Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 56

Tổng truy cập: 1378229

THÁNH THẦN, NGUYÊN LÝ CỦA BÌNH AN

Thánh Thần, nguyên lý của bình an

(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)

Phụng vụ hôm nay hướng tâm hồn chúng ta mừng lễ Chúa lên trời vào tuần tới, bởi vì việc Chúa về trời là tột đỉnh của mầu nhiệm Sống lại và đi vào vinh quang với Chúa Cha. Các bài đọc trong phụng vụ phản ánh thực trạng xảy ra nơi các tông đồ cách đây 2000 năm. Trong giây phút ly biệt đầy xốn xang, Chúa đã trấn an các học trò mình không phải bằng liệu pháp tâm lý, nhưng Ngài hứa ban Thánh Thần, là nguyên lý của bình an đích thực. Ngài khuyến mời các ông hãy tuân theo những chỉ dạy của Thần khí để có được bình an thực sự trong tâm hồn.

Thầy để lại bình an cho anh em.

Chắc chắn đây không phải là một lời chúc mang tính khách sáo, nhưng là một động thái Đức Giêsu đã thể hiện giữa các môn sinh của mình. Trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội vẫn cầu nguyện xin Chúa Giêsu ban bình an xuống trên toàn thể Hội thánh giống như ngày xưa Ngài đã phú trao bình an cho các tông đồ trước khi đi thụ nạn. Nhưng sự bình an Chúa nói ở đây là bình an như thế nào?

Người ta vẫn thường nói: “Muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh”. Cũng vậy, bình an mà Chúa Giêsu ban tặng đòi hỏi các học trò phải quyết liệt đi vào cuộc chiến đầy gian nan, đó chính là cuộc chiến đấu thiêng liêng. Trong cuộc chiến gian khổ ấy, chúng ta phải chấp nhận chết để được sống, phải đi vào mầu nhiệm tự hủy để được tái sinh trong đời sống mới. Vì thế, Chúa đã nói: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không theo kiểu thế gian (c.27). Hòa bình theo cách thế gian chỉ dựa vào sức mạnh của vũ khí và tiềm lực quân sự, còn bình an mà Chúa Giêsu đem đến phát nguồn từ chính Thánh Thần. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô cũng viết: “Hướng đi của Thần khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6).

Trong lần tiếp ông Gorbachop và bà Raissa vào năm 1989, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã trao tặng ông Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ một cuốn Kinh thánh, bên ngoài đề hàng chữ ‘Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’. Đồng thời, Đức Thánh Cha cũng trao tặng bà Raissa một cỗ tràng hạt với câu cắt nghĩa ‘Nữ Vương ban sự bình an’. Ngài muốn ngụ ý nói rằng, chỉ qua Đức Giêsu chúng ta mới tìm ra con đường của sự thật dẫn đến sự sống, đồng thời bình an thật sự đến với loài người không phải dựa trên vũ khí, tiền bạc hay sức mạnh quân sự. Chúa Giêsu ban bình an cho các học trò của Ngài không theo kiểu cách thế gian. Ngài mời gọi họ hãy rộng mở tâm hồn để Thần khí tác động và luôn sẵn sàng đi vào cuộc chiến nội tâm, đặc biệt khi đứng trước viễn ảnh đen tối của Thập giá.

Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.

“Đừng sợ”. Đây là điệp khúc được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần. “Đừng sợ những kẻ giết được thân xác nhưng không làm gì được linh hồn anh em”. “Đừng sợ, ta đã thắng thế gian”... Đây không phải là một lời trấn an mang dạng thức tâm lý, vì Chúa Giêsu không bao giờ đóng vai một nhà tâm lý học đối với các môn sinh của mình. Ngài mời gọi các môn đệ can đảm đối diện trước viễn ảnh Thập giá và cái chết. Những lời Chúa nói trong Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh bữa tiệc ly trước khi đi thụ nạn. Trong bài diễn từ rất dài ấy, Chúa nhắc đi nhắc lại về nguyên lý của tình yêu, là yếu tố giúp ta thắng vượt mọi sợ hãi. Thánh Phaolô cũng đã viết: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Tình yêu sẽ giúp chúng ta thực sự lưu lại trong Chúa, Đấng hằng sống, và chính Chúa Giêsu đã mời gọi: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu Thầy” (Ga 15,9) bằng cách tuân giữ những điều Thầy truyền dạy”(c.10). Cũng thế, ngày hôm nay, Chúa cũng khẳng định rằng yêu mến Chúa chính là tuân giữ lời của Ngài (Ga 14,23).

