Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 69

Tổng truy cập: 1377345

THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CỦA CẢI ĐỜI NÀY

THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CỦA CẢI ĐỜI NÀY

Sau khi Chúa Giêsu nói chuyện riêng với các môn đệ, đám đông nhắc đến sự hiện diện của Ngài (xc.1). Tiếp theo một lời thỉnh cầu, Chúa Giêsu cho biết thái độ phải có đối với của cải đời này, trong khi đề phòng thính giả khỏi mọi thứ tham lam (c.13,21). Tiếp theo là một cuộc nói chuyện riêng lần thứ hai với các môn đệ kéo dài tới 12, 53. Đề tài thứ nhất kéo dài giáo huấn cho đám đông nhưng nhấn mạnh vào một điểm khác: từ lòng tham lam Chúa Giêsu nói đến sự lo lắng cho ngày mai (cc.22-34) –một tình cảm ăn rễ sâu trong con người.

Nói với dân chúng: Giữ mình khỏi mọi thứ tham lam

Một người xin Chúa Giêsu can thiệp giúp trong vấn đề chia gia tài. Anh ta gõ lầm cửa rồi, vì Chúa Giêsu đâu phải là một Kinh sư như các vị khác mà vai trò chính là để lo những công việc luật pháp. Nhiệm vụ của Chúa Giêsu là loan báo Tin Mừng của Vương Quốc và kêu gọi người ta hoán cải; như vậy nhiệm vụ đó tác động tới tận gốc rễ của việc tranh chấp giữa hai anh em (cc.13-15); cho nên Ngài từ chối đóng vai trò mà người kia yêu cầu, rồi Ngài nói với đám đông. Vượt quá sự nhắc nhở của Lề Luật (“Ngươi không được thèm muốn nhà của người bên cạnh” Xh 20,17), đó là một cảnh giác chống lại mọi tham lam vô độ muốn chiếm hữu thêm hay là chiếm hữu hơn cả cái cần dùng. Một câu ngạn ngữ đưa ra lý do: của cải vật chất không cho ta được một sự an toàn đích thực; cuộc sống không được đảm bảo bởi có dư dật của cải (x. đã có ở 9, 25). Người ta sẽ hiểu rằng từ chối xử kiện hay chia gia tài không có nghĩa là Ngài chấp nhận trên thực tế một sự bất công.

Dụ ngôn về người phú hộ ngu ngốc là một minh hoạ cho điều này (cc. 16-21). Là địa chủ, ông quyết định nới rộng kho lẫm để chứa hoa màu thu bội và như vậy có thể dự trữ cho riêng ông, và ông có thể nghỉ ngơi một cách an toàn trong nhiều năm. Vậy thì ông sẽ phá những kho lẫm cũ quá nhỏ bé, nhưng có thể là rất hữu dụng cho người khác… Hoàn toàn hướng về một thực hiện ích kỷ chỉ nhắm vào đời sống hiện tại, ông ta không quan tâm đến cái chết, cái chết của chính ông, trong khi giải quyết vấn đề của ông. Trong việc đó, ông ta tỏ ra ngu ngốc, bởi vì Thiên Chúa, chủ tể sự sống, sẽ thu hồi sự sống của ông, ngay trong đêm đó; con người này đã thiếu khôn ngoan khi không tìm kiếm cho mình một hạnh phúc vững bền. Ở câu 21, phần áp dụng dụ ngôn cảnh giác ta về một thái độ ích kỷ như thế (thu tích của cải cho mình). Thực ra, phải làm giàu trước mặt Thiên Chúa; tuy còn một ít khó hiểu, bài học này sẽ được làm sáng tỏ một cách đầy đủ bởi kết luận của toàn bộ phần khai triển ở câu 33-34.

 

57. Chú giải của Noel Quesson

Có người trong đám đông nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”

Đây là một vấn đề cụ thể, hiện thực luôn luôn mang tính thời sự. Hỡi ơi! Anh em xung đột nhau trong lúc chia gia tài là chuyện thường thấy!

Để hiểu câu trả lời của Đức Giêsu, phải biết luật pháp thời đó. Theo luật Do Thái (Đnl 21,17), trong việc thừa kế, người con trai cả được hưởng trọn phần di sản nếu là bất động sản nghĩa là đất đai và nhà cửa. Và người con trai cả ấy cũng nhận được, theo luật pháp quy định, phần gấp đôi các động sản. Chỉ có các con trai mới được quyền hưởng di sản. Luật pháp này chung cho toàn bộ Đông Phương cổ đại, và nhiều nền văn minh trong dòng lịch sử; luật ấy muốn gìn giữ di sản của gia tộc với việc lập nên “người gia trưởng” được hưởng đặc quyền: Đó là quyền con trưởng. Đức Giêsu đối diện với điều đó. Vậy hoàn cảnh xem ra đúng nhất có lẽ là một người “con trưởng” đã chiếm hết mọi tài sản và từ chối trả lại cho người em phần nhỏ bé mà người này được hưởng. Ngày nay trong giới Do Thái, người ta thường yêu cầu một giáo trưởng. Do Thái giáo danh tiếng đứng làm trọng tài trong các vấn đề về Luật.

Chính trong bối cảnh rõ ràng đó, người ấy đã cầu cứu uy tín đạo đức của Đức Giêsu. Đối với mọi người, câu trả lời chắc hẳn sẽ sáng tỏ và rõ ràng; phải nói với người anh ấy chia lại cho người em, đó là công lý đơn giản? Đó cũng là chính lộ xuyên suốt, Tin Mừng mà Đức Giêsu đã nhiều lần lặp lại: Anh em hãy yêu thương lẫn nhau... Vả lại, câu trả lời của Đức Giêsu làm người ta ngạc nhiên.

Người đáp: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?

Vậy là một lời từ chối. Đức Giêsu tránh né. Trước một sự bất công lộ liễu, Đức Giêsu từ khước xem xét trường hợp đó là dường như không muốn quan tâm đến. Thật là quá đáng. Điều đó đi ngược lại với toàn bộ Tin Mừng, với mọi lời hướng dẫn của Giáo hội và với cả lương tâm đơn giản và sơ đẳng của con người. Người Kitô hữu không nên làm mọi việc để chấm dứt những bất công của thế giới này đó sao? Phải chăng Kitô hữu có quyền thờ ơ những công việc trần thế để chỉ nghĩ đến Thiên đàng? Vậy phải hiểu sự từ chối này. Có thể có nhiều lời giải thích và có lẽ chúng bổ túc cho nhau:

1. Theo Tin Mừng của Luca, Đức Giêsu đang trên đường đi lên Giêrusalem tức thành phố nơi Người sẽ chết trong vài ngày nữa: Thầy “giáo trưởng” trẻ này còn có nhiều ưu tư khác trong đầu hơn là những cuộc tranh cãi phù du ấy, mà sau cùng cũng được giải quyết ổn thỏa không ngày này thì ngày khác.

2. Với tâm thức cá nhân rất đông phương, Đức Giêsu thường trả lời bằng một “ẩn ngữ”, một “số ý lộn xộn” để làm cho người ta phải suy nghĩ. Thông thường, chúng ta thấy Đức Giêsu đưa ra một câu nghịch lý và gần như thái quá trong lời Người. Người trả lời một câu hỏi người ta đặt ra bằng cách đặt một câu hỏi khác. Tính cách này, Đức Giêsu đã có từ khi còn rất trẻ: Lúc mười hai tuổi, Người trả lời cho mẹ Người một cách bí hiểm. “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy?”. Đó là lúc cậu bé Giêsu trốn ở lại Đền Thờ đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con?” Trong nhiều dịp, Đức Giêsu dường như không đáp lại: đó là phương cách tốt nhất của “người bị hiểu lầm”, thường gặp trong các cuộc tranh cãi giữa Đức Giêsu với giới trí thức Do Thái giáo, theo thánh Gioan, có sự chênh lệch, Người nói về các sự việc khác mặc dù cũng dùng những từ ngữ ấy.

Phải đọc lại những câu từ chối bên ngoài của Đức Giêsu. Những câu nói ấy không phải tình cờ. Ở Cana, Người dường như từ chối mẹ ruột Người, phép lạ đầu tiên (Ga 2,3-4) Người nói rằng Người không lên Giêrusalem “một cách công khai”, dù vậy Người cũng lên (Ga 7,3-6) Với các con trai của ông Dêbêđê đã xin được “ngồi bên hữu và bên tả trong Nước Người”, thì Người hỏi họ có uống nổi chén Người sắp uống không (Mt 20,23). Người từ chối nói Ngày quang lâm đồng thời khẳng định rằng Người không biết bởi vì “chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt 24,36).

