp thanh luyện dân tuyển chọn khỏi nổi nhớ “thịt béo, củ hành củ tỏi Ai cập”. Môsê vị lãnh đạo là khuôn mặt nổi bật nhất suốt chặng đường gian truân này.

  1. Môsê, người của Thiên Chúa luôn sống liên đới với dân.

Môsê nhà lãnh đạo đã dành cả đời lo cho dân. Ông đã trải qua biết bao đau khổ, sợ hãi và lo lắng để chăm sóc cho dân. Nhưng dân lại trách móc, than phiền và mắng nhiếc ông. Dân đối xử tệ bạc với Môsê. Họ xem ông như chính là thủ phạm gây ra những đau khổ và bất hạnh cho họ và gia đình họ vậy. Thật bất công!

Vậy mà cả đời Môsê vẫn một mực yêu thương liên đới với dân, sống chết với dân trong lời táo bạo với Chúa mà thấm đượm lòng thương dân:“Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”.

Từ ngày được Thiên Chúa gọi để lãnh đạo Dân Chúa (Xh 3,10), Môsê dần dần thấu hiểu và thâm tín rằng: vị tư tế ở giữa dân Chúa không những phải sống hoàn toàn liên đới với Thiên Chúa, mà còn phải hoàn toàn liên đới với dân Chúa.

Môsê luôn là người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa và là vị lãnh đạo quãng đại, đầy lòng xót thương, liên đới với dân cho dù dân ‘cứng cổ’, tội lỗi, bất trung.

  1. Môsê, người của Thiên Chúa

Là tư tế, Môsê tường trình mọi việc của dân chúng ‘lên Thiên Chúa’ (Xh 18,19). Ông đàm đạo và nhận chỉ thị của Thiên Chúa trong Trướng tao phùng (Xh 33,9); ông thể hiện vai trò trung gian của vị tư tế, môi giới giữa Thiên Chúa và dân, nối kết hai bên bằng máu giao ước (Xh 24,6-8); ông còn chọn Aharôn và con cái Aharôn để sung vào chức tư tế (Xh 28,1), cũng như thay mặt Thiên Chúa để tác thánh họ (Xh 29,1-46). Chính việc tiếp xúc thường xuyên với ‘lãnh vực thánh’ đã dần dần khiến ông đi sâu về phía Thiên Chúa, đến độ Kinh Thánh đã không ngần ngại gọi ông là ‘người của Thiên Chúa’ (Tl 33,1; Yôs 14,6).

Môsê có những lúc tiếp xúc tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, được chan hoà sự hiện diện của Người, mặt ông đã rạng sáng lên, dọi chiếu lại vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà không một người phàm nào có thể nhìn thẳng được: “Aharon và toàn thể con cái Israel trông thấy Môsê và này da mặt ông chói lọi và họ sợ không dám tiến lại với ông” (Xh 34,30). Khi ông vào Trướng tao phùng đàm đạo với Thiên Chúa, toàn dân phủ phục (Xh 33,7-11). Ở đó, Thiên Chúa nói chuyện với ông như nói chuyện với một người bạn thân ‘diện đối diện’ (Xh 33,11). Ông thật sự trở nên con người mà Thiên Chúa ‘biết’ đích danh và không ngần ngại đồng hành với ông (Xh 33,12-17). Môsê táo bạo thỉnh cầu được nhìn thấy dung nhan Thiên Chúa (Xh 33,18-23).Thiên Chúa đã nhượng bộ cho ông nhìn thấy Người… Nhưng từ phía sau lưng: “… Ta sẽ cất bàn tay Ta đi và Ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng Nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được” (Xh 33,23).

  1. Môsê, người liên đới với dân Chúa

Môsê được sống bên cạnh, thân mật với Thiên Chúa, và tâm trí ông luôn hướng về dân Chúa: “Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh 34,9).Từ ngữ ‘chúng tôi’ ở đây thật cảm động! Môsê đã không đặt mình trên dân, cũng không ở ngoài dân; nhưng hoàn toàn liên đới đến đồng hoá với dân, ngay cả nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi của dân.

Môsê bị phạt vì chính tội của dân, vì ông muốn liên đới với tội của dân: “Giavê đã phẫn nộ với cả ta nữa vì cớ các ngươi, mà rằng: cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không vào!” (Tl 1,37). Hình phạt này đối với Môsê thật nặng nề và đau khổ. Môsê đã phải nằm xuống trên núi Nêbô, tại vùng đất Môab. Môsê chia sẻ hoàn toàn số phận của dân và dường như ông còn muốn ôm vào lòng cả thế hệ xuất Ai cập, thế hệ mà ông đã lãnh đạo, đã cầm tay đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa tại Sinai, đã yêu thương cũng như đã chịu đựng… Thế hệ đó đã nằm xuống trong sa mạc. Môsê vì thế cũng ‘không muốn’ vào Hứa Địa một mình khi vắng bóng dân!

