Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 50
Tổng truy cập: 1378243
THÁNH LINH DẠY DỖ
Thánh Linh dạy dỗ
Nếu không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ xa vời, Chúa Giêsu sẽ là một nhân vật của quá khứ, Phúc Âm sẽ chỉ là một bản văn chết, Giáo Hội sẽ chỉ là một tổ chức trần gian, Giáo quyền sẽ giống như bất cứ một thứ quyền bính nào khác, việc truyền giáo sẽ chỉ là một công tác tuyên truyền, phụng vụ sẽ chỉ là một mớ nghi thức cổ xưa lỗi thời và cuộc sống theo luân lý đạo đức sẽ chỉ là kiểu cách hành động của nô lệ. Nhưng trong Chúa Thánh Thần, vũ trụ trở thành cao quí vì nước Chúa khai sinh, Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện, Phúc Âm trao ban sứ mạng và sự sống. Giáo Hội thể hiện sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi, Giáo quyền trở thành dụng cụ phục vụ, Phụng Vụ trở thành lễ nghi tưởng niệm diễn tả trước cuộc sống mai sau và hành động của con người trở thành thần thánh.
Tư tưởng trên đây của Đức cố Thượng Phụ Albertô, thuộc Giáo Hội Chính Thống có thể giúp chúng ta hiểu được sứ điệp thần học của các bài đọc trong Chúa Nhật VI Phục Sinh hôm nay. Đó là Chúa Thánh Thần là Đấng trợ lực và hướng dẫn cuộc sống Giáo Hội. Tông Đồ Công Vụ chương 15 là một trang sử đáng ghi nhớ của Giáo Hội tiên khởi, bởi vì nó cho chúng ta thấy một số vấn đề quan trọng của cộng đoàn và kiểu cách Giáo Hội đã giải quyết các vấn đề đó.
Trước hết là vấn đề liên quan đến chiều kích đại đồng trong khác biệt của cộng đồng dân Chúa. Các tín hữu thuộc cộng đoàn tiên khởi gồm những người gốc Do Thái cũng như không Do Thái thuộc các dân tộc khác. Trong đó, có người Hy Lạp, họ làm công tác rao truyền Tin Mừng của thánh Phaolô và Barnaba và họ đã trung thành với sứ mệnh và Tin Mừng Nước Trời cho mọi dân tôc khác.
Vấn đề hội nhập Tin Mừng vào nền văn hóa Hy Lạp đã được thánh Phaolô và thánh Barnaba thực thi ngay từ đầu tại Antiokia để nhận sự trợ giúp của các tín hữu Antiokia cho giáo đoàn mẹ. Họ đã rao giảng một nguyên tắc trái với tinh thần của Tin Mừng, bởi vì họ chủ trương bắt buộc những người không Do Thái, khi trở thành Kitô hữu cũng phải tuân giữ các luật lệ của Môisê và tập tục của người Do Thái như phép cắt bì chẳng hạn.
Vấn đề đã gây tranh luận sôi nổi đến độ cộng đoàn Antiokia đã yêu cầu Phaolô và Barnaba hướng dẫn phái đoàn gồm các tín hữu cộng đoàn Antiokia tuyển chọn về Giêrusalem tham khảo ý kiến với giới lãnh đạo và tín hữu của toàn giáo đoàn mẹ. Và thế là cộng đồng chung đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội được triệu tập tại Giêrusalem.
Sau khi nghe phái đoàn Antiokia trình bày và cùng với họ duyệt xét, thảo luận vấn đề trong bầu khí cầu nguyện dưới ánh sáng và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã lấy quyết định, viết thư trả lời và gởi phái đoàn đem thư tới cho các vùng Tiểu Á.
Công đồng quyết định rằng, trong giáo huấn của Chúa Giêsu đã có tất cả mọi nhân tố nòng cốt diễn tả bản chất cuộc sống và lòng tin của Kitô hữu. Đó là hoán cải tâm hồn và trung thành với giáo huấn Tin Mừng của Chúa Giêsu. Cộng đồng chung thì khuyên các tín hữu giữ ba điều sau đây:
1. Không ăn thịt ô uế, cúng bái cho các thần linh ngoại giáo.
2. Kiếng máu các súc vật chết ngạt.
3. Không sống dâm loạn.
Đây là ba luật đã có trong sách Lêvi (chương 17-18). Theo quan niệm của Do Thái giáo, niềm tin tượng trưng cho nguyên lý sự sống. Chỉ có Thiên Chúa là người có quyền trên sự sống thôi.
Kiểu cách giải quyết vấn đề trên đây của Giáo Hội Kitô tiên khởi phản ánh tinh thần cộng đoàn trong Giáo Hội. Giáo đoàn Antiokia cũng như giáo đoàn Giêrusalem không ủy thác cho một nhóm chuyên viên giải quyết vấn đề mà đã hội họp với nhau và trực tiếp lắng nghe trình bày vấn đề, các ý kiến thuận nghịch rồi bàn luận dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Sau cùng mới đưa ra quyết định chung, nghĩa là Chúa Thánh Thần trở thành trợ lực giới hữu trách, trợ lực Giáo Hội và các vị có nhiệm vụ giải quyết, nhưng Chúa Thánh Thần không thông tin cho các vị. Bổn phận thông báo tin tức và đầy đủ và trình bày vấn đề tường tận đến từng cộng đoàn thuộc mọi thành phần trong Giáo Hội.
Điều này cho thấy những đúng đắn giúp giải quyết các xung khắc, các bất đồng ý kiến trong cộng đoàn Giáo Hội không phải là dùng thái độ "cả vú lấp miệng em", hà hiếp anh chị em, dùng quyền bính mà ra lệnh hay hô hào hiệp nhất. Nhưng trước hết là dẹp bỏ tất cả mọi sợ hãi, mọi ích kỷ, mọi chủ trương cá nhân hay bè phái, mọi thái độ cuồng tín, áp đặt không nhân nhượng và chống đối nhau để ngồi lại đối thoại, bàn thảo khách quan duyệt xét vấn đề trong tinh thần cầu nguyện với tấm lòng rộng mở do ơn Chúa Thánh Thần soi sáng trong tinh thần huynh đệ chân thành, trong sáng, vô vị lợi và trong thái độ khiêm tốn thẳm sâu.
Trong Phúc Âm thánh Gioan (Ga 14,23-29), Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta bí quyết sống lòng tin trọn vẹn để nên thánh và xây dựng cộng đoàn Giáo Hội là thân mình mầu nhiệm của Ngài trên trần gian này. Đó là luôn biết sống yêu thương kết hiệp với Chúa Giêsu và qua Ngài yêu thương kết hợp với Thiên Chúa Cha cũng như thực hành Tin Mừng của Ngài.