Sợ hãi là kinh nghiệm mà chúng ta vẫn thường hay có. Người trẻ sợ tuổi già mau đến. Thanh niên khỏe mạnh sợ lúc bệnh tật hay ốm đau. Đôi trai gái yêu nhau say đắm sợ những giây phút ân ái mặn nồng vụt tan biến. Người giàu sợ sẽ đến ngày khách kiệt... Nói chung, có muôn vàn lý do để phải sợ hãi. Khi đối diện trước cái chết, chính Chúa Giêsu cũng sợ. Sự sợ hãi dâng lên tột độ đến mức mồ hôi và máu toát ra. Ngài đã lớn tiếng và rơi lệ cầu xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7), vì Ngài lo sợ, nỗi sợ theo bản tính tự nhiên của con người. Ngài sợ, vì tội lỗi của cả trần gian đang đè nặng trên đôi vai Ngài và cuối cùng dẫn đến cái chết nghiệt ngã. Nhưng khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu đã trở thành nguyên lý cho chúng ta về sự bình an để thoát vượt sợ hãi. Khi hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đến giữa lúc các ông đang ngồi co rúm lại vì sợ sệt. Chúa thổi hơi vào các ông, ban Thánh Thần và trao chúc bình an. Thánh Gioan nêu ra tất cả những chi tiết này để liên kết sự bình an với ân điển của Thần khí, hầu giúp chúng ta thoát vượt sợ hãi. Ngài còn cho các môn đệ thấy những dấu chứng về cuộc khổ nạn nơi thân xác Ngài, và đó cũng là vết tích gây nên sự sợ hãi nơi các tông đồ trước đây.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị đã khởi đầu triều đại Giáo hoàng của Ngài với thông điệp ‘Đừng sợ’. Bước vào năm thánh 2000, Ngài nhắc lại lời hiệu triệu ấy và mời gọi chúng ta, đặc biệt các bạn trẻ: “Đừng sợ. Các con hãy mở tâm hồn để cho Chúa Giêsu chiếm ngự” (Open door to Christ).

Vì thế, thoát khỏi sợ hãi không phải là một liệu pháp mang tính tâm lý, nhưng là một thái độ của đức tin, cắm sâu niềm tin vào mầu nhiệm Đức Giêsu đấng đã chết và đã sống lại.

Thành thánh Giêrusalem, quê hương của bình an đích thực.

Không phải vô tình mà Giáo hội chọn bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay trích trong sách khải huyền, đan kết với sứ điệp Chúa nói trong Tin mừng Gioan. Chúng ta được mời gọi hướng về quê hương vĩnh cửu, là thành thánh Giêrusalem trên trời, nơi chốn của bình an viên mãn. ‘Thành thánh chói lọi vinh quang Thiên Chúa và Con Chiên chính là ngọn đuốc chiếu soi thành’. Có lẽ chúng ta nghĩ rằng quê hương mai sau của chúng ta là một thực tại rất xa vời so với cuộc sống hiện sinh của ngày hôm nay. Không phải thế. Có một bài hát với ca từ rất ý nghĩa: ‘ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay’. Thành Thánh Giêrusalem mai sau đã được bắt đầu ngay từ ngày hôm nay, nếu chúng ta biết sống sung mãn trong tình yêu, kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu.