Khi các người Do Thái xin Người các “dấu chỉ”, Người từ chối nói rằng Người chỉ cho họ dấu lạ của ngôn sứ Giôna (Mt 16,1.4-12.38-40). Vậy ở đây cũng thế, từ chối can thiệp vào vấn đề chia di sản không nhất thiết có nghĩa là Đức Giêsu không quan tâm đến: Đã hẳn, diễn tiến của câu chuyện sẽ đem lại cho chúng ta tư tưởng sâu sắc của Người.

3. Chính Đức Giêsu đã nêu ra lý do có khả năng đúng nhất của sự “từ chối” việc can thiệp đó trong một câu hỏi: “Ai đã đặt tôi làm người xử kiện?”. Phải, qua đó Người nói rằng những việc trần thế, hoặc tiền bạc ấy không phải là vai trò và sứ mạng của Người. Con người luôn bị cánh dỗ tìm kiếm trong Tin Mừng một thứ bảo hiểm, một sự thánh thiêng hóa các chọn lựa trần tục: Sáp nhập Tin Mừng vào phe mình, vào các lợi ích của mình. Đức Giêsu từ chối sự lẫn lộn ấy. Người từ chối đặt mình vào vị trí của chúng ta. Trút trách nhiệm của chúng ta qua người khác, hoặc tìm một giải pháp có sẵn là việc quá dễ dàng.

Trong chiều hướng đó, Công đồng Vatican II đã không ngừng đưa giáo dân về với ý thức và năng lực của riêng họ: “Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Tuy nhiên họ đừng vì thế mà nghĩ rằng: Các chủ chăn có đủ thẩm quyền chuyên môn để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho mọi vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng” (G.S. 43). Đức Giêsu đã làm điều đó. Người trả vấn đề thừa hưởng di sản cho sự xét xử của cấp thẩm quyền.

Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”.

Sự từ chối của Đức Giêsu, không trực tiếp đảm nhận một nhiệm vụ trần thế, do đó không có nghĩa Người không có gì để nói về các vấn đề trần thế. Đức Giêsu sẽ nhắc lại một lý tưởng cũng là một nguyên tắc chủ yếu. Vai trò của Người thuộc bình diện này và có tính chính trị theo ý nghĩa sâu xa của từ này; nghĩa là sứ mệnh và sứ điệp của Đức Giêsu liên quan đến đời sống của thành đô trần thế. Giáo Hội cũng như Đức Giêsu không trung lập Giáo Hội có bổn phận phải chuyển giao một sứ điệp, phải đưa ra các phán đoán về những công việc thế trần nhưng đồng thời phải để cho các quan tòa, các thẩm phán, những người phụ trách thế tục trách nhiệm áp dụng cụ thể sứ điệp của Giáo Hội.

Nguyên tắc mà Đức Giêsu khẳng định ở đây là phần trách nhiệm của Người, sứ giả của Thiên Chúa. Các ông không nên lẫn lộn mục đích! Thành đô trần thế không có mục đích tạo ra và tiêu thụ tối đa của cải! Không, điều chủ yếu không phải là phục vụ tiền bạc và lợi nhuận, mà là phục vụ “con người”!. Chính “sự sống con người” đứng đầu chớ không phải của cải! Và sự sống này không phụ thuộc vào của cải? Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ tư tưởng của Người khi kể lại một dụ ngôn, đầy sự ngẫu hứng để chế giễu nhấn mạnh đến những lối lo toan của một ông phú hộ.

Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: ‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!’ Rồi ông ta tự bảo: ‘Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!

Người đọc ‘kinh tin kính’ của một tay duy vật hoàn hảo: đức tin dựa vào hạnh phúc do vật chất mang lại? Đức Giêsu lên án ông ta, nhấn mạnh vào tính ích kỷ của ông ta dẫu sao cũng còn được cái chân thật: “Tôi… Tôi… Tôi… Mình… Mình… Mình sẽ làm... mình sẽ phá... mình sẽ xây mùa màng của mình; của cải của mình... kho lẫm của mình... thóc lúa của mình... chính bản thân mình...”.

Nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi! Từ ngữ Hy Lạp dùng ở đây cũng là từ mà Luca sẽ dùng chỉ bữa tiệc tiếp đãi của “đứa con hoang đàng” (Lc 15,23). Phải, Đức Giêsu đã biết xung quanh Người các “tiệc tùng”, ở đó người ta “tiêu tiền như nước” “ăn uống no say” cùng với tiếng đàn, tiếng hát.

Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?

Điên dại! Mọi tính toán của ông phú hộ sai lầm một cách thảm hại. Ông ta nhầm lẫn hoàn toàn: Sự giàu sang không mang lại hạnh phúc. Không có mối liên hệ giữa việc có nhiều của cải trần thế và sự an toàn chân thật. Sự sống của một con người không phụ thuộc vào những của cải của người ấy. Tiền bạc không mua được thời gian! Kinh Thánh không ngừng đặt đối lập kẻ điên dại “nabal” với người khôn ngoan “maskil”. Đức Giêsu cũng khẳng định rằng không biết nhận ra của cải chân thật, ý nghĩa đích thực của đời sống quả là thiếu khôn ngoan. “Điên”, năm thiếu nữ khờ khạo không mang theo dầu dự phòng cho đèn mình trong đêm chờ đón Tân Lang (Mi 25,2). “Điên”, những người đồng thời với Đức Giêsu không biết đọc ra những “dấu chỉ của thời đại” (Lc 12,56). “Dại” người mù để cho người mù khác dẫn đường là liều mình “rơi xuống hố” (Lc 6,39). “Điên” ông nhà giàu giới hạn tầm nhìn của mình vào đất đai, mùa màng, kho lẫm, cái bụng của mình.

Và đây là lý do sâu xa (cũng là lý do thứ tư) khiến Đức Giêsu từ chối can thiệp vào những công việc trần thế một cách tức thời và trực tiếp: Một cách mạnh mẽ và khó nghe; Người khẳng định rằng “đời sống” con người không hoàn tất ở trần gian này. Sứ điệp chủ yếu, sứ mạng ngôn sứ của Đức Giêsu là đây: Phần chính yếu của đời sống, rất hay bị quên lãng thì to lớn vô cùng so với sự hạn hẹp cố chấp của chủ nghĩa duy vật. Còn, Đức Giêsu -người sắp chết trong ít ngày nữa- không muốn làm giàu cho một người, dù đó là quyền lợi chính đáng của anh ta: việc chia gia tài ấy không phải là điều tốt lành đích thực cho anh ta. Chúng ta phải thành thật thú nhận rằng một cách tự phát, chúng ta suy nghĩ ngược lại với Đức Giêsu. Tuy nhiên, có một tiếng nói nhỏ trong chúng ta nói với chúng ta: Người có lý. Người biết rõ điều Người nói.

Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó

Chúng ta chớ hiểu sai tư tưởng của Chúa. Sự giàu sang tự nó không là điều xấu. Tiền bạc có thể trở nên tốt nếu nó không chỉ “vì mình” (Lc 12,33-34).

 

58. Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long

MỨC ĐỘ CỦA ĐỜI SỐNG NHƯ LÀ GIÁ TRỊ LỚN NHẤT

Của cải sở hữu không phải là giá trị cao nhất, khiến ta phải hy sinh mọi sự để có cho bằng được. Đức Giêsu sẽ minh họa điểm này bằng dụ ngôn Ông phú hộ.

1.- Ng cnh

Những lời Đức Giêsu ngỏ với các môn đệ trước mặt một đám đông (12,1-12.22-34) bị cắt ngang bởi lời thỉnh cầu của một người trong đám đông để xin Đức Giêsu can thiệp vào một vụ tranh tụng giữa anh ta và người anh liên hệ đến chuyện gia tài (12,13-15). Sự cố này lại là dịp để Đức Giêsu kể Dụ ngôn Ông phú hộ (cc. 16-21). Như thế, đề tài chuyển đi từ những lời nói về việc thụ hưởng cho bản thân đến những thái độ đối với của cải trần thế (12,13-34): “Phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (c. 15). Bài dụ ngôn tiếp theo có thể được coi như một bài bình luận cho câu nói của Đức Giêsu về sự tham lam (c. 15).