Tin Mừng thánh Gioan, tuân giữ lời Chúa Giêsu là kiểu nói diễn tả con đường tu đức của Kitô hữu. Qua lời nói và con người của Chúa Giêsu, Kitô hữu biết đạt đến sự mạc khải của Thiên Chúa trên con đường tu đức ấy, họ được Chúa Thánh Thần hướng dẫn chỉ bảo, dạy dỗ. Con đường tu đức của thánh Gioan không phải là một lời kêu gọi khô khan hay đạo đức luân lý hình thức tôn giáo của Chúa Giêsu một cách máy móc, mà là lời kêu mời chúng ta mở rộng tâm hồn cho Thiên Chúa là Đấng hiện diện trên trần gian này qua lời nói và con người của Chúa Giêsu.
Mở rộng tâm hồn cho Chúa là một nỗ lực đòi hỏi nhiều khiêm tốn, can đảm, từ bỏ và chiến đấu với chính con người của chúng ta, chiến đấu với các tội lỗi, các đam mê và khuynh hướng chạy theo sự dữ mà nó đã ăn sâu vào trong tâm hồn chúng ta.
Con đường tu đức tuân giữ lời Chúa Giêsu là con dốc rất cao, nhưng trên đỉnh con dốc đó là niềm bình an Thiên Chúa ban cho các Kitô hữu. Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh thì "an bình" ám chỉ toàn vẹn của mọi ơn mà Đấng Cứu Thế đem đến trần gian, và Ngài trao ban cho con người trong mọi chiều kích của chúng.
Và trong truyền thống Kinh Thánh, người Do Thái quan niệm những ơn ấy trong chiều kích vật chất như được đất đai, thành thị, mùa màng, chiến thắng quân sự, an ninh và che chở khỏi quân thù... Nhưng trong Tin Mừng, niềm an bình mà Thiên Chúa diễn tả trọn vẹn sự mạc khải của Thiên Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần, ơn Tin Mừng với các mối phúc và chính con người của Chúa Giêsu là thể hiện một sự trao ban trọn vẹn sự sống cho thế giới.
Niềm an bình ấy không trùng hợp với các giá trị của thế giới này, một thế giới tội lỗi, khép kín, khước từ Thiên Chúa. Niềm an bình của Thiên Chúa không giống như an bình bề ngoài giả tạo của các chế độ ý thức hệ trần gian. Các chính quyền trần gian ngưng chiến và ký thỏa hiệp vì không còn sức để chém giết nhau, chứ không phải vì muốn cho dân nước được an sinh thái bình thực sự.
Niềm an bình Thiên Chúa ban khác hẳn, loại trừ khỏi tâm hồn con người mọi thái độ hung hăng, hiếu chiến, mọi thèm khát bất chính, để làm nảy sinh ra tình yêu thương, tình bằng hữu chân thành, vô vị lợi, lòng nhân từ tha thứ và sự công chính.
Niềm an bình của Thiên Chúa là hạt giống làm phát sinh ra trời mới đất mới như được diễn tả trong chương 21 sách Khải Huyền: thành thánh Giêrusalem thiên quốc, hình ảnh Nước Trời, hình ảnh của Giáo Hội vẹn toàn được thánh hóa biến đổi trong thời cánh chung như là đích tới của ơn cứu độ. Trong đó, tín hữu không còn cần một môi giới nào, kể các đền thánh và ánh sáng mặt trời, mặt trăng, bởi vì vinh quang Thiên Chúa sẽ làm ánh sáng chiếu soi họ. Nhưng trước khi đạt tới điểm thành công ấy, Giáo Hội lữ hành trần thế cần được mọi thành phần của Thiên Chúa góp sức xây dựng, vun trồng và đổi mới. Và chúng ta chỉ có thể chu toàn sứ mệnh đó, nếu biết mở rộng cánh cửa tâm hồn cho ơn bình an của Chúa giãi tỏa, Tin Mừng của Chúa Giêsu mỗi ngày trong cuộc sống để cho Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn, hoạt động như Ngài muốn. Amen.
29. Ngôn hành hợp nhất
"Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy..." (Ga 14, 24)
Mẹ Têrêsa cùng các chị em nữ tu Bác ái đang chăm sóc một người đàn ông gần chết, nằm bên cống rãnh; ông ta rất hôi thúi, ruồi bọ bu quanh.... Một người đi ngang thấy cảnh tượng đó, nôn ọe ra vừa nói: Có ai đó trả cho tôi 1 triệu đô la, tôi cũng không làm việc này... Mẹ Têrêsa nghe, trả lời cho anh ta: "tôi cũng vậy!" Cho 1 triệu đô la cả mẹ và chị em, ai cũng không làm được, nhưng với tình yêu hi sinh, tình yêu Đức Kitô, họ có thể làm được mọi sự.... Chính vì thế mà Đức Kitô đã nói: Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy... Kính mời anh chị em cùng suy niệm chủ đề này ngày chúa nhật hôm nay.
a. Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở trong người ấy... Lời Chúa hứa rõ ràng cho ai nghe và giữ lời Chúa, là Chúa sẽ đến ở với họ. Nếu chúng ta hiểu Thiên Chúa chính là nguồn của mọi hạnh phúc, thì khi được Chúa đến ở cùng, ta sẽ còn mơ ước điều gì khác? Vì Chúa chính là nguồn hạnh của ta mà thôi. Hai cô cậu yêu nhau chân thật, dù chưa lấy được nhau, họ không có mơ ước nào khác là được yêu nhau; dù rằng tình yêu trần gian rất bất toàn, rất dễ đổ vỡ...Rồi Chúa lại hứa cho ai yêu mến Chúa: chính là được kết hợp thân mật với Chúa Cha, với Chúa Kitô; sự kết hợp này không phải chỉởơ cuộc sống mai sau trên nước Trời mà ngay khi còn ở dưới đất này. Chúa dùng từ "sẽ đến" và "ở lại" với người đó. Còn từ nào cụ thể nói lên sự kết hợp mật thiết này? Hai cô cậu khi yêu nhau chân thật, không phải là mong muốn lúc nào cũng ở bên nhau sao? Mà ở bên nhau là gì, nếu không phải là kết hợp mật thiết với nhau?
b. Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy... Câu nói này người Công Giáo chúng ta thuộc nằm lòng. Lời Chúa đã vang vọng 20 tk rồi cho mọi kitô hữu....dù vậy, chúng ta thử nhìn có rất nhiều người nói mình yêu Chúa, nhưng họ không giữ và cũng không muốn giữ lời Chúa dạy, không làm theo Ý Chúa. Thử nhìn các Giáo hội bên Âu Châu, như bên Pháp, Ba Lan: hầu hết đều được rửa tội, nhưng lớn lên hầu hết họ không đến nhà thờ, không lãnh các Bí tích. Khi được nhắc nhở, họ lại tự biện minh cho mình rằng: "giữ đạo ở trong tâm hồn là được rồi". Thực ra có được không? Câu trả lời là một câu hỏi lại: Nếu ta nói ta thương vợ con mình, mà mấy năm trời không gần vợ, gần con, điều này có thể chấp nhận được không? Việc gẫư đạo cũng tương tợ thế...