Môsê đã đau khổ cùng dân và cho dân! Môsê đã chết với dân và cho dân! Khuôn mặt và đời sống của Môsê đã in đậm nét trong lịch sử dân Chúa.

Môsê luôn luôn bênh đỡ, cầu bầu cho dân trước mặt Thiên Chúa: “Phải! Dân này đã phạm một tội rất lớn… Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng; bằng không, xin Người hãy xoá tôi đi khỏi sách Người đã viết…” (Xh 32,30-32).

Lòng yêu thương, tình liên đới, thái độ bầu chữa, bênh vực dân của Môsê xuyên suốt trong quá trình ông lãnh đạo dân. Môsê gắn bó cả cuộc đời và mạng sống mình với dân tộc Israel.

  1. Môsê là hình bóng của Đức Giêsu Kitô.

Môsê là vị cứu tinh, là vị trung gian giữa Thiên Chúa và dân. Môsê là ngôn sứ nói với dân về Đấng Cứu Độ một lời danh tiếng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đó là: Đức Chúa sẽ cho xuất hiện “một ngôn sứ như tôi, anh em hãy nghe lời vị ấy” (Tl 18,15). Sau này, Têphanô vị tử đạo đầu tiên đã nhắc lại lời tiên tri đó (Cv 7,37); thánh Phêrô đã thấy thực hiện nơi Đức Kitô (Cv 3,22). Chính Môsê đã làm chứng về “Vị Tiên Tri” đó (Lc 24,27; Ga 5,46).

Là trung gian làm nhịp cầu giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel, Môsê tiên báo Đức Kitô, Đấng trung gian cho một Giao Ước mới hoàn hảo hơn. Dọc dài lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập hai giao ước chính thức. Giao ước thứ nhất với Môsê trên núi Sinai. Giao ước thứ hai với Đức Kitô trên núi bát phúc và được bảo chứng trên Núi Sọ. Đây là Giao Ước Mới và là Giao Ước Vĩnh Cửu.

Đức Kitô, là Môsê mới đã hoàn thành tất cả những điều đã được ghi chép trong Lề Luật: “Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi Ta còn ở với các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật của Môsê và các tiên tri cùng Thánh Vịnh” (Lc 24,44).

Môsê đã đưa dân Israel nô lệ ở Ai cập, xuyên qua sa mạc về Đất Hứa. Đó là hình bóng và là tiên báo Chúa Cứu Thế, Đấng là Đường, là Ánh Sáng đưa Israel mới đi qua cuộc đời trần thế mà tiến về Đất Hứa, là thành Giêrusalem trên trời.

Đức Kitô là Môsê mới của Dân Chúa. Tác giả thư Do thái quả quyết: “Trong mọi sự, Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương, vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,17). Chính Người đã đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên Vị Thượng Tế tuyệt đối trung tín với Thiên Chúa, đứng về phía Thiên Chúa (Dt 5,5-6), đồng thời Người cũng đã thể hiện một cách trọn vẹn sự liên đới với mọi người, đầy lòng xót thương đối với mọi người (Dt 5,9) qua hành động tự nguyện dâng hiến con người của mình làm lễ tế để kéo tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân Chúa (Dt 5,8). Để đền tội cho dân và đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Đức Giêsu Nazaret đã dùng chính máu mình để thiết lập Giao Ước Mới, một lần nữa nối kết Thiên Chúa với con người (Mc 14,24; Mt 26,28; Lc 22,20; 1C 11,25; cf Xh 24,8) và dùng cái chết tự nguyện đau thương trên thập giá, bị liệt vào hàng tội nhân (Mc 15,22-37; Mt 27,39-50; Lc 23,33-46; Yn 19,17-30; Rm 8,3; cf Tl 34,5-6) để đáp lại lời thách đố của Môsê? Từ đó, qua Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, chắc hẳn Môsê sẽ được chứng kiến và nghe lại lời này: “Tôi muốn sống hạnh phúc bên cạnh Đức Chúa, và ở đó có cả dân của tôi nữa!” (x.Môsê, vị lãnh đạo của Dân Chúa: trung tín và liên đới, ĐGM Giuse Võ Đức Minh, WHĐ).

  1. Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời.

Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Chúa Giêsu “đã lánh mặt đi lên núi một mình”. “Chiều đến”, các môn đệ xuống thuyền đi sang “bên kia Biển hồ”; còn Chúa Giêsu lát sau đó “đi trên mặt biển” mà đến với các ông. Hôm sau, đám đông cũng xuống thuyền vượt qua Biển hồ về hướng Capharnaum để tìm kiếm Người. Dân chúng sắp được Chúa mời gọi sống một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn nhiều. Đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh.