2.- B cc

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Mt v kin (12,13-15);

2) D ngôn Ông phú h (12,16-20);

3) Nhn định kết lun ca Đức Giêsu (12,21).

3.- Vài đim chú gii

- Thưa Thy (13): Bởi vì vấn đề chia gia tài được bàn đến trong B Ngũ Thư (chẳng hạn Đnl 21,15-17; Ds 27,1-11; 36,7-9), một vị tôn sư về đạo giáo hoặc một kinh sư là những con người thích hợp để tham vấn.

- Này anh (14): Dịch sát là “này người” (hô-cách của anthrôpos, “người”; x. 5,20). Từ này thường được dùng theo dạng này để từ chối, hay diễn tả sự dè dặt.

- tham lam (15): Từ Hy-lạp pleonexia thường có trong những đoạn văn khuyến thiện của Tân Ước (Rm 1,29; 2 Cr 9,5; Cl 3,5; Ep 4,19; 5,3; 2 Pr 2,3.14). Đây là sự ham muốn có thêm nữa, quá mức cần thiết (x. 1 Tm 6,10).

- Thiên Chúa bo ông ta (20): nghĩa là trong một giấc mơ ban đêm. Ông này được chính vị Chúa tể của sự sống ngỏ lời với, trong khi ông sắp xếp chương trình sống không có Ngài.

- ngc (20): Từ hy-ngữ aphrôn có nghĩa là “kẻ mất trí, ngu dốt, ngu ngốc, điên, rồ dại” (x. 11,40).

- người ta s đòi li mng ngươi (20): Động từ aitousin ở ngôi thứ ba vô định số phức tương đương với một thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa sẽ đòi lại mạng ngươi”.

- cho mình (21): nghĩa là không phải cho người khác, như người nghèo, quả phụ, trẻ mồ côi, người ngụ cư (x. Đnl 24,17-22; 2 Cr 6,10b).

4.- Ý nghĩa ca bn văn

* Mt v kin (13-15)

Đức Giêsu lấy khởi điểm để giáo huấn là một vụ kiện về vấn đề chia gia tài. Rất có thể đây là một người em trong gia đình không đồng ý với cách quản lý và thụ hưởng chung gia tài, nên muốn có phần của mình để dùng theo cách độc lập. Trong những vụ tranh cãi như thế, người ta thường đến gặp các kinh sư, để xin soi sáng vấn đề. Đức Giêsu dứt khoát từ chối can thiệp. Yêu cầu của người ấy và yêu cầu của Đức Giêsu ở trên hai bình diện khác nhau. Người ấy thì muốn có một phần sở hữu độc lập. Đức Giêsu thì dựa vào đó để nói về tương quan của con người với của cải. Chính các tranh chấp về gia tài thường đưa ra ánh sáng một liên hệ chặt chẽ với sở hữu và thường đưa đến những mối thù nghịch kéo dài suốt đời. Điều này có lẽ khiến chúng ta hiểu vì sao ở đây Đức Giêsu khuyến cáo chống lại lòng tham lam mạnh mẽ đến thế. Của cải sở hữu không phải là giá trị cao nhất, khiến ta phải hy sinh mọi sự để có cho bằng được. Đức Giêsu sẽ minh họa điểm này bằng dụ ngôn tiếp theo.

* D ngôn Ông phú h (16-21)

Với dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng giá trị của các của cải trần thế rất nhỏ bé, nên bám víu vào đó là một tính toán sai lầm.

Theo một quan niệm nào đó về cuộc sống, hoàn cảnh Đức Giêsu phác ra có thể coi là lý tưởng. Con người này giàu có. Không hề có nguy cơ là của cải của ông sẽ giảm thiểu đi, bởi vì ông đang nhắm tới một vụ thu hoạch dồi dào. Vấn đề duy nhất ông đặt ra là: “‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!”. Đây là một vấn đề cũng dễ giải quyết. Như thế, ông này có trong tay các phương tiện để sống một cuộc sống không phải bận tâm lo lắng; ông có thể tự do sống theo ý thích, trong sự sung túc.

Đức Giêsu mô tả là Thiên Chúa và cái chết sẽ ập vào cuộc đời ấy như thế nào. Cái chết đột ngột đảo lộn tất cả các toan tính nhắm thụ hưởng an toàn trong nhiều năm trời. Tất cả những gì đã thu tích được và tất cả những gì người ta đã dự phóng cách hợp lý trở thành vô giá trị. Đức Giêsu cho biết rằng một cuộc sống chỉ dành cho chuyện ăn uống và hưởng thụ tiện ích thì chẳng có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Một người sống như thế thì không giàu có trước mặt Thiên Chúa. Đức Giêsu khẳng định rằng để đạt được sự sống đời đời, cần có tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận (10,25-37). Chỉ nhờ đi trên nẻo đường này, người ta mới trở thành giàu có trước nhan Thiên Chúa.

* Nhn định kết lun ca Đức Giêsu (21)

Câu kết luận của Đức Giêsu cho hiểu rằng có lẽ đời sống trần thế tùy thuộc các của cải trần thế, nhưng đời sống này không được đảm bảo hay đạt được mức thành toàn nhờ các của cải ấy. Chúng ta phải nhận được sự thành toàn cuộc đời chúng ta từ lòng nhân lành của Thiên Chúa.

+ Kt lun

Đức Giêsu không quan tâm đến những điểm tranh luận phụ thuộc; Người chỉ cứu xét những câu hỏi lớn liên quan đến sự sống: đâu là điều quan trọng nhất? Ta có thể tín nhiệm vào điều gì? Điều gì ta phải tìm cách đạt cho được? Ta phải sử dụng cuộc sống và dấn thân thế nào để đạt được mục tiêu cuộc đời? Đức Giêsu nói rõ ràng các của cải vật chất không thể đảm bảo cho cuộc sống và sự sung túc, thoải mái, không thể là nội dung của cuộc sống được. Sự thành toàn chỉ được một mình Thiên Chúa ban cho mà thôi. Vậy trong cuộc sống này, chúng ta có thể và phải tính sổ với Thiên Chúa. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình trước mặt Ngài.

5.- Gi ý suy nim

1. Vấn đề thu hoạch dồi dào đến nỗi người ta không biết để của cải ở đâu đã trở thành phổ biến, vào thời đại hôm nay. Mỗi người cần phải tự hỏi theo ý mình, thế nào là cuộc sống lý tưởng, mình vận dụng sức lực cho chuyẹn gì, nếu lại không phải là “mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”. Ở bên ngoài các giá trị này, còn những giá trị và mục tiêu nào có thể nên được nhắc đến?

2. Cái chết “phá rối”, ai cũng biết. Người ta tìm mọi cách để đối xử với nó. Người ta cản bước nó tối đa bằng các cách tri liệu y khoa. Người ta ít nghĩ tới nó chừng nào tốt chừng đó. Người ta tránh để cho lòng mình bị xúc động trước cái chết của người khác. Dĩ nhiên người ta vẫn không tránh được cái chết. Do đó, người ta phải khai thác tối đa thời gian của cuộc sống được ban cho ta. Cũng phức tạp, nhưng cách nào đó, người ta có thể “đạt thắng lợi” trên cái chết. Nhưng làm thế nào đạt thắng lợi trên vị Thiên Chúa “phá rối”? Người ta cũng tìm cách tránh xa Ngài, quên Ngài đi. Người ta có thể không nói đến Ngài nữa và sống y như thể không có Ngài. Tuy thế, người ta không thể tránh né Ngài kiểu tiêu cực. Phải sống làm sao để cuộc sống của mình có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người nào chỉ sống cho những nhu cầu riêng và những đòi hỏi vật chất, thì đã chết trong cuộc đời này rồi, vì bị cô lập trong tính ích kỷ của mình. Tình trạng cô lập này trở nên trọn vẹn và được xác nhận bằng cái chết.

3. Cuộc sống viên mãn chỉ hệ tại tình yêu. Chỉ cuộc sống nào nhắm đến tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân thì mới là cuộc sống trung thực. Chỉ một cuộc sống như thế mới có thể được Thiên Chúa chuẩn nhận và được Ngài đưa đến chỗ thành toàn với ân ban là sự sống đời đời. Chúng ta đã nhận đời sống từ Đấng Tạo hóa, thì chúng ta cũng phải nhận cả ý nghĩa của đời sống từ Ngài. Và đối với Ngài, ý nghĩa của đời sống không phải là tiện nghi, mà là tình yêu.