Bây giờ ta thử nghiêm túc nhìn lại cách sống đạo của người Việt Nam; thực ra có hơn Âu Châu không? Thưa có, vì người ta vẫn đi lễ đông nghẹt; các nhà thờ VN hầu như không đủ chỗ. Như thế thì rất tốy, rất sốt sắng. Nhưng thật sự giữ đạo trong cuộc sống hằng ngày, sống Lời Chúa thì chưa. Thực tế cho thấy có nhiều người có đạo, nhưng vẫn còn tham lam, ganh tị, bè phái, không bao dung, tha thứ... Có những người không thể nhịn nhục, tha thứ cho vợ cho chồng mình; có những người Công giáo, nhưng tâm địa ác độc... Số này giữ đạo vì lợi lộc cá nhân, vì muốn yên lương tâm, vì nhu cầu xã hội, để được chồng,được vợ. Lời Chúa nói không đủ đánh động họ, cái chết của Chúa trên thánh giá không dễ gì lôi kéo họ, vì họ qúa xem trọng lợi lộc trần gian, làm sao Chúa Thánh Thần có thể tác động họ khi chính bản thân họ không có quyết tâm.
c. Gợi ý sống và chia sẻ: Ta giữ đạo cho đến hôm nay có khi đã mấy mươi năm rồi, vậy mà ta có yêu mến Chúa chưa? Và vì yêu mến Chúa, ta có sẵn sàng làm mọi sự theo ý Người không?
30. Yêu mến thì giữ lời
Trong truyện cổ Việt Nam, có kể lại chuyện của một gia đình kia có một bà mẹ rất nghèo, do chồng mất sớm nên bà phải tần tảo khó nhọc để nuôi dạy con, hằng ngày bà phải đi tìm ao vớt bèo về nuôi lợn, vậy mà bà cho con được đi học rất tử tế, lại còn dạy con phải có phép tắc với mọi người, không được ăn cắp của ai, cũng không được tham lam của người khác. Năm đó, con bà đi thi đỗ được trạng nguyên, dân làng đón quan trạng và mở tiệc ăn mừng, còn bà thì thản nhiên như không có việc gì xảy ra. Hôm rước quan trạng về làng, bà cũng đi vớt bèo, ai gọi bà cũng không chịu bước lên, thế là quan trạng phải nhảy đùng xuống ao vớt bèo tiếp mẹ cho đủ một bao bèo rồi bà mới chịu lên. Nhiều người thấy vậy thì nói rằng: Có một người mẹ như thế, thì con mới nên người được. Một năm sau, quan trạng mau về biếu mẹ một chiếc áo dài gấm thật đẹp, bà mẹ không vừa lòng, lấy lửa đốt chiếc áo dài gấm đó trước mặt quan và nói: Mới làm quan, có tiền đâu mà mua áo, chắc là nhận tiền hối lộ của ai rồi, mới làm quan mà còn như vậy, nếu làm quan lâu thì sẽ làm khổ cho dân biết chừng nào nữa, Thế là từ đó, vị quan kia luôn nhớ lời mẹ, sống một đời làm quan thật trong sạch, và về sau ông được vua cho làm tể tướng.
Qua câu chuyện cổ trên đây, chúng ta thấy vị quan nhờ thương mến mẹ mình, nên ông luôn nhớ và sống theo lời mẹ ông dạy, nên nhờ đó mà việc thành tựu của ông trong cuộc sống mỗi ngày được tốt hơn, mỗi ngày được thành công hơn, và ông đã đạt được một chức vụ cao trọng nhất trong cuộc đời của ông. Tôi thấy câu chuyện này có thể minh hoạ cho chúng ta hiểu thêm về câu nói của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: "Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ lời Thầy".
Yêu mến Chúa, có nghĩa là trở nên giống Chúa, là tuân giữ lời Chúa, là làm những điều Chúa muốn, và Chúa còn muốn mỗi người chúng ta phải cụ thể các việc làm đó bằng những cử chỉ thật sự, bằng những hành động yêu thương thật sự trong cuộc sống thường ngày của mỗi người. Vậy thì các hành động yêu thương đó được biểu lộ ra trong cuộc sống mỗi người như thế nào?
Thông thường trong cuộc sống, chúng ta hay sử dụng lời nói để diễn tả những suy nghĩ, những tâm tư tình cảm của mình đối với người khác. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, lời nói cũng không thể diễn tả cách trọn vẹn được mọi suy nghĩ của chúng ta. Do đó, chúng ta lại dùng những điệu bộ bên ngoài như nét mặt, ánh mắt, như những cảm xúc vui buồn... để diễn tả những điều chúng ta muốn nói. Chẳng hạn như chúng ta thường biểu lộ niềm vui bằng tiếng cười, biểu lộ nỗi buồn bằng tiếng khóc... Chính vì thế khi nghe thấy những tiếng khóc, tiếng cười cho dù người đó không nói ra, thì người khác cũng phần nào hiểu được nỗi lòng của người thốt ra những tiếng đó.
Đối với tình yêu thương cũng vậy, người ta không thể dùng những con số, hay những kiểu nói ước lượng, như kiểu nói: "Tôi yêu anh chừng một tạ hay một tấn", hoặc là nói: "Tôi mến anh dài 50 hay 100 cây số" được. Nhưng khi muốn diễn tả tình yêu thương, người đó thường dùng những hành động cụ thể để nói lên mức độ yêu mến của mình. Chỉ cần nhìn cảnh những người cha người mẹ sẵn sàng thức khuya, dậy sớm, tảo tần buôn gánh bán bưng để lo cho con cái được ấm no, được ăn học, được thành tài, là mọi người cũng hiểu được tình thương như trời bể mà các bậc cha mẹ đã dành cho con mình. Thánh Augustinô còn nói: "Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ".