Đây không phải là nguyên tắc của lý thuyết xa vời vợi, nhưng đời sống đức tin của chúng ta phải được thể hiện cụ thể, bằng cách đi sâu vào sự kết hợp thân tình với Chúa Giêsu qua việc cầu nguyện mỗi ngày. Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta, người sẽ được tôn phong Hiển thánh vào ngày 4 tháng 9 năm nay, là một chuyên gia trong việc thực hành bác ái, đặc biệt đối với những người cùng khổ và bị bỏ rơi. Nhưng chúng ta đừng quên rằng Mẹ luôn nhấn mạnh và khuyên mời các con cái mình chuyên chăm cầu nguyện mỗi ngày. Trong cầu nguyện kết hiệp với Chúa, Mẹ đã nghe được tiếng Chúa Giêsu thét gào trên Thập giá: “Ta khát”. Khởi từ đời sống cầu nguyện, Mẹ đã hăng say lao vào những công việc bề bộn để phục vụ. Điều chính yếu không phải là chúng ta đã làm được những gì, nhưng quan trọng nhất, chúng ta đang là ai, chúng ta có thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu và có thường xuyên cầu nguyện để lưu lại trong tình yêu với Chúa hay không.

Kết luận

Chúa nói hôm nay: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy”. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch để có được bình an. Chân lý này cũng được Thánh Phanxicô Salê quảng diễn khi Ngài nói với chúng ta: “Ama et fac quod vis”, bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm.

 

5. Chúa ở bên tôi.

Có một người kia chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một khu vườn, ông ta nhìn thấy chiếc kén của một loài bướm lạ. Ông ta liền ngắt cành cây và mang chiếc kén về nhà. Ít ngày sau, ông ta thấy có nhúc nhích bên trong, nhưng con bướm vẫn chưa phá được chiếc kén để bay ra ngoài. Ngày thứ hai và ngày thứ ba ông ta đều ghi nhận được như vậy, dường như không có tí tiền triển nào. Thế là ông lấy mũi dao rạch chiếc kén cho chú bướm bò ra. Thế nhưng, ông rất thất vọng vì chú bướm chỉ sống được có một lúc rồi lăn đùng ra mà chết. Về sau, một nhà sinh vật học đã cắt nghĩa cho ông hay: Thiên Chúa đã sắp xếp để con bướm phải đấu tranh mới thoát ra được khỏi chiếc kén của mình, vì nhờ đấu tranh gian khổ nó mới được phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.

Nhà sưu tầm bướm tưởng rằng dùng lưỡi dao rạch chiếc kén thì sẽ giúp cho chú bướm được thuận lợi hơn, nào ngờ làm như thế ông ta đã huỷ diệt khả năng phát triển và sinh tồn của chú bướm.

Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào cuộc sống hằng ngày. Thực vậy có những lúc chúng ta cảm thấy như gánh nặng cuộc đời với những khổ đau và bất hạnh đè xuống trên đôi vai nhỏ bé của chúng ta. Còn Thiên Chúa chúng ta tin yêu thì lại vắng bóng hay lánh mặt.

Chẳng hạn: trước đây chúng ta đã từng cảm nghiệm được sự bình an và hạnh phúc mỗi lần cầu nguyện, thế mà bây giờ chúng ta lại chán ngán. Hoặc lúc trước, chúng ta đã từng cảm thấy đức tin thật mạnh mẽ, khả dĩ có thể dời núi chuyển non, thế mà giờ đây, dường như nó không nhắc nổi một viên sỏi nhỏ. Chúng ta cảm thấy Chúa như bỏ rơi và không còn yêu thương chúng ta nữa.

Thực ra Chúa vẫn luôn yêu thương chúng ta, nhưng Ngài cũng biết rằng đã đến lúc chúng ta cần khởi đầu một giai đoạn mới để được trở nên trưởng thành. Chẳng hạn như đã đến lúc chúng ta phải nhận ra rằng việc cầu nguyện không hệ tại những cảm xúc riêng tư. Và trong những lúc tâm hồn bị chai cứng thì chúng ta lại càng phải cầu nguyện và lời cầu nguyện trong một hoàn cảnh như thế lại thường là lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất. Chính Chúa cũng đã xác quyết qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.