 

59. Biết thế nào đủ là đủ vậy!

Chúng ta đang ở giữa mùa Hè. Ý nghĩ chủ yếu nổi lên trong đầu óc chúng ta là nghỉ ngơi, tắm biển, thư giãn, thịt nướng, cắm trại, du lịch… Chúng giúp chúng ta quên đi những bận tâm, lo lắng hàng ngày hoặc những tin tức đau đầu của thế giới như chiến tranh Irắc, Dafur, những tranh giành quyền lợi chính trị, thương mại, thuốc nổ, bom tự sát giết hại những sinh mạng vô tội. Những vấn đề luân lý nan giải: buôn bán ma túy, phụ nữ, trẻ em, nạn nạo phá thai, mãi dâm, Sida… Chúng ta cần một thời gian nghỉ hè, và sách Giảng viên (Qoheleth) trong bài đọc 1, xem ra không bắt chúng ta phải lưu tâm đến những chuyện nhức óc như vậy: phù vân, mọi sự thảy đều phù vân. Xin cảm ơn ông Qoheleth.

Cho nên, người ta không ngạc nhiên khi thấy sách Giảng viên không được yêu chuộng như các sách khác của Kinh Thánh. Theo một số học giả, nó mang tính yếm thế, tiêu cực, buồn rầu và phù phiếm. Giọng điệu như vậy hiếm thấy trong văn chương tôn giáo, chứ đừng nói chi được thiên hạ yêu thích. Tuy nhiên, những tâm hồn nghiêm nghị thường hay đọc nó, bởi vì nó nhìn cuộc đời thực tế cách lương thiện, chân tình, không bôi son, trát phấn, hoặc thi vị hoá những chất liệu thô sơ của cuộc sống hàng ngày. Bạn chẳng hề trông đợi như vậy. Nhưng chúng ta ước ao làm sao cho đức tin luôn đẹp đẽ, lạc quan, vui tươi ư? Xin suy nghĩ lại. Đức tin đi vào cuộc sống cũng phải theo nhịp điệu bình thường lúc thế này, khi thế khác. Có lẽ vì vậy mà Qoheleth đã xâm nhập vào văn chương Thánh Kinh. Tác giả mô tả điều ông trông thấy, suy tưởng, như biến cố xảy ra, mộc mạc, không tô vẽ thêm nếm, nhất là khi nó chẳng thanh tao thánh thiện, mà ngược lại, tội lỗi và giả dối.

Đọc Qoheleth, chúng ta có cảm tưởng ông là một thầy giáo đáng kính của ngành giáo dục tại Giêrusalem, hay Palestin. Ông viết về những phần thưởng mà cuộc đời ban tặng cho các kẻ thành công. Ông đặt câu hỏi: liệu những thành công đó có xứng đáng cho những nỗ lực của đời người không? Kẻ tiểu nhân thì đồng ý như vậy, nhưng hạng quân tử có lẽ không! Bài đọc hôm nay là đoạn mở đầu của quyển sách và khởi sự bằng câu hỏi lớn: liệu những gì và những nơi mà chúng ta đặt an toàn của mình vào có thật là vững chắc không? Vì phù vân! mọi sự thảy đều phù vân, phù vân nối tiếp phù vân. Những điều chúng ta theo đuổi, những nơi chúng ta đầu tư thời giờ, năng lực, sức khoẻ… liệu có an toàn hay chỉ là phù phiếm? Là giả tạo? Là luống công? Phí uổng? Ngay cả những kiến thức và sự khôn ngoan đời này chẳng phải là phù vân sao? Những kẻ làm lụng vất vả, khổ công thu tích tài sản, rồi chẳng biết sau này nó đi đâu? Như vậy không phù vân lắm sao? Lao động vất vả cả đời để người khác thụ hưởng thành quả, không phải là dại dột và ngu xuẩn ư? Điều quan trọng, Qoheleth nhắn nhủ là, nên đặt hy vọng vào quan điểm của những ai thay đổi thái độ khi nghe xong các điều ông giãi bày, tức kính sợ Thiên Chúa, tuân giữ các lệnh truyền của Người. Đó là tất cả tài sản của một đời người (11,9; 12,8). Bởi lẽ, Thiên Chúa tuyên án cho mỗi công việc dù tốt hay xấu với tất cả tính chất của nó: công khai hay dấu diếm (12,13-14). Đó là điều mọi người cần phải nhớ khi đọc cuốn sách. Nó kết thúc bằng một lời bình luận của viên thư ký ấn hành: “Ông Côhêlét đã sưu tầm để tìm kiếm những lời hay ý đẹp, rồi viết ra những điều chân thật” (Gv 12,10). Nhưng không hiểu có được chúng ta lưu tâm mà sửa chữa cuộc sống hay chỉ như nước đổ lá khoai? Nghe rồi quên ngay, chẳng cải tiến được chi cả tư duy cũng như hành động. Thật là uổng phí Lời Chúa.

Ông Qoheleth nhìn vào thế giới chung quanh ông, và thấy ra thiên hạ có quá nhiều tự mãn, tự phụ, điêu ngoa, giả dối và bất lương. Thí dụ: tôn giáo hình thức, xã hội thối nát, các lãnh đạo thờ ơ, thu vén, bất công không dám sửa chữa, tháo thứ không màng chỉnh đốn. Hơn nữa, ông còn cương quyết tố cáo cả những ai tự nhận mình là khôn ngoan, thông thái, thầy dạy dân đen, những kẻ quá kiêu căng cậy dựa vào khôn ngoan và kiến thức của mình: “Tôi nhận ra tất cả là việc Thiên Chúa làm. Quả thật, con người không thể khám phá những gì được thực hiện dưới ánh mặt trời, cho dù có ra công tìm kiếm cũng không biết nổi, cho dù người khôn ngoan nói là đã làm được, thì người ấy cũng chưa khám phá ra đâu” (8,17).

Bài đọc hôm nay, ông Qoheleth tiến công vào sự khôn ngoan qui ước của thời ông. Ông lưu ý họ: người tốt, việc tốt, đời sống chân thật chưa chắc gì đã được thưởng công. Trong khi kẻ không làm chi cả để xứng đáng với phần thưởng, thì lại được hưởng dùng thành quả: “Quả thế, có người đã đem hết khôn ngoan và hiểu biết làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Điều ấy cũng là phù vân và là đại hoạ”. Côhêlét mô tả thế giới thời ông, khoảng 300 năm trước Chúa Giêsu, nhưng cũng là cho chúng ta hôm nay, thế kỷ 21.

Cho nên, đọc lại Qoheleth vào giữa mùa Hè này quả là cần thiết, khi chúng ta đang có chút xả hơi, vui hưởng không khí trong lành ở những nơi mát mẻ, ăn thức ăn lạ, bồi bổ tâm hồn, thể xác. Ngõ hầu suy nghĩ lại mình đã đặt an toàn đời mình ở đâu? Liệu có phải trên cát bãi biển hay đá tảng Lời Chúa? Phúa Am hôm nay cho chúng ta câu trả lời.

Chúa Giêsu kể dụ ngôn về người giầu có ngu ngốc. Dụ ngôn của bầu khí giữa mùa Hè, nhưng cũng là của “mọi thời gian” cho những linh hồn giống như ông Qoheleth. Cuộc sống con người chẳng qua cũng chỉ là một “mùa” của thời tiết vũ trụ. Theo tiêu chuẩn thời ấy, thì người phú hộ quả là đầy đủ, ông có thể an hưởng cuộc đời hạnh phúc: “Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu?” Ông ta đã giầu có mà còn xem ra được giầu có hơn, vì tài sản đang tăng lên? Ai mà không ước ao được vị trí của ông? Ruộng vườn đang có những vụ bội thu: “Ta sẽ phá cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ lúa thóc, của cải vào đó!” Xin mường tượng trang trại của ông ta: dư thừa biết bao. Và dĩ nhiên, người ăn kẻ ở đông, phục vụ tốt, bàn ăn toàn những thịt thà, bánh trái, cao lương mỹ vị; trong tủ vải vóc, áo quần, tiền nong, vàng bạc… chẳng thiếu món chi. Như vậy, cuộc đời ông thật là an toàn. Nhưng ông chưa thật sự hài lòng, vẫn còn thiếu thốn điều chi? Đó là kho lẫm rộng lớn hơn để chứa nổi lòng tham của ông. Ông giống như một người trúng số độc đắc hàng tỷ đôla những chẳng biết làm chi với số tiền ấy.