Hiểu như vậy, tình yêu của chúng ta đối với Chúa cũng cần được biểu thị bằng một dấu chỉ, hay bằng một hành động cụ thể. Dấu chỉ đó chính là sự vâng giữ lời của Đức Giêsu, cụ thể là chúng ta nghe trong bài Tin Mừng: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy"
Nhìn lại gương Chúa Giêsu, chúng ta đã thấy Ngài vì yêu mến Chúa Cha, nên Ngài đã làm trọn thánh ý của Chúa Cha, cho dù Ngài phải chấp nhận một cái chết tủi nhục trên thập giá, thì xin Chúa cũng cho mỗi người chúng ta luôn biết noi theo gương của Chúa, để mỗi khi chúng ta thốt lên Chúa ơi, con yêu mến Chúa thì chúng ta cũng sẽ làm trọn theo những điều Chúa dạy, để cuộc sống của mỗi người chúng ta luôn là một cuộc sống bình an trong tay Chúa, và cũng là một cuộc sống vui tươi trong vòng tay yêu thương thân ái của tất cả mọi người. Amen.
31. Giáo Hội Nhà Tạm Chúa Ngự - Cố Lm Hồng Phúc
Lời Chúa đề cập đến giáo lý về Hội thánh. Hội thánh là tập đoàn của những người đã chịu phép Rửa tội dưới sự điều khiển và hướng dẫn của Đức Giáo hoàng và hàng Giáo phẩm. Đã là một tập đoàn thì gồm có nhiều người và có nhiều người thì có nhiều ý kiến nhiều khi trái nghịch nhau, chống đối nhau.
Giáo hội tiên khởi gồm hai thành phần: thành phần từ đạo Do-thái trở lại, và thành phần dân ngoại vừa đón nhận Tin Mừng.
Thành phần Do-thái muốn áp đảo bắt phải giữ tập tục Do-thái trong khi “dân ngoại” chỉ muốn biết Chúa Kitô. Thoạt đầu tiên, các nhà lãnh đạo cũng băn khoăn trước vấn đề gai góc. Làm sao giải quyết? Giáo hội đã dùng đến quyền tối thượng của mình.
Tại Giêrusalem năm 49, Giáo hội mở Công đồng gồm các Tông đồ, các bô lão và đại diện các cộng đoàn. Ý thức quyền cao cả - “Chúng tôi và Thánh Thần”,Giáo hội công bố bản quyết nghị về sự tự do thiêng liêng. Thể thức ấy còn tiếp diễn đến hôm nay qua dòng lịch sử, với 22 Công đồng chung.
Sở dĩ Giáo hội giải quyết những khó khăn, dị đồng lúc ban đầu cũng như qua các thời đại như vậy, vì Giáo hội được thừa hưởng lời hứa của Chúa Giêsu, Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần, “Đấng Phù-Trợ”đến.
Trong bài Phúc Âm, Gioan ghi lại lời minh hứa: “Đấng Phù trợ là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói cho các con”.
Chúa Giêsu đã nói tất cả rồi. Nghiêng mình trên sứ điệp mạc khải, Giáo hội hằng suy tư nghiền ngẫm Lời Chúa. Trải qua các thời đại, dưới sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Giáo hội càng hiểu rõ Tin Mừng hơn và đem áp dụng vào đời sống; căn cứ vào đó để giải quyết những vấn đề mới mẻ do thời đại đặt ra.
Khi Gioan, vị Tông đồ cuối cùng qua đời thì nguồn mạc khải cũng chấm dứt. Phải chăng từ đó, Lời Chúa ghi chép trong Thánh Kinh, rao giảng và truyền đạt qua Thánh truyền, đã đứng nguyên một chỗ? Và chúng ta chỉ được nghe những lời giải thích cũ kỹ xa xưa. Không. “Thánh Thần mà Cha sai đến nhân danh Thầy sẽ dạy các con mọi điều”. Lời Chúa được ghi chép trong Thánh Kinh, được rao giảng qua Thánh truyền, là sự sống và là sự sống thì có cử động, có tiến triển. Lời Chúa được thấu triệt hơn và trình bày một cách sáng tỏ hơn.
Chúa Giêsu còn dạy cho chúng ta một Tin Mừng đặt biệt là mỗi cá nhân cũng như Giáo hội là “nhà tạm” của Chúa ngự. Đó là một đặc sủng và đặc sủng ấy chính là Thiên Chúa. Chúa phán: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Nguyên bản viết: “Chúng ta sẽ đến cắm trại” trong người ấy. Nghĩa là linh hồn đã được sạch tội và thánh hóa bởi ơn thánh thì được Con Thiên Chúa Ba Ngôi-“CHÚNG TA”-sẽ lập cư trong họ, trong một cuộc sống mật thiết như cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi vậy.
Chơn phước Elisabeth Chúa Ba Ngôi là một nữ tu dòng kín ở Dijon, được tôn phong ngày 24-2-1984, đã sống mầu nhiệm tôn thờ Chúa Ba Ngôi trong tâm hồn. Chị viết: “Chớ gì tôi được sống mãi trong cái gian phòng nhỏ bé mà Chúa đã xây dựng từ lâu trong đáy hồn tôi. Ở trong tôi được nhìn thấy Chúa, được cảm nghiệm có Chúa ở bên”. Đó cũng là một gương mẫu cho chúng ta.
“Lạy Chúa Ba Ngôi lòng con thờ phượng
Xin cho con quên mãi chính mình đi
Để chìm trong Chúa, rồi không biệt ly
Bất động và êm như vào vĩnh viễn…
Cho hồn con an bình, nơi lưu luyến
Thành Thiên đàng chỗ an nghỉ tình yêu…”
(Elisabeth de la Trinité)
32. Suy niệm của Lm. GB. Nguyễn Văn Hiếu
NHẬP LỄ
Với thời gian, biết bao nền văn minh xán lạn, bao nhà cai trị khét tiếng, nay còn đâu!? Thế nhưng Giáo Hội Chúa chỉ khởi đầu với 12 con người yếu đuối, hèn kém, cộng thêm biết bao bắt bớ, thử thách cam go, lại càng ngày càng phát triển, càng đông người tin theo và càng có uy tín đối với mọi người. Động lực đó từ đâu, nếu không phải từ sức mạnh và quyền năng dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban cho Giáo Hội?