Đã đến lúc chúng ta phải hiểu rằng đức tin không chỉ là một cảm giác mà là một dâng hiến, một phó thác, một xin vâng với Chúa. Chúng ta chẳng khác gì chú bướm trong câu chuyện vừa nghe. Thiên Chúa muốn chúng ta phải đấu tranh gian khổ để nhờ đó chúng ta được tiến triển về phương diện thiêng liêng. Vào một thời điểm nào đó, chúng ta phải cố gắng, phải nỗ lực trong gian nan cực khổ. Trong những giây phút đen tối ấy, Chúa vẫn ở bên chúng ta, nâng đỡ chúng ta để đức tin của chúng ta được trở nên vững mạnh và tinh ròng hơn.

 

6. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Ðề: Ơn ban của Chúa Giêsu phục sinh: Đấng Phù Trợ, Bình an. tình yêu.

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta sẽ nghe những lời Chúa Giêsu nói trước khi Ngài ra đi chịu chết. Ngài bảo chúng ta hãy tuân giữ những huấn lệnh của Ngài. Ngài hứa ban Thánh Thần cho chúng ta và ban bình an cho chúng ta.

Đó chính là những lời trăn trối của Chúa, những điều Ngài tha thiết nhất. Chúng ta hãy chăm chỉ lắng nghe và cố gắng thực hiện.

II. Gợi ý sám hối

Chúa đã nói "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy". Chúng ta chưa yêu mến Chúa thật vì chúng ta không tuân giữ Lời Chúa.

Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Nhưng chúng ta nhiều khi không sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Chúa đã ban bình an cho chúng ta. Nhưng chúng ta nhiều khi không sống bình an hòa thuận với nhau.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Cv 15,1-29)

Đang khi Phaolô và Barnaba truyền giáo cho dân ngoại, thì những người Do Thái từ Giêrusalem đến buộc dân ngoại tòng giáo phải cắt bì và tuân giữ lề luật của Môsê. Hai vị truyền giáo không đồng ý nên trình vấn đề lên Hội Thánh.

Hội Thánh đã họp hội nghị ở Giêrusalem và ra quyết định: "Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm".

2. Tin Mừng (Ga 14,23-29)

Có thể coi đoạn Tin Mừng này là một bài giáo lý về Chúa Ba Ngôi: Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nhắc tới cả 3 ngôi Thiên Chúa: "Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ.... Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến... Đấng Phù Trợ, là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con".

Như thế, giáo lý cơ bản về Ba Ngôi là:

Chúa Cha là Đấng sai Chúa Con đến với loài người

Chúa Con vâng lời Chúa Cha đến với loài người để dạy loài người những lệnh truyền

Chúa Thánh Thần lại được Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, để dạy loài người hiểu sâu hơn những lệnh truyền của Chúa Con.

Thái độ con người phải có đối với Ba Ngôi:

Yêu mến Chúa Con nên tuân giữ những điều Ngài dạy.

Chúa Thánh Thần sẽ giúp đỡ họ làm điều đó

Kết quả: Ba Ngôi sẽ "yêu mến", "tỏ mình ra" và "ở trong" người ấy.

3. Bài đọc II (Kh 21,10-23)

Một thị kiến khác về Thành Giêrusalem mới:

Thành từ trên trời ngự xuống

Rất xinh đẹp và tươi sáng

Thành không có đền thờ vì chính Thiên Chúa là đền thờ của thành; thành cũng không có mặt trời và mặt trăng vì chính Thiên Chúa là ánh sáng của thành.

IV. Gợi ý giảng

1. Bình an

Trong triều của một vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: "Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai người là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an".

Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong. nhà vua nói: "Bức họa này rất đẹp, nhưng nó làm ta buồn ngủ quá". Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: "Đây đâu phải là một cảnh bình an". Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: "Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem". Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà nảy giờ ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: "Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời". Và nhà vua đã đặt tác giả của nó là người họa sĩ hạng nhất của triều đình.

Chúa Giêsu đã nói: "Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con không theo kiểu thế gian. Lòng các con đừng xao xuyến, các con đừng sợ hãi." Những lời này Ngài nói giữa bữa Tiệc ly. Phải chăng đây là một thời điểm không thích hợp để nói về bình an, vì khi ấy hoàn cảnh bên ngoài rất là xáo trộn? Không, trái lại rất thích hợp. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.

Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.

Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.

Đó chính là thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng được. (FM)

2. Hiện diện của kẻ vắng mặt (Ga 14,23-29)

Có một nhà chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một công viên, ông đã gặp tổ kén lạ. Ông liền bứt cành cây đem kén bướm về nhà. Ít ngày sau, ông thấy nhúc nhích bên trong kén, nhưng con bướm vẫn chưa phá kén bay ra.

Hôm sau, kén lại nhúc nhích, nhưng chẳng có gì khác lạ. Lần thứ ba, vẫn thấy như trước, ông liền lấy dao rạch kén, thế là con bướm bò ra ngoài. Tuy nhiên, bướm không tăng trưởng và chẳng bao lâu thì chết.

Sau này, ông được người bạn là nhà sinh vật học cắt nghĩa như sau: Thiên nhiên đã xếp đặt cho con bướm phải đấu tranh mới thoát ra khỏi cái kén, vì nhờ đấu tranh gian khổ mà nó có thể phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.

***

Muốn làm cánh bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, bướm phải làm kiếp sâu lặng lẽ, cô tịch trong vỏ kén lặng lờ, khuất nẻo. Muốn làm con bướm bay trong bầu trời xanh ngắt, bướm phải là con sâu đen đủi xấu xa, vặn vẹo đau đớn trong tổ kén đợi chờ.

Để trở nên những tín hữu Kitô vững mạnh, tăng triển về đường thiêng liêng, chúng ta phải trải qua một thời kỳ gian khổ để tiến triển về mặt tâm linh, chúng ta cũng phải vượt qua đấu tranh thử thách. Nhưng trong những thời điểm ấy, Thiên Chúa luôn bên cạnh chúng ta, cho dù chúng ta không nhìn thấy Người.

Lúc sắp sửa ra đi, để trấn an các tông đồ, Chúa Giêsu đã hứa rằng, dù vắng mặt, nhưng Người vẫn luôn hiện diện giữa các ông và ban bình an cho các Ông. Sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có những kẻ yêu nhau mới nhận ra mà thôi. Từ sau biến cố Phục Sinh, Chúa Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại.

Người hiện diện trong những kẻ yêu mến Người: "Ai yêu mến thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy" (Ga 14,23).

Người hiện diện trong những kẻ thực hành và giữ lời Người: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy" (Ga 23,24).

Người hiện diện không chỉ đơn độc, nhưng là hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ lời Người.

Nếu Chúa Cha chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình, thì Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng, hành động để cứu chuộc con người; và Thánh Thần cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Chúa Giêsu và Chúa Cha.

Vì thế, Thánh Thần sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa cho con người, khi soi sáng dạy dỗ con người dần dần hiểu Lời Thiên Chúa, Lời đó chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha: "Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14,26).

Với lời hứa này, kể từ ngày lễ Hiện Xuống đầu tiên, Thánh Thần đã soi sáng và hướng dẫn Giáo hội hiểu thấu triệt Lời Chúa trong Kinh Thánh, để trình bày một cách sáng tỏ hơn, và để giải quyết những vấn đề mới mẻ cho từng thời đại. Vì thế mà các Công đồng liên tiếp được triệu tập dưới sự bảo trợ của Thánh Thần.

***

Lạy Chúa Ba Ngôi, xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người trong lòng chúng con, trong lòng Giáo hội, và trong lòng thế giới:

Để chúng con luôn yêu mến và tuân giữ Lời Người.