Thế rồi xảy ra một chuyện bất ngờ. Sự đời bao giờ cũng vậy, vừa lúc người ta cảm thấy hài lòng nhất, hoàn hảo nhất, an toàn nhất thì xảy ra tai hoạ. Thiên Chúa nói với ông: “Đồ ngu, nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những của cải ngươi sẽ về tay ai?” Nghe giống như Qoheleth phải không quí vị? An toàn của chúng ta ở đâu? Nơi tiếng tăm, danh vọng, chức quyền, tài sản vật chất hay ở trong tay Thiên Chúa? Phải chăng đây cũng là bài học cho chúng ta? Điều chi quan trọng đối với Thiên Chúa? Vàng bạc hay lòng kính sợ Người? Câu trả lời nằm ngay trong câu hỏi. Thế nhưng tuyệt đại đa số con người thời nay không nhận ra. Họ cứ cho là vật chất, nhiều tiền lắm bạc. Vì thế chúng ta thường được nghe về quan chức này, thương gia nọ, chỉ một đêm thấy mình ngồi trong tù, vì tham ô, gian lận, để có được “an toàn” nơi vật chất. Đúng là đồ ngốc! Ay là chưa kể hình phạt đời sau.

Chúa Giêsu kể dụ ngôn này để trả lời cho hai anh em kiện tụng nhau về của cải lúc khởi đầu bài Phúa Am: “Hỡi người kia, ai đã đặt tôi làm trọng tài phân chia tài sản cho các ngươi?” Rồi Người thêm: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình tránh khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu!”

Trên thực tế, lòng khao khát có thêm tiền bạc, tiện nghi, danh vọng không phải là hiếm nơi các môn đệ tân thời của Chúa. Kể cả linh mục, tu sĩ đã khấn từ bỏ, thanh thoát theo tinh thần Phúc Am. Đức Kitô rất thực tế. Người ta bảo Ngài là một tôn sư khôn ngoan, nhắc nhở mọi linh hồn cuộc sống này ra sao! Ngài dạy dỗ mọi người phải đặt an toàn của mình trên những giá trị nào. Như trên, Ngài nói không phải nó được phó thác vào của cải vật chất, nhưng kho tàng của chúng ta phải ở nơi Thiên Chúa, vào những điều Thiên Chúa cho là hệ trọng. Bài đọc thánh Phao Lô cũng viết cho các tín hữu thành Côlôsê: “Thưa anh em, anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự trị bên hữu Thiên Chúa…. Chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc đời này”. Đó là vấn đề chúng ta cần quan tâm và cân nhắc. Nơi khác, Chúa phán: “Được lời lãi toàn thể thế gian mà thiệt mất phần rỗi mình, thì nào được ích chi?” Lời nói quá rõ ràng và chân lý thật vững chắc. Chúng ta phải làm những lựa chọn khôn ngoan, không phải chiếc áo tốt, bột giặt an toàn, xe hơi hảo hạng mà những gì liên quan đến hạnh phúc đích thực. Hay chúng ta chỉ cần sống đạo đức như Chúa chỉ bảo, khắc giải quyết được tranh chấp, không cần đến Ngài.

Câu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta một vài tư tưởng. Nó đã có rất nhiều phiên bản, nhưng bản gốc là của nhà văn Nga, L. Tolstoy: Một nông dân nghèo tên là Pakhom. Ông ta chỉ có mỗi nỗi lo âu: không có đất canh tác. Ông nói: ước chi tôi có một mảnh đất nhỏ, tôi sẽ chẳng còn sợ ai. Rồi ông tìm ra một miếng đất đề bán. Ông thu tích mọi đồng xu trong nhà mua miếng đất đó. Palahom trở nên địa chủ của 40 mẫu đất. Ông vui mừng quá đỗi. Cánh đồng của ông xem ra xanh tươi hơn, hoa quả xem ra ngọt ngào hơn. Rồi có một người mách bảo ông có khu đất 80 mẫu muốn bán. Pakhom cảm thấy đất mình đang có nhỏ bé. Ông bán đi, thêm tiền mua đất mới. Mảnh đất thật là tuyệt hảo, màu mỡ và bằng phẳng hơn, sản xuất được nhiều hơn. Ít lâu sau, Pakhom lại thấy không hài lòng vì khu đất chưa tương xứng với sức lực của mình, ông có thể làm việc nhiều hơn nữa để kiếm nhiều tiền.

Vận may đã đến, báo chí đăng tin ở phía Nam còn nhiều vùng đất bỏ trống chưa có ai canh tác. Ông cất công ra đi. Quả nhiên, có một bộ lạc, dân số ít mà đất đai lại rộng. Tù trưởng sẵn lòng cấp đất cho ông miễn là ông đặt một số tiền cọc và chạy trọn một ngày, được bao nhiêu diện tích thì lấy. Nếu ông không về tới điểm xuất phát ngày hôm ấy thì kể là mất số tiền cọc. Pakhom đồng ý. Sáng sớm hôm sau, ông dậy từ trước bình minh và bắt đầu chạy, không kịp ăn uống gì. Những dân làng cưỡi ngựa chay theo để cắm mốc. Tới khuya thì ông về đến điểm xuất phát. Nhưng vừa tới nơi, ông lăn xuất mặt đất tắt thở, quá kiệt sức vì tham lam. Dân làng chôn xác ông tại chỗ đất đó.

Vậy cái gì là quan trọng đối với Pakhom? Với chúng ta? Người Anh có câu: “enough is enough”, biết thế nào đủ là đủ vậy. Người Trung Hoa cũng nói: “tri túc, tiện túc hà thời túc. Tri nhàn, tiện nhàn hà thời nhàn”, cũng trong một ý nghĩa. Xin Thiên Chúa mở mắt cho mỗi người, ngõ hầu nhìn thấy những sự giầu có chung quanh mình mà tạ ơn Chúa, vì Ngài đã cho nhân loại một cuộc sống phong phú không loài nào có được. Từ đấy, chúng ta bỏ đi những ảo vọng của lòng tham lam, ích kỷ mà đùm bọc, chia sẻ cho nhau, để đời sống trên trái đất ngày thêm tươi đẹp hơn. Amen.

Fr. Jude Sicilianô, OP.

 

60. Nơi để của cải vật chất - William Barclay

Tại Palettin người ta thường đem những vấn đề tranh cãi đến xin các rapbi phân xử. Đối với nhân vật trong đoạn này, ông coi Chúa Giêsu là một vị thầy có thế giá có thể giải quyết vấn đề cho ông, nhưng Chúa Giêsu từ chối không muốn tham dự vào vấn đề tranh chấp về tiền bạc. Có những người đến với thẩm quyền tôn giáo không phải để xin những chỉ dẫn về đời sống thuộc linh, mà lại xin giải quyết những vấn đề vật chất. Chúa Giêsu không đáp lại yêu cầu này, không phải không nhạy cảm về những bất công có thể có trong phạm vi gia đình, nhưng Ngài không muốn can thiệp vào những việc không liên hệ trực tiếp đến sứ mạng cứu rỗi. Câu trả lời của Chúa ngụ ý rằng Ngài chỉ chú trọng đến công việc thuộc linh và Ngài không muốn xâm phạm vào địa hạt luật pháp dân sự hay chiếm đoạt địa vị của nhà cầm quyền: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?”

Có thể câu trả lời này chứa đựng một thông điệp cho thời đại chúng ta, cảnh cáo chúng ta đừng lẫn lộn những nhiệm vụ của Giáo Hội và Nhà Nước. Địa hạt của Giáo Hội là thuộc linh, thẩm quyền của Giáo Hội không phải là để quyết định những vấn đề kinh tế và chính trị. Tuy nhiên Giáo Hội có những cống hiến và ghi khắc những nguyên tắc liên quan đến các vấn đề luân lý và quyết định về sự công bình và lẽ phải trong mọi lãnh vực nhân sinh.