- Lạy Chúa, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng con, để chúng con được sống tự do. (Xin Chúa thương xót... )
- Lạy Chúa, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên Thành Thánh đáng quý đáng trọng. (Xin Chúa Kitô... )
- Lạy Chúa, Chúa đã ban Chúa Thánh Thần, để dạy dỗ và nhắc nhở chúng con. (Xin Chúa thương xót... )
GIẢNG
Nhiều người đã lấy làm lạ không hiểu tại sao, cho đến giờ phút này, Giáo Hội Chúa vẫn có thể tồn tại và phát triển; càng ngày càng phát triển, cho dù ngay từ bản thân Đức Giêsu, Giáo Hội Chúa đã bị bách hại, bị người đời tính toán tiêu diệt. Thử thách như theo gót phát triển của Giáo Hội: Thời kỳ đầu ở Giêrusalem, khởi sự với cuộc tử đạo của Thánh Têphanô, Thánh Giacôbê và các Thánh Tông Đồ khác, đến nỗi Giáo Hội phải phân tán khắp nơi; 300 năm cấm đạo ở Rôma và các Giáo Hội địa phương cũng chịu cùng cảnh ngộ. Giáo Hội có mặt ở đâu là bị bách hại ở đó; ngay tại Việt Nam, thời chế độ phong kiến, Giáo Hội cũng phải chịu hơn trăm năm ruồng rẫy, bắt bớ, hàng trăm ngàn người hy sinh vì Chúa. Bên ngoài Giáo Hội bị bách hại đã vậy, bên trong Giáo Hội cũng không kém phần thử thách: Nhiều người thế giá sống tội lỗi; nội bộ chia rẽ, nhiều giáo phái nổi lên gieo những điều sai lạc và làm ly tán Giáo Hội. Thế nhưng, Giáo Hội vẫn đứng vững trước các thử thách; ngày càng có nhiều người tin nhận, gia nhập Giáo Hội bằng con đường này hay con đường khác. Tất nhiên, chúng ta không lấy số lượng làm mục đích phát triển Giáo Hội, nhưng việc phát triển số lượng đó vẫn cho chúng ta thấy một sức sống mãnh liệt đang tiềm tàng hoạt động trong Giáo Hội. Sức sống đó là gì và ở đâu?
Thời Giáo Hội sơ khởi, nhiều tín hữu từ Giêrusalem -tất nhiên gốc là Dothái giáo, đã thấm nhiễm tinh thần, luật lệ và các buổi phụng vụ Dothái- đến Antiôkia buộc các Kitô hữu gốc lương dân phải thi hành các luật lệ của ông Môsê, theo thói quen của Dothái giáo, làm các tín hữu tân tòng hoang mang, vì chẳng lẽ ơn cứu độ của Chúa Giêsu không giá trị bằng luật lệ của Cựu Ước? Nhiều cuộc tranh cãi đã nổ ra. Nhưng những bất đồng ý kiến, nếu không được hoà giải, sẽ đưa tới việc phân hoá Giáo Hội. Kinh nghiệm cho biết: Những đảng phái, phe nhóm do con người thiết lập, sẽ dễ dàng phân hoá, bất đồng ý kiến và phản bội nhau chỉ vì quyền lợi vật chất, địa vị, danh vọng trần thế như vậy. Rất may là các Tông Đồ đã gặp gỡ nhau, triệu tập công đồng đầu tiên trong Giáo Hội. Nhờ ngày phục sinh được Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ đã nhận ra vai trò và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội: "Thánh Thần và chúng tôi quyết định..." (Cv 15,28). Chúa Thánh Thần đứng trước các Tông Đồ và chủ động việc hướng dẫn giúp đỡ các Tông Đồ. Chính nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đã tránh được tình trạng đổ vỡ và ngày càng hiểu sâu hơn giáo huấn của Chúa Giêsu, như chính Chúa Giêsu đã nói: "Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần, Chúa Cha sẽ phái đến nhân Danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14,26). Tất cả mọi sinh hoạt trong Giáo Hội đều có bàn tay can thiệp của Chúa Thánh Thần. Chính vì vậy, đứng trước những nguy cơ mà Giáo Hội phải đương đầu, nếu sống trong đức tin, chúng ta sẽ luôn luôn khám phá ra được những dấu ấn hoạt động của Thánh Thần Thiên Chúa và bao giờ chúng ta cũng cảm nhận được bình an, đúng như lời Chúa hứa: "Thầy để lại bình an cho anh em" (14,27).
Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban Chúa Thánh Thần của Người cho Giáo Hội. Chưa ai thấy Chúa Thánh Thần, nhưng qua những hiệu quả công việc của Người, chúng ta cảm nhận được Người luôn sống trong Giáo Hội. Chúa Giêsu đã từng nói với ông Nicôđêmô về hoạt động của Chúa Thánh Thần: "Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu" (3,8). Chúa Thánh Thần luôn hoạt động theo tự do của Người. Qua những sinh hoạt và tính tồn tại, phát triển của Giáo Hội, bất chấp các thế lực chống đối, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta khám phá ra Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong Giáo Hội và qua Giáo Hội, Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong cuộc sống mỗi người, để ta luôn cảm nghiệm được bình an của Chúa.
33. Yêu Lời và giữ Lời - Lm. Anmai, CSsR
Là con người, ai cũng vậy, khi người thân mình đi xa thì thường để lại cho những người còn ở lại những lời trối trăn, những lời căn dặn. Những lời ấy càng có ý nghĩa, càng sâu sắc hơn khi người đó chính là người thương của mình, người mà mình yêu quý nhất.
Trong tâm tình đó, hôm nay, chúng ta được nghe Thánh Gioan thuật lại tâm tình hay nói đúng hơn là những lời trối trăn của Chúa Giêsu. Nơi Thánh Gioan, phải nói là có một tình cảm hết sức tuyệt vời với Thầy. Thánh Gioan đã ghi lại toàn bộ "diễn từ biệt ly". Diễn từ biệt ly gói ghém tâm tình của Thầy Chí Thánh Giêsu.
Trong tâm tình ấy, Chúa muốn các môn đệ Chúa Giêsu phải sống yêu thương như thế nào đối với nhau (13,34)? đối với Chúa Giêsu (14,15)? Tại sao "yêu thương" được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại tới 4 lần (cc 15.21.23.24)?
Các môn đệ phải sống yêu thương với nhau như Đức Giêsu đã yêu thương họ (13,34); họ phải yêu thương Chúa Giêsu bằng cách tuân giữ các giới răn của Ngài (14,15). Chúa Giêsu 4 lần nhắc tới yêu thương vì đây là điều răn quan trọng nhất và tiêu biểu nhất của Ngài.
Trong câu 31, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta thế nào? Gương yêu thương của Chúa Giêsu: làm đúng như ý Chúa Cha.
Với kinh nghiệm hết sức thực tế trong lịch sử cứu độ, qua lịch sử cứu độ chúng ta thấy phảng phất hình ảnh của những con người không tuân hành thánh ý của Chúa Cha.