Để chúng con được soi sáng và hướng dẫn bởi Thánh Thần.

Và để chúng con được canh tân và tái tạo mỗi ngày trong Thiên Chúa Tình Yêu. Amen. (Thiên Phúc)

3. "Nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy"

Sau khi tha thiết nói với các môn đệ những lời thân tình nhất xuất phát từ đáy lòng trong một bài nói chuyện dài mà thánh Gioan đã chép lại suốt trong hai chương 13 và 14, Chúa Giêsu đúc kết lại trong một lời khuyên ân cần: "Nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy". Giữ lời Chúa là giữ lời nào? Thưa là giữ chính cái điều mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt hai chương 13 và 14 này "Chúng con hãy yêu thương nhau.

Thế nhưng, yêu thương thì có gì là khó đâu mà Chúa phải dạy, phải nhắc và phải nhấn mạnh như là một giới răn mới của Chúa, một lời trối trăn cuối cùng trước khi Ngài ra đi chịu chết? Bởi vì tự trong bản tính, con người có sẵn nhu cầu tình cảm muốn yêu thương: mới sinh ra tự nhiên đức bé thèm khát tình thương của cha mẹ, lớn lên người thanh niên nam nữ tự nhiên muốn yêu thương một người nào đó, và suốt đời ai cũng muốn sống trong tình yêu thương cho đến chết. Yêu thương là việc tự nhiên, là quá dễ dàng, cần gì Chúa Giêsu phải dạy dỗ?

Chúng ta đừng coi thường Lời Chúa, mà phải phân biệt rõ những mức độ yêu thương, và tìm hiểu xem Chúa muốn ta yêu thương như thế nào.

- Yêu thương có khi là một điều quá dễ: Người ta sung sướng khi yêu thương, người ta ham thích yêu thương, người ta thèm khát yêu thương và người ta làm đủ cách để được yêu thương. Thí dụ như một đức bé mồ côi thèm khát tình yêu thương của cha mẹ; hay một người tuổi trẻ thèm khát tình yêu thương của một người tình. Sở dĩ yêu thương mà thích, mà sung sướng là vì yêu thương ở mức độ này có nghĩa là đón nhận: nhận được những sự chăm sóc, chiều chuộng, vuốt ve, âu yếm.

- Yêu thương có khi là một điều hơi khó, người ta phải hơi cố gắng mới yêu thương được. thí dụ tôi thương một người bạn. Người bạn đó mượn tôi một số tiền hay nhờ tôi làm giúp một công việc khó khăn. Tôi hơi tiếc, hơi ngại nhưng vì yêu thương bạn mà tôi cố gắng đưa tiền, cố gắng chịu cực để giúp bạn. Yêu thương ở mức độ này có nghĩa là chi đi, cho đi một phần của những gì mà tôi quý chuộng.

- Và sau cùng, yêu thương có khi là một điều hết sức khó, vì yêu thương mà người ta phải đau khổ, phải hy sinh thật nhiều. Thí dụ nàng Kiều vì thương cha già sắp lâm vòng tù tội mà phải bán mình để chuộc cha. Yêu thương ở mức độ này có nghĩa là phải cho đi hoàn toàn, cho đi tất cả.

Tóm lại có ba mức độ yêu thương:

Yêu thương rất dễ khi được đón nhận.

Yêu thương hơi khó khi phải cho đi một phần những gì mình quý giá.

Và yêu thương hết sức khó khi phải cho đi hoàn toàn, hy sinh tất cả.

Khi trối "chúng con hãy yêu thương nhau", Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu thương ở mức độ thứ ba này.

Chúa nói "nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy". Mà Lời của Thầy là "chúng con hãy yêu thương nhau", yêu thương ở múc độ cao nhất là dám cho đi tất cả, hy sinh hoàn toàn. Chúng ta có vâng giữ Lời Chúa để tỏ ra chúng ta yêu mến Chúa hay không?

Trước hết trong gia đình, giữa vợ chồng với