Chúa Giêsu biết dân chúng đi tìm mình chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự. Chúa Giêsu muốn họ tìm đến lương thực thường tồn: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”. Chúa Giêsu nhắc cho họ, không phải Môsê đã cho họ manna, mà là Thiên Chúa. Người bảo họ manna không phải là bánh thật của Thiên Chúa, manna chỉ là biểu tượng cho bánh của Thiên Chúa. Bánh của Thiên Chúa chính là Đấng từ trời xuống và ban cho loài người, không chỉ sự no đủ về phương diện thể lý mà còn là sự sống đời đời: “Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”.

“Chính Tôi là Bánh Hằng Sống”. Khẳng định long trọng của Chúa Giêsu không một chút mông lung, mơ hồ. Một ý tưởng, một lý tưởng hay một lý thuyết thì có thể mơ hồ, nhưng một con người có danh xưng cụ thể thì không. Bánh sự sống, lương thực đem lại sự sống và là sự sống vĩnh cửu, bất hoại, chính là bản thân Chúa Giêsu. Và để đón lấy một con người, một Đấng làm sự sống và lẽ sống cho mình, thì “công việc” phải làm là “đến với” và “tin vào” Người.

Liên tiếp trong 4 tuần lễ kể từ Chúa nhật hôm nay, phụng vụ Lời Chúa đọc lại gần như toàn bộ chương 6 Phúc âm Thánh Gioan về Bánh Hằng Sống. Đây là cơ hội để khám phá ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Mỗi Chúa Nhật một khía cạnh khác nhau. Tuần 1: Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời; Tuần 2: Bánh Ban Sự Sống; Tuần 3: Tấm Bánh Thánh Thể và Tuần 4: Tấm Bánh Lời Chúa.

Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời, không phải là đã “rớt xuống ” như mana trong sa mạc. Người là lương thực chân thật cho những kẻ đói khát. Lời của Chúa Giêsu, sứ vụ của Chúa Giêsu, cuộc sống của Chúa Giêsu đều là bánh nuôi dưỡng linh hồn nhân loại đang đói khát thiêng liêng. Chúa Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là Bánh Hằng Sống. Chúa Giêsu chính là Môsê mới cung cấp bánh ăn và giáo huấn khôn ngoan cho nhân loại. Chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Người được Thiên Chúa đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể.

Để được sống trường sinh, Thánh Phaolô khuyên tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện”. (Bài đọc 2).

Sự công chính và thánh thiện chủ yếu là chết đi con người cũ để sống yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương. Không ai có thể đến với Thiên Chúa Hằng Sống để được sống trường sinh mà không qua Con Đường Giêsu, vì đây là Con Đường Thật, Con Đường dẫn đến Sự Sống.

“Đến với” và “tin vào”, khao khát và no thoả. Đó là hành trình của tình yêu, một hành trình vô giới hạn, không cùng, là sự cất cánh của tình yêu càng lên cao, càng lên cao mãi trong huyền nhiệm Thiên Chúa.

Mỗi lần rước lấy Thánh Thể,Tấm Bánh Bởi Trời, chúng ta phải cảm nghiệm được Chúa Giêsu như tâm điểm luôn thu hút chúng ta đến với Người và đến với nhau, làm cho tất cả nên một, một tấm bánh duy nhất: Bánh của tình thương.

 

12. Chết trong danh dự – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Người xưa vẫn thường nói: “trông vậy mà không phải vậy”. Một lời nói đơn sơ nhưng đầy triết lý cuộc sống. Có những người “đẹp người nhưng xấu nết”. Có những người bên ngoài nhỏ nhẹ, lịch sự nhưng lòng đầy gian tham xảo quyệt. Có những người miệng nói “nam mô nhưng lại một bồ dao găm”. Có biết bao điều diễn ra trước mắt nhưng thực hư lại càng khó phân biệt đúng sai. Cuộc sống thực dụng đã làm cho nhiều người biến chất trở thành kẻ lưu manh, lừa gạt hại người, hại đời. Cuộc sống đề cao vật chất đã khiến nhiều người đang tâm sống bất trung bất hiếu giữa với gia đình, với cha mẹ, với vợ, với chồng, với con. Dầu vậy, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những tấm lòng cao thượng, những trái tim trong trắng, những tâm hồn không để những tham sân si dòng đời làm băng hoại, hoen ố. Họ luôn sống cao đẹp. Họ luôn bảo vệ giá trị của tình người. Họ không bán rẻ phẩm giá vì một chút của cải mau qua. Họ đã sống đề cao giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị vật chất mau qua, tầm thường.