Khởi đầu Thánh Kinh, ta sẽ bắt gặp hình ảnh của người phụ nữ hết sức quen thuộc. Người nữ ấy có tên là Eva, bà là mẹ của chúng sinh. Mẹ của chúng sinh ấy nhưng bà có đủ ba đức tính để làm nên tội lỗi: thích ăn, nhẹ dạ và... tò mò. Trái Cấm ngon và kỳ diệu lắm! Đã là con người, ai chẳng muốn được ăn ngon? Và nếu như cái sự ăn đó sẽ đem đến cái vĩ hoàng tương tự như Thiên Chúa thì lại càng đáng để thử. Thích thử để biết cũng là một thuộc tính của cả loài người...
Vì muốn bằng Thiên Chúa nên Eva đã giơ tay hái trái cấm. Không chỉ mình mình ăn nhưng Evà còn "mời" chồng mình ăn nữa.
Kế tiếp, chắc chúng ta khó quên hình ảnh của một vị vua lừng danh đó là vua Đavít. Đavít: một kẻ phản bội, một kẻ dối trá, một người phạm tội ngoại tình, một tay giết người. Phạm tội ngoại tình với Bát Sêva. Đavít đã:
Giết Urigia chồng của Bát Sêva
Bất tuân lệnh Chúa khi thực hiện việc kiểm tra dân số
Không có thái độ cương quyết với các người con của mình
Cũng có người này người kia đến nhắc nhở nhưng Đavít đã bỏ ngoài tai những lời răn đe ấy. Vì bỏ ngoài tai lời của Thiên Chúa nên Đavít đã phạm tội.
Sang đến Tân Ước, chúng ta làm sao quên được hình ảnh của bà mẹ ông Giacôbê và Gioan. Đi theo Thầy, sống gần Thầy đấy nhưng mà lại xin chỗ nhất chỗ nhì.
Thánh Phêrô bi đát cũng chẳng kém. Khi Thầy báo trước con đường khổ nạn lên Giêrusalem thì lại cản Thầy. Kinh khủng hơn nữa là đã chối Thầy bây bẩy vì không nhớ lời Thầy dặn trong bàn tiệc. Thật sự ra cũng nhớ lời Thầy ấy nhưng mà yếu đuối, nhưng mà bị ngăn cản bởi con người mỏng dòn nên Phêrô đã chối Thầy.
Lược qua những hình ảnh, những con người hết sức thực tế trong cuộc sống, trong Thánh Kinh đã vì bất tuân, đã vì không nghe lời Chúa nên đã sa ngã, đã phạm tội.
Lời Chúa hết sức cần thiết cho cuộc đời mỗi người. Các thánh tông đồ tuy yếu đuối, tuy vấp ngã ấy nhưng sau khi có ơn Thánh của Chúa Phục Sinh cuộc đời của các tông đồ đã thay đổi. Các môn đệ đã mạnh dạn lên đường rao giảng Tin mừng. Không chỉ rao giảng một cách bình thường nhưng các ông rao giảng một cách mạnh mẽ: Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ. Các ông Phao-lô và ông Ba-na-ba chống đối và tranh luận khá gay go với họ.
Không dừng lại ở chuyện gay go mà các ông còn quyết định cử ông Phao-lô, ông Ba-na-ba và một vài người khác lên Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận trong dân. Sau đó các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi An-ti-ô-khi-a với ông Phao-lô và ông Ba-na-ba. Đó là ông Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba, và ông Xi-la, những người có uy tín trong Hội Thánh. Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau:
"Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh."
Các tông đồ đã gửi đến cho họ những người cống hiến cuộc đời vì danh Chúa Giêsu. Những tông đồ này trước đây cũng nhát đảm nhưng chắc có lẽ nhớ lại lời của Thầy trong bàn Tiệc Ly chiều thứ Năm Thánh nên các ông can đảm để loan báo Tin mừng.
Lời của Thầy ắt hẳn vẫn còn văng vẳng bên tai của các tông đồ: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.
Đó là cách biểu lộ duy nhất mà Thiên Chúa đã quyết định thể hiện: người đến cư ngụ giữa những kẻ tiếp đón Người và tin tưởng nơi Người. Nói cách khác, Người chỉ được người ta nhận ra Người "hiện diện", nhờ những kẻ yêu mến Người... Tình yêu không cưỡng chế ai, không thúc ép ai.
Cảm nghiệm về một sự hiện diện thân mật nào đó của một người, tuy "vắng mặt" về thể lý, chúng ta cũng có thể nhận ra trong nhung tình yêu nhân loại ta, nếu chúng là chân thực: bất giác chúng ta sẽ nhận thấy đang khi nói, trong một cuộc đối thoại nội tâm, với người yêu, với bạn hữu, con cái, hôn phu, người chồng.
Đó là sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có kẻ yêu thương mới nhận ra.
Chúng ta vẫn thường phàn nàn về sự vắng mặt của Thiên Chúa, về thái độ im lặng của Người. Người tín hữu luôn đụng chạm với lời thách đố của kẻ vô thần:..."Thiên Chúa của bạn ở đâu?" (Tv 42,4). Nhưng ngày nay, câu chất vấn đó có chiều hướng đi tới một chối từ Giáo hội, phủ nhận nếp sống cộng đoàn của Giáo hội: người ta cảm phục Chúa Giêsu như một mô hình của nhân loại... người ta không chống đối Người điều gì... nhưng người ta gạt Người sang một bên, như thể không có Người... bằng cách khỏa lấp qua một lời tuyên bố quá dễ dãi: "Tôi tin nhưng không hành đạo". Do đó, rõ ràng là có một ranh giới thực sự giữa "người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu với mọi người khác, dù họ rất có cảm tình với nhân vật Giêsu Nadarét. Chúa Giêsu mạnh dạn quả quyết rằng, Người không chỉ là một kẻ chết, dù là tuyệt vời, của lịch sử xa xưa... cũng không chỉ là mẫu người đẹp mà sứ điệp có thể làm người ta phải suy nghĩ... Nhưng Người là một con người đang sống đang hoạt động, hôm nay vẫn còn hiển nhiên. Nhờ sự Phục sinh, Đức Giêsu Nadarét, con người lịch sử, đã bước vào thế giới xác định của Thiên Chúa: điều đó minh chúng. Người cũng trở nên kẻ đồng thời với mọi người.
Chúa Giêsu còn nói thêm: Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Chúa Giêsu quả quyết, từ giờ trở đi Người đang hiện diện nhờ những kẻ yêu mến Người, nhờ các tín hữu đích thực mà Người đang cư ngụ trong họ.
Khi Chúa Giêsu tuyên bố những lời đó, quả thực chỉ còn ít giờ nữa là Người sẽ phải chết. Người là Đền thờ mới, được dựng lại nội trong ba ngày (Ga 2,19-22), Đền thờ mà ở đó người Do Thái thường cảm thấy một sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu còn đi xa hơn. Người dám quả quyết rằng, kể từ' lúc Người ra đi, thì sự hiện diện không diễn tả thành lời này, chắc chắn bị che giấu, nhưng sẽ được bảo chứng nhờ các Kitô hữu.
Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.
Giữa những người yêu thương nhau, cần có sự lắng nghe, đối thoại, nói năng, trao đổi. Trong tình yêu của chúng ta, không cố gì tệ hại hơn là "không biết lắng nghe", không chịu nói năng. Ở đây Chúa Giêsu mạc khải cho ta một trong những chìa khóa mở tới đời sống Kitô hữu đích thực: Suy niệm Lời Chúa, như một dấu chỉ của sự Hiện Diện. Đó là một sự kiện. Chúng ta không có sự hiện diện thể lý hữu hình của Chúa Giêsu, nhưng đối với kẻ yêu mến Người, thì thật là kỳ diệu, họ đã nhận được tư tưởng, lời nói của Người. Chúng ta cần ghi nhận, Chúa Giêsu không chỉ nói đến một lời được đón nhận trong tâm trí, mà là một lời ta phải tuân giữ một lời phải đưa ra thực hành, một lời nhờ luôn "sống động" sẽ giúp kẻ ban lời cũng thực sự hiện diện. Sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh, sống động... có thể được "nhận biết" cách cụ thể (điều đó hẳn là thế được!) trong đời sống của các môn đệ đích thực.
Cũng như Đức Giêsu Nadarét là nơi thể hiện sự hiện diện và lời của Chúa Cha ("Lời anh em nghe thấy không phải là của Thầy"), cũng vậy từ giờ trở đi, các Kitô hữu, Giáo hội chính là nơi đó. Thật là trách nhiệm lớn lao.
Nghe và giữ lời Chúa hay không là quyền tự do của mỗi kitô hữu.
34. Dung mạo người Kitô – R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Trong ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm lời dặn dò cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thập giá rồi sống lại, và trở về cùng Thiên Chúa Cha. Đoạn Phúc Âm của Chúa Nhật thứ 6 Phục Sinh được trích từ Phúc Âm theo thánh Gioan chương 14,23-29 là những lời căn dặn mô tả dung mạo người Kitô qua mọi thời đại. Người Kitô trước hết phải là người sống vì tình yêu Chúa Kitô, là kẻ yêu mến Chúa Kitô. Và vì tình yêu này không phải là một lời nói suông nhưng cần được diễn tả cụ thể bằng hành động, bằng việc tuân giữ những lời Chúa dạy, những mệnh lệnh, mà mệnh lệnh cao cả nhất gồm tóm mọi mệnh lệnh là mệnh lệnh sống tình yêu: "Như Thầy đã yêu thương các con, các con hãy biết yêu thương nhau". Tình yêu thương là khởi đầu cho cuộc sống con người trên phương diện tự nhiên cũng như trên phương diện siêu nhiên. Vì yêu thương, Chúa đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Chúa đã cứu chuộc con người. Thừa hưởng một thân phận yếu đuối bất toàn, con người khó thực hiện mệnh lệnh tình thương. Qua bao thế hệ, bao ngàn năm, đạo tình thương được loan truyền, thế mà thế giới ngày nay, với những hận thù, căng thẳng, vẫn còn xa với văn minh tình thương. Nền văn minh của hận thù, của sự trả thù, ghen ghét và lạm dụng lẫn nhau, xem ra càng ngày càng lan rộng, xem ra như chương trình của Thiên Chúa bị thất bại. Nhưng thái độ tốt của người Kitô có lẽ không phải là thái độ phán đoán chương trình hành động của Thiên Chúa mà là thái độ phó thác và cộng tác với ơn Chúa, với chương trình của Ngài. Người Kitô, khi yêu mến Chúa nồng nhiệt chắc chắn sẽ không cô đơn, nhưng có Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn: "Ta và Cha Ta, chúng ta sẽ đến ngự trong kẻ ấy". Đó là đặc điểm thứ hai của dung mạo người Kitô.
Ngày xưa, trong cuộc Xuất Hành khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, Thiên Chúa đến cư ngụ với dân Ngài đã chọn. Dân Chúa rất quí trọng sự hiện diện này. Sau thời lưu đày, tiên tri Dacaria loan báo đến một thời Thiên Chúa tới cư ngụ một cách đặc biệt với dân Ngài. Qua cách nói xác quyết của Chúa Giêsu, các tông đồ ngày xưa đã hiểu và chúng ta ngày hôm nay cũng vậy, chúng ta hiểu là thời mới đó đã đến. Thiên Chúa đã không cư ngụ giữa dân mà còn cư ngụ trong tâm hồn mọi tín hữu, trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn các tín hữu yêu mến Ngài là một hồng ân rất quí và cũng rất dễ bị mất, mỗi lần chúng ta sống phản nghịch với mệnh lệnh yêu thương của Chúa. Vì thế, Chúa đã có lần dùng một hình ảnh khác, hình ảnh cây nho và ngành nho, vừa cảnh tỉnh, vừa kêu gọi các tông đồ hãy cố gắng sống kết hiệp với Ngài: "Thầy là cây nho, các con là ngành nho. Ngành nào kết hợp với thân cây sẽ trổ sinh nhiều hoa trái. Những ngành sinh hoa trái còn được Thiên Chúa cắt xén để sinh hoa trái nhiều hơn nữa". Việc Thiên Chúa cắt xén có thể hiểu như là tác động của Thiên Chúa huấn luyện hướng dẫn cuộc đời của mỗi người Kitô. Sự trưởng thành đời sống thiêng liêng không phải là một sự trưởng thành tự nhiên, như cành cây tự động lớn lên, nhưng là một sự triển nở được hướng dẫn cắt xén theo chương trình của người thợ xén, theo ý định của Thiên Chúa cho mỗi người. Không ai biết Thiên Chúa muốn cắt xén điều gì nơi cuộc đời mỗi người. Tốt hơn hết là chúng ta hãy dễ dãi, hãy sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa được mạc khải từ từ cho chúng ta qua tác động của Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu hứa ban xuống cho mỗi tín hữu, đó là đặc điểm thứ ba của dung mạo người Kitô. Là kẻ sống vâng phục theo Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi và mạc khải sự thật. Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta đến sự thật và làm cho chúng ta hiểu được sự thật mỗi ngày một trọn vẹn hơn.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được đầy đủ ơn Chúa Thánh Thần và lòng can đảm để thực hiện mệnh lệnh tình thương của Chúa mọi nơi và mọi lúc.