Chúa Giêsu đã từ chối “chia gia tài”, nhưng Ngài đã nhìn sâu vào căn nguyên lời yêu cầu và thấy rằng người ấy đã bỏ qua luật lệ dân sự để đến nhờ một giáo sư tôn giáo giúp đỡ là do lòng tham thúc đẩy. Nhân cơ hội này Chúa chỉ dạy cho kẻ theo Chúa phải có thái độ nào đối với vấn đề vật chất, và Ngài dạy qua một câu chuyện. Câu chuyện về lãi phú hộ ngu dại dạy ta rằng tiền của không tạo nên nội dung thật của sự sống, cho nên chỉ mải lo tìm kiếm vàng bạc mà quên Thiên Chúa là điều khờ dại.

Có hai điều đáng chú ý về người giàu này:

- Ông ta không hề nhìn xa hơn chính mình: không có dụ ngôn nào nhiều chữ “mình” như trong dụ ngôn này: “Hoa màu của mình, kho lẫm của mình, thóc lúa và của cải của mình, linh hồn của mình”. Đó là những chữ rất khó nghe mà người ích kỷ hay dùng đến. Người giàu ích kỷ chỉ biết nỗ lực tập trung vào mình. Có lời phê bình nổi tiếng về Ngài người ích kỷ như sau: “Có quá nhiều cái tôi trong vũ trụ của hắn!” Khi người này đã có của cải dư dật, ông không bao giờ nghĩ đến việc chia sẻ. Tất cả thái độ của ông đi ngược lại hẳn với tinh thần Kitô giáo. Thay vì từ chối mình, ông ta lại bảo vệ mình một cách khiêu khích; thay vì tìm hạnh phúc trong sự san sẻ, ông ta đã cố sức bám lấy hạnh phúc bằng cách bám chặt lấy của cải. Luật sống của John Wesley là tiết kiệm hết sức mình và ban phát hết sức mình. Khi ông ở Oxford ông có số lương và ba mươi bảng Anh một năm. Ông tiêu hai mươi tám đồng và cho đi hai đồng. Khi lương của ông tăng lên sáu mươi, rồi chín mươi, rồi một trăm hai mươi đồng một năm, ông chỉ tiêu xài hai mươi tám đồng, còn bao nhiều thì cho đi. Khi viên kế toán trưởng của công ty đồ gia dụng xin ông gửi bảng liệt kê những gì cần mua, ông trả lời “Tôi có hai thìa cà phê bạc tại Luân đôn và hai cái tại Briston, đó là tất cả đồ bằng bạc mà tôi có hiện giờ, và tôi không mua thêm cái nào nữa trong lúc biết bao nhiều người chung quanh tôi không có bánh ăn”. Châm ngôn La mã có câu: “Tiền bạc khác nào nước biển, ai càng uống nó thì càng khát thêm”. Bao lâu người ta có thái độ giống như người giàu ngu dại thì người ta cứ ước ao được giàu thêm mãi và đó là thái độ ngược với tinh thần Kitô giáo.

- Ông ta không hề nhìn xa hơn thế giới của mình. Mọi chương trình của ông ta chỉ đặt nền tảng cuộc sống lẩn quẩn trong thế giới của ông ta. Sau đây là cuộc đàm thoại giữa một chàng thanh niên ham hố và một ông lão hiểu đời:

Chàng nói: “Tôi sẽ học buôn bán”. Ông lão hỏi: “Rồi sao nữa? Rồi sao nữa?” – “Tôi sẽ mở hiệu buôn”. Rồi sao nữa? – “Tôi sẽ dựng nên cơ nghiệp lớn!” Rồi sao nữa? – “Tôi sẽ trở về già, hưu hạ và sống bằng tiền bạc của tôi!” Rồi sao nữa? – Ờ có lẽ một ngày kia tôi sẽ chết. Rồi sao nữa?

Câu hỏi sau cùng như một lưỡi dao. Người nào không hề nghĩ rằng có một thế giới bên kia thì người đó sẽ có ngày phải gặp một bất ngờ và cũng khủng khiếp.

Khi giải thích dụ ngôn này của Chúa, thánh Anatasiô đưa ra lời khuyên: “Ai sống như phải chết mỗi ngày – vì biết rằng cuộc sống này tự nó là tạm bợ, không chắc chắn – sẽ không phạm tội, vì sợ hãi Chúa dập tắt một phần lớn lòng tham lam; trái lại, ai nghĩ mình còn sống lâu sẽ dễ dàng để cho mình bị dục vọng cai trị”.

Ngu dại của người giàu này là coi có tiền có của như là mục đích duy nhất của đời sống, nó bảo đảm vững bền khát vọng của con người. Có được các cần thiết để sống và phát triển là chân chính, nhưng coi việc thâu góp tài sản như là một lý tưởng sẽ đưa đến phá hủy con người và xã hội: “Đối với một dân tộc cũng như đối với một cá nhân, có thêm nhiều của cái hơn không phải là mục đích tối hậu. Mỗi sự thăng tiến đều có hai mặt: nó cần thiết để con người được nên người bạn, nhưng đồng thời nó cũng giam hãm con người một khi nó trở thành giá trị cao cả nhất, không còn cho nhìn thấy giá trị nào khác. Lúc đó lòng người trở nên chai đá và tinh thần khép kín lại, con người không còn đến với nhau vì tình nghĩa, nhưng chỉ vì lợi lộc. Lợi lộc để dễ làm cho con người chối đối với nhau và chia rẽ nhau. Vì thế nếu chỉ tìm kiếm của cải mà thôi thì không những sẽ làm cản trở cho sự phát triển của con người, mà còn phản lại sự cao cả bẩm sinh của con người. Đối với một quốc gia cũng như đối với một con người, tội tham lam là một hình thức lộ liễu nhất của tình trạng luân lý thấp kém”. (Đức Phaolô VI, Phát triển 19)

Người Do thái hay kể truyện ngụ ngôn cũng về A-lịch-sơn Đại đế. Vị danh tướng mệt mã vì đi bộ đường xa, bèn ngồi nghỉ bên bờ một suối kỳ lạ. Ông uống nước và cảm thấy sảng khoái lạ lùng. Ông nhúng cá muối vào nước cho đỡ mặn và ngạc nhiên khi thấy nước làm cho cá có vị ngon lạ thường. Ông tự nghĩ: chắc hẳn đây không phải là nước thường, nó phải xuất phát từ một kỳ diệu nào, ta phải lần đến tận nguồn xem sao”. Ông đi mãi cho tới cổng thiên đàng. Cổng khóa, ông gõ cổng xin vào, nhưng bên trong chỉ có một tiếng đáp lại: “Ngươi không được vào đây, vì cổng này thuộc về Chúa”. Vị đại tướng trả lời ngạo nghễ: “Ta là Chúa của trời đất. Ta là A-lịch-sơn chiến thắng, không mở cửa cho ta sao?” – Không, chúng ta chẳng biết kẻ chiến thắng nào hết. Chúng ta chỉ biết những người đã chiến thắng dục vọng thấp hèn của mình, chỉ những người công chính ngay thẳng, mới được vào thiên đàng.

A-lịch-sơn giận dữ như điên cuồng, nhưng chẳng ảnh hưởng chi hết đến người giữ cổng thiên đình. Ông đổi ra o bế và hối lộ, nhưng vẫn vô hiệu, bèn nài nỉ lần chót: “Ta là vua lớn và được mọi nước suy phục. Dầu không cho ta vào thiên đàng, nhưng ít ra cũng cho ta vật gì đem về để chứng tỏ với người thế gian rằng ta đã được đến nơi đưa từng có ai đến. Người gác cổng đáp: “Đây, hỡi tên khùng kia, ta cho ngươi điều ngươi xin, cầm về và tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nó sẽ cho ngươi bài học khôn ngoan mà chưa từng có ai dạy ngươi. A-lịch-sơn vồn vã đưa tay nhận gói quà và vội vàng trở về trại quân mở ra coi. Lạ quá, trước mắt ông, chỉ là một mảnh sọ người. Giận dữ, ông quẳng mảnh xương xuống đất, la tô: Đây là quà tặng cho vua và anh hùng sao? Công ta lặn lội vất vả chỉ xứng như thế này sao? Nhưng trong đoàn tùy tùng có một người thông thái, ông khuyên vua: “Tâu đức vua, xin chớ khinh vật nhỏ bé này, nó có tính chất rất lạ ký đáng đức vua để ý. Hãy cân nó với vàng bạc báu vật của đức vua, thử xem bên nào nặng hơn. Theo lệnh vua, họ đem cân tới, mảnh sọ một bên, còn bên kia chất vàng, bạc, bửu thạch nữa… xương vẫn nặng hơn. Càng thêm bao nhiêu, mảnh xương càng nặng hơn bấy nhiêu! Vua kinh ngạc: “Một mảnh sọ lại nặng hơn bấy nhiều vàng bạc! Có gì nặng hơn mảnh sọ này không? Nhà thông thái đáp: “Thưa có, chỉ một chút đất thôi”. Ông liền lấy đất phủ lên mảnh sọ, lập tức, xương mất hết trọng lượng, nhảy bồng lên, bên kim khí nặng hạ xuống. A-lịch-sơn la hoảng: “Cái này còn lạ hơn nữa!” Nhà thông thái giải thích: “Mảnh sọ này là lỗ mắt con người, dầu nhỏ bé, nhưng sự ham hố của nó không có giới hạn. Hết thảy của cái trần gian không làm cho no thỏa sự ham muốn của nó. Nhưng khi nó bị đất bao phủ và chôn vùi trong mồ mả, thì sự ham hố trần thế của nó mới hết.

Chúa Giêsu phán: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì? Hoặc lấy gì mà đổi được linh hồ mình?” (Mc 8,36-37). Tác giả Thánh vịnh suy luận: “Chúng cậy vào của cải, lại vênh vang bởi lắm tiền bạc, nhưng nào có ai tự chuộc nổi mình, và trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa. Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời…” (49,7-9).

Vậy chúng ta hãy sống khôn ngoan theo lời khuyên của thánh Gioan: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi”. (1Ga 2,15-17).

 

 

61. Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta đừng để hết tâm trí vào việc thu tích của cải mà quên làm giàu trước nhan Thiên Chúa, vì đó mới là “kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá”.

CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN

Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta đừng để hết tâm trí vào việc thu tích của cải mà quên làm giàu trước nhan Thiên Chúa, vì đó mới là “kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá”.

Gv 1: 2; 2: 21-23

Sách Giảng Viên vạch trần cho thấy những công lao khó nhọc của con người và sự giàu sang phú quý ở đời này chỉ là phù vân.

Cl 3: 1-5, 9-11

Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng người Kitô hữu phải siêu thoát khỏi mọi sự thế này mà chú tâm tìm kiếm những thực tại trên trời. Nhờ phép Rửa, người Kitô hữu được dự phần vào sự Phục Sinh của Chúa Kitô, họ trở thành một tạo vật mới.

Lc 12: 13-21

Trong Tin Mừng, thánh Lu-ca tường thuật dụ ngôn người phú hộ dại khờ, ông chỉ biết thu tích của cải cho thật nhiều để vui hưởng cuộc đời cho riêng mình. Cái chết bất ngờ đến nội trong đêm đó, lúc đó ông không có của cải trường tồn “trước nhan Thiên Chúa”.

BÀI ĐỌC I (Gv 1: 2; 2: 21-23)

“Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”. Câu mở đầu sách Giảng Viên này đã trở thành tục ngữ. Chữ “phù vân” theo ngôn ngữ Híp-ri có nghĩa “làn gió thoảng”, “hơi sương khói”, vì thế được dùng như hình ảnh để chỉ những gì chóng qua, không bền chắc. Câu mở đầu này theo nguyên văn: “phù vân của những phù vân”, diển tả sự so sánh ở bậc cao nhất, có nghĩa, phù vân nhất, phù vân hết mức, không có gì phù vân hơn nữa.

1. Tác giả và tác phẩm:

Giảng Viên là một cuốn sách rất đặc thù, không như những cuốn sách khác trong toàn bộ Kinh Thánh. Tuy nhiên, cái nhìn bi quan về cuộc đời của sách rất gần với sách Gióp. Cả hai cuốn sách này đều chạm đến mầu nhiệm Thiên Chúa và ý định mầu nhiệm của Ngài trên nhân loại.

Nhan đề của sách: “Giảng Viên”, có nghĩa người chủ trì cộng đoàn hay người lên tiếng trong cộng đoàn. Tác giả đặt những diễn từ yếm thế của mình trên môi miệng của vua Sa-lô-mon, vị vua được truyền tụng là khôn ngoan bậc nhất. Đây là hình thức rất phổ biến vào thời xưa nhằm tạo uy tín và thế giá cho những lời bình phẩm của mình. Niên biểu tác phẩm có lẽ vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, chắc chắn phải trước hai sách Ma-ca-bê, bởi vì trong hai sách này niềm hy vọng vào sự sống lại ở bên kia nấm mồ được chứng thực. Đối với tác giả sách Giảng Viên, sau khi chết, người khôn và kẻ dại đều cùng chung một số phận như nhau, trong cõi âm ty tăm tối và buồn phiền (2: 14-16).

2. Công lao khó nhọc chỉ là phù vân:

Sau câu mở, vừa tóm tắt tinh thần vừa hình thành nên điệp khúc của tác phẩm, phụng vụ đề nghị cho chúng ta một đoạn văn rất gần với dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Trong đoạn văn này, tác giả phác họa bức tranh tăm tối về sinh hoạt của con người, vì hai lý do: Trước hết, toàn bộ sự nghiệp do công lao khó nhọc của mình làm nên đều phải trao lại cho người khác, việc thừa kế quả là một đại họa; thứ nữa, bao công lao khó nhọc chỉ đem lại ưu phiền cả ngày lẫn đêm.

- Việc thừa kế quả là một đại họa:

Phải trích dẫn rộng hơn đoạn văn này: “Tôi đã chán ghét mọi gian lao vất vả tôi phải chịu dưới ánh mặt trời, những gì tôi để lại cho người đến sau tôi. Nào ai biết được người ấy khôn hay dại? Nhưng người ấy lại là kẻ có thẩm quyền trên những gì tôi đã phải vất vả và khôn khéo mới làm ra dưới ánh mặt trời. Chuyện đó cũng chỉ là phù vân!” (2: 18-19). Tác giả nhắm đến một con người đơn độc một mình, không gia đình, không con cái, không bạn bè, chỉ biết thu tích của cải cho riêng mình, không bao giờ biết chia sẻ, biết cho, biết sử dụng thành quả công lao khó nhọc của mình để phục vụ tha nhân. Đó là lý do tại sao nỗi xao xuyến về ngày mai đã gậm nhấm lòng mình và chỉ thấy bất công khi để lại cho tha nhân niềm vui hưởng của cải mà mình đã đổ bao công lao khó nhọc làm nên. Vì thế, sự nghiệp mà con người phải vất vả làm nên trong cõi đời này chỉ là công dã tràng.

- Bao công lao khó nhọc chỉ đem lại ưu phiền:

“Phải đối với người ấy, trọn cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó cũng không được yên lòng yên trí. Điều ấy cũng chỉ là phù vân!”. Đây quả thật là cái phi lý của cuộc đời mà tác giả sách Giảng Viên muốn vạch trần. Khi biết sự nghiệp mà mình phải đổ bao công sức mới làm nên chỉ là chuyện phù vân, người ấy sinh lòng chán chường thất vọng.

Tư tưởng sau cùng của tác giả chính là cuộc đời con người là một mầu nhiệm mà chỉ mình Thiên Chúa mới biết được: “Tôi nhận ra tất cả là việc Chúa làm. Quả thật, con người không thể khám phá những gì được thực hiện dưới ánh mặt trời” (8: 17). Vì thế, phải phó thác vào Người. Lời kết của tác phẩm thì rõ ràng và giản dị: “Hãy kính sợ Thiên Chúa và tuân giữu các mệnh lệnh Người truyền, đó là tất cả đạo làm người” (12: 13).

BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-5, 9-11)

Bản văn sách Giảng Viên là lời dẫn nhập tuyệt vời vào đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-lô-xê. Lời khuyên của thánh nhân: hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, là câu trả lời cho nỗi bận lòng của tác giả sách Giảng Viên. Lời khuyên này được viết trong khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma giữa những năm 60 và 63.

1. Lập luận của thánh Phao-lô:

Trước đó, thánh Phao-lô đã trình bày thần học về phép Rửa (Chúa Nhật tuần trước); giờ đây thánh nhân khai triển những hậu quả của nó khi dựa vào ý nghĩa của các nghi thức thánh tẩy: chết và sống lại, cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới.

Lập luận của thánh nhân xem ra tự nó mâu thuẫn. Trước tiên, thánh nhân nói: “Anh em đã được sống lại cùng Đức Kitô”, tiếp đó: “Anh em đã chết với Chúa Kitô” (nghĩa là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức thánh nhân thường dùng để đặt lên hàng đầu thực tại tinh thần và tiếp đó cho thấy những hệ lụy liên quan đến con người và những đòi hỏi luân lý phát xuất từ đó.

2. Thực tại tinh thần:

Phép Rửa hiệp nhất người Kitô hữu với Đức Kitô Phục Sinh, Đức Kitô thiên giới ngự trị bên hữu Chúa Cha rồi, theo cách diễn tả của thánh vịnh gia: “Sấm ngôn của Đức Chúa ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị” (Tv 110). Nhờ phép Rửa, người tín hữu trở thành công dân Nước Trời, họ “phải hướng lòng trí mình về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”.

3. Con người mới:

Mầu nhiệm hiệp nhất này đem lại kết quả ngay lập tức, sự biến đổi nội tâm: “sự sống mới của anh em đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa”. Về phương diện bên ngoài, không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ở trong người Kitô hữu mà ánh vinh quang sẽ chỉ được tỏ lộ tròn đầy vào ngày tận thế. Sống theo Đức Kitô đảm bảo cho chúng ta vinh quang tương lai.

4. Mặc lấy Đức Kitô:

Cuộc đổi mới nội tâm này giúp người Kitô hữu vượt thắng những vị kỷ, những đam mê, những thói hư tật xấu. Phải trở nên người Kitô hữu chính danh. Phép Rửa cho chúng ta năng lực biến đổi này. Ở nơi khác, thánh Phao-lô nói rằng nhờ phép Rửa, người Kitô hữu được đóng ấn Thánh Thần (Ep 1: 13; 3: 16; 4: 30). Ở đây, thánh nhân diễn tả hùng hồn hơn: “Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa”. Không còn cách diễn tả nào có thể gợi lên tác động của ân sủng tốt hơn nữa.

“Con người cũ” sẽ nhường chỗ cho “con người mới” như thế nào, thì người chịu phép Rửa cũng trở nên một thọ tạo mới như vậy, khi bước ra khỏi nước thánh tẩy, mặc lấy y phục mới, trắng tinh. Thánh Phao-lô là văn sĩ Tân Ước duy nhất sử dụng ngôn từ này; thánh nhân còn dùng nhiều lần khác (Rm 6: 6; Ep 4: 22-24). Y phục mới trắng tinh không là vật trang điểm bên ngoài, nhưng đích thật “mặc lấy Đức Kitô”, nghĩa là, để cho con người của Đức Kitô thấm nhuần con người của mình, sáp nhập cuộc đời của mình vào cuộc đời của Đức Kitô. Thánh Phao-lô đã giải thích điều này cho các tín hữu Ga-lát (đoạn văn hoàn toàn sóng đôi với đoạn văn của chúng ta): “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Giêsu Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Dothái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 2: 27).

5. Ơn thông hiểu:

“Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa, để được ơn thông hiểu”. Một trong những khía cạnh đặc trưng của các thư được viết trong tù đó là điểm nhấn được đặt trên ơn thông hiểu. Ngay từ đầu thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-xê này, thánh Phao-lô đã thông báo Mặc Khải Kitô giáo đã khai lòng mở trí cho chúng ta như thế nào. Ngỏ lời với các tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân viết: “Quả thật, tôi muốn anh em biết tôi phải chiến đấu gay go thế nào vì anh em, vì những người Lao-đi-ki-a, và vì bao người khác chưa thấy tôi tận mắt; như vậy là để họ được phấn khởi trong tâm hồn, và được liên kết chặc chẽ với nhau trong tình thương, họ đạt tới sự thông hiểu phong phú và đầy đủ, khiến họ nhận biết mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Kitô, trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2: 1-3).

Thánh Phao-lô đối lập sự khôn ngoan của Thiên Chúa và sự dại khờ của con người. Những suy gẫm của thánh nhân trong cảnh tù đày đã khiến thánh nhân nhấn mạnh hơn nữa ơn thông hiểu Kitô giáo đánh dấu mức độ hiểu biết cao hơn, giúp khai mở mầu nhiệm con người và thoáng thấy mầu nhiệm Thiên Chúa.

TIN MỪNG (Lc 12: 13-21)

Trong phân đoạn Tin Mừng này, thánh Lu-ca kết tập nhiều lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế; vài lời dạy trong số này cũng được gặp thấy tại thánh Mát-thêu. Tuy nhiên, câu chuyện mở đầu (12: 13-15) và dụ ngôn người phú hộ dại khờ (12: 16-21) thuộc nguồn riêng của thánh Lu-ca. Đoạn Tin Mừng hôm nay thuộc vào những lời cảnh giác về sự giàu có như chướng ngại trên con đường dẫn đến Nước Trời.

1. Đức Giêsu từ chối lời thỉnh cầu:

“Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”. Theo phong tục thời đó, khi gặp phải vấn nạn trong cuộc sống, người ta thường đến gặp thầy thông luật để xin ông một lời khuyên, thậm chí để xin ông đứng ra phân xử một sự bất đồng hay giải hòa đôi bên. Chúa Giêsu nổi tiếng là một bậc thầy đưa ra những nhận định thích đáng và khôn ngoan. Thật chính đáng khi chàng thanh niên này đến gặp Chúa Giêsu để xin Ngài đứng ra phân xử cho anh về vấn đề chia gia tài. Theo Luật Do thái, con trai trưởng có quyền ưu tiên thừa kế hai phần sản nghiệp (Đnl 21: 17). Có lẽ người này bị người anh cả lấy hết phần gia tài.

Chúa Giêsu từ chối lời thỉnh cầu của anh: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người phân xử hay người chia gia tài cho các anh?”. Chúa Giêsu cũng sẽ từ chối như vậy đối với tất cả những lời cầu xin xa lạ với sứ mạng của Ngài. Ngài đến không để giải quyết những tranh chấp về của cải vật chất, nhưng quan tâm đến của cải tinh thần. Thiết tưởng chúng ta cần nhắc lại phản ứng quyết liệt của thánh Phao-lô trong những trường hợp tương tự: những tín hữu Cô-rin-tô khi có những tranh chấp giữa nhau, đem nhau ra tòa để kiện cáo nhau, thánh nhân viết cho họ: “Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi?” (1Cr 6: 6-8).

2. Sự giàu có đích thật:

Chúa Giêsu chẳng những từ chối lời thỉnh cầu của anh mà còn cảnh giác đám đông về vấn đề của cải nữa: “Anh em phải coi chừng, phải tránh xa mọi thứ tham lam, vì dẫu có được dư giả, thì mạng sống con người cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. Để minh họa cho lời dạy của mình, Ngài kể một dụ ngôn về người phú hộ dại khờ.

Một phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới tự nhủ rằng “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc đó ta sẽ tự nhủ lòng: hồn tôi ơi, bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”. Nổi bận lòng duy nhất của người phú hộ là làm thế nào thu tích cho thật nhiều của cải như sự đảm bảo duy nhất cho cuộc sống của mình và chỉ nghĩ đến vui hưởng một cách ích kỷ những thành quả do công lao khó nhọc của mình.

Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, Ta đòi lại mạng sống ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”. “Đồ ngốc”, từ ngữ Kinh Thánh chỉ những ai chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa: “Kẻ ngu si tự nhũ: Làm chi có Chúa Trời!” (Tv 13: 1). Ở đây, Chúa Giêsu có chung tư tưởng của sách Giảng Viên, nhưng vượt qua ngay lập tức: “Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa, thì số phận cũng như vậy”. Lời kết này muốn nói rằng cái chết trên cõi thế không thật sự là bi thảm; chính cái chết mai hậu mới là bi thảm. Người phú hộ bị cho là dại khờ bởi vì ông đã đổ hết công sức vào việc thu tích cho thật nhiều của cải trần thế như một sự đảm bảo chắc chắn cho tương lai của mình, mà không trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa. “Trở nên giàu có trước nhan Thiên Chúa”, nghĩa là thu tích kho tàng trên trời, được nhắc đến nhiều lần trong Tân Ước, như: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh em ở đó” (Lc 12: 33).

Một người phú hộ chỉ biết thu tích của cải trần thế và vui hưởng thành quả do công lao khó nhọc của mình một cách ích kỷ mà còn bị khiển trách đến như vậy, huống gì những kẻ làm giàu bất chính và thụ hưởng trên xương máu, mồ hôi đồng loại thì thật đáng bị khiển trách đến mức nào.

home Mục lục Lưu trữ