Nhà văn Pháp Pécaut đã kể một câu chuyện thật cảm động mà chính ông vẫn ân hận mỗi khi nhớ lại chuyện xưa. Ông kể rằng:

Một hôm tôi vừa ra khỏi nhà thì một em bé trai 12 tuổi chạy đến van nài tôi mua giúp em một hộp diêm quẹt. Động lòng thương tôi rút ví ra định mua, nhưng tôi lại chỉ có toàn tiền chẵn. Tôi đang ngần ngại thì thằng bé nói ngay: “Không sao ông ạ, xin ông cứ vui lòng đưa tiền cho cháu, cháu sẽ chạy đi tìm chỗ đổi tiền rồi trả lại cho ông ngay”.

Tôi nhìn thằng bé gương mặt xanh xao của nó có vẻ thành thật đến mức tự hào. Tôi liền trao cho nó một đồng tiền vàng và nó chạy biến ngay về hướng cuối phố. 5 phút trôi qua, rồi 10 phút, tôi bắt đầu hồ nghi về sự ngay thẳng của thằng bé. Và nửa giờ sau thì tôi hết kiên nhẫn, bỏ đi tiếp tục cuộc dạo phố, lòng thầm nhủ sẽ chẳng bao giờ còn tin vào những bọn lêu lổng đầu đường xó chợ như thế nữa.

Buổi trưa, khi về tới nhà, đúng chỗ ban sáng thì tôi lại thấy một đứa bé hơn nữa, chỉ độ 8, 9 tuổi, khuôn mặt giống thằng ăn cắp như tạc. Nét mặt nó bộc lộ sự lo âu tuyệt vọng. Nó thổn thức nói với tôi: “Thưa ông, có phải ông đã đưa cho anh cháu một đồng tiền vàng không ạ? Đây là chỗ tiền lẻ. Chính anh cháu nhờ gửi lại cho ông. Chúng cháu đều là trẻ mồ côi nhưng không phải là bọn ăn cắp. Anh cháu không thể trao tận tay ông ngay lúc sáng là vì anh cháu đã bị xe đụng khi vội chạy đi tìm chỗ đổi tiền. Cháu… cháu sợ rằng anh cháu chết mất thôi…”. Tôi bàng hoàng vội hỏi thằng bé trong tiếng nghẹn ngào: “Thế bây giờ anh cháu nằm ở đâu? Dắt bác đến gặp anh cháu ngay đi”.

Tôi rảo bước gần như chạy sau em bé. Chúng tôi rời khỏi những khu phố giầu sang để lách vào những con hẻm lầy lội của một khu lao động nghèo khổ. Em bé dừng lại một căn lều xiêu vẹo. Trong một xó tối, tôi nhận ra thằng bé bán diêm quẹt ban sáng. Nó nằm dài bất động trên một đống áo quần cũ rách, mặt trắng bệch vì mất khá nhiều máu.

Tôi lặng lẽ cúi xuống hôn lên vầng trán bị giập nát vì vết thương của em. Tôi ân hận vì cái nhìn thiển cận của tôi. Tôi nuối tiếc vì sự đánh giá thiếu cân nhắc của mình. Nhưng tôi lại thầm cám ơn đời đã cho tôi gặp được một tâm hồn trẻ thơ vô cùng trong trắng ngay giữa cảnh đời nghèo khó và đau khổ đến cùng cực…

Vâng, giữa cuộc đời mà người ta đang đua nhau tranh giành miếng cơm manh áo đến nỗi coi nhẹ nhân phẩm, nhân vị thì vẫn còn đó những con người biết sống nghèo khó mà lòng thanh sạch. Giữa cuộc đời mà người ta đang loại trừ và hãm hại lẫn nhau chỉ vì một chút địa vị, bổng lộc thì vẫn còn đó những con người tìm niềm vui trong đời sống yêu thương, phục vụ một cách quảng đại và vô vị lời.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm giá trị Nước Trời hơn là những của ăn mau hư nát. Thắng bé trong câu chuyện đã sống cao thượng, nó không vì tiền mà đánh mất danh dự. Nó thà chết chứ không để lòng tốt bị đánh cắp trong xã hội hôm nay. Nếu xã hội mà mỗi người đều biết trọng danh dự, trọng lẽ phải thì cuộc đời đâu còn nước mắt, trần gian đâu còn đọa đầy mà là thiên đàng tại thế. Nếu cuộc đời ai cũng biết trần gian là tạm bợ, thiên đàng mới là vĩnh cửu, có lẽ họ sẽ sống cao thượng, sống thanh sạch, sống công bình bác ái hơn là gian dối, tham lam tầm thường.

Nguyện xin Chúa là Đường là sự thật và là sự sống giúp chúng ta biết đi theo đường lối vẹn tuyền, biết tìm kiếm của ăn không bao giờ hư nát, biết chọn Chúa là phần gia nghiệp đời đời. Amen.

home Mục lục Lưu trữ