35. Yêu mến ai? Giữ lời ai? - PM. Cao Huy Hoàng
"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy." (Ga 14,23)
Hẳn là Chúa Giêsu quá rõ về lòng dạ hay đổi thay của con người chúng ta: hôm nay nói yêu, ngày mai nói ghét; hôm nay theo Người, mai lại bỏ Người mà đi; hôm nay hứa thề, mai rồi nuốt trôi lời thề hứa… nên Ngài đã báo tin vui có Chúa Thánh Thần nâng đỡ chúng ta để bảo đảm cho một tương quan thật hoàn hảo giữa chúng ta với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chính Chúa Thánh Thần sẽ làm sống lại mọi Lời Đức Giêsu đã nói và hướng dẫn mỗi chúng ta thực hành cách trọn vẹn để ai giữ Lời Chúa Giêsu dạy sẽ được Thiên Chúa Cha yêu mến. Tâm hồn của người ấy trở nên cung vàng điện ngọc dành cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.
Yêu mến, lắng nghe và làm theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần là sống như Lời Chúa dạy để đón nhận “Thiên Chúa ở cùng”, để ở cùng Thiên Chúa, đó chính là chìa khóa của sự bình an thật.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14,27).
Chúng ta đang sống những ngày đầy xao xuyến, kinh sợ
Thế giới văn minh hơn nhưng bất an hơn. Ngay trong xã hội gần nhất với chúng ta, chỗ nào cũng bất an cả.
Cha mẹ không an tâm khi học sinh đến trường để tiếp thu một nền giáo dục không Thiên Chúa.
Học sinh đến trường không an tâm vì nhà mình không đủ điều kiện chạy điểm.
Bệnh nhân đến bệnh viện cũng chẳng an tâm về đức hạnh của y bác sĩ thời đại vô thần.
Người đi chợ không an tâm về thực phẩm, rau quả càng múp càng tươi càng sợ vì chúng được sản xuất với ý đồ trong ngoài toa rập cho người ăn phải chết để tiêu diệt một dân tộc.
Các mặt hàng được sản xuất ở những nước chống Thiên Chúa càng đáng kinh sợ hơn.
Không dám tin sản phẩm nào an toàn, không dám tin chỗ nào có an ninh, không dám tin đất nước nào có hòa bình và kể cả việc không dám tin gia đình nào có bình an hạnh phúc trong một xã hội loài người đầy gian dối.
Vâng, làm sao khỏi xao xuyến khi cuộc sống đang có những nghịch lý thật lố bịch:
- Một đất nước mang tiếng là hoà bình nhưng hầu như ai cũng biết đó chỉ là hoà bình ảo trước nguy cơ mất nước, hoặc tất cả đã trong một kế hoạch… bán nước!
- Nhà cửa rộng ra lớn ra nhưng mái ấm hạnh phúc gia đình thì hẹp lại, teo tóp đến mức có khi là mất trắng!
- Điều kiện sống có khá hơn nhưng lòng quảng đại thì kém lại. Ngày xưa chia củ khoai sùng, bây giờ quên bạn bần cùng ngày xưa! Xưa người đi bộ, xa mấy cũng gần, nay xe bảy chỗ, gần mấy cũng xa!
- Phương tiện truyền thông rất hiện đại, nhưng để ca tụng Thiên Chúa thì ít, để loan truyền công lý, bảo vệ nhân quyền, loan truyền một nền văn minh thuộc về thượng giới thì bị cấm đoán nhưng để cổ xúy cho một cuộc sống hưởng thụ, duy vật chất quá tầm thường thì tràn lan, nhiễu nhương.
- Nhà Thờ rách nát thì đông người tham dự Thánh Lễ, đến khi xây cất mới khang trang thì ai nấy ở nhà xem tivi, nhậu nhẹt.
- Nhiều lễ nghi tôn giáo tổ chức “hoánh tráng” theo kiểu lễ hội ở đời nhưng Đức Tin của con người thì bán tín bán nghi hoặc chỉ nhất thời trong lễ hội, ra đến đường, về đến nhà là bay biến tiêu tan!
Tìm nguồn bình an thật
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14,27)
Lời Chúa hôm nay hứa ban bình an thật cho ai thành tâm yêu mến Chúa và sống theo Lời Chúa dạy.
Không thể có một xã hội bình an, một đất nước bình an, một gia đình bình an nếu không có những con người bình an.
Nếu hơn 8 triệu tín hữu ở Việt Nam này ai cũng sống với bình an thật của Chúa là “nghe và tuân giữ lời Chúa”, thì hẳn là một tín hiệu đáng mừng biết bao cho gia đình cho đất nước. Tiếc quá, con số tín hữu chỉ là 8 triệu, trong số đó, con số “nghe và giữ lời Chúa” thật sự liệu có nhiều hơn con số “nghe và giữ lời” của những người chống lại Thiên Chúa không? Khi được hỏi bạn “có yêu mến, nghe và thực hành lời của những người chống Chúa” ha không thì hẳn bạn sẽ trả lời ngay rằng: tôi không hề. Vậy, nếu hỏi lại, bạn có “yêu mến, nghe và thực hành Lời Chúa” hay không thì bạn sẽ trả lời ra sao?
Âm mưu thâm độc của Satan là làm cho mỗi chúng ta đổi chủ, đổi Chúa hồi nào không biết, đổi bình an thật lấy bình an giả lúc nào không hay, đổi hạnh phúc thật lấy hạnh phúc ảo cách êm ái nhẹ nhàng hồi nào không biết! Lời của Satan không được phép rao giảng tại Nhà Thờ nhưng nó lại được tuyên truyền quảng cáo nơi cuộc sống muôn màu hấp dẫn trước mắt chúng ta. Lời của của thế lực chống lại Nước Chúa không hề được công bố nơi Nhà Thờ nhưng lại được rêu rao, cổ vũ nơi những giá trị của quyền lực, của kinh tế, của giáo dục, rằng bất cần Thiên Chúa, con người cũng vẫn đạt hạnh phúc no đầy!
Không có lúc nào là muộn màng. Hãy sớm ngộ ra chúng ta đang bị cuốn vào cái bình an hạnh phúc hư ảo trong một xã hội dối trá, xã hội được hướng dẫn bởi Satan. Hãy thức tỉnh, trở về “yêu mến, nghe và giữ lời Chúa dạy” theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Yêu mến Chúa trên hết mọi sự hấp dẫn ở thế gian, nghe và chu toàn lệ luật Chúa dạy, đó là chìa khoá bình an cho mỗi người, cho gia đình, cho đất nước và cho cả thế giới.
Nguyện xin Chúa cho chúng con biết đón nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để biết Bình An thật của chúng con chỉ có được khi chúng con yêu mến Chúa trên hết mọi sự và chu toàn lề luật Chúa nơi trần gian hôm nay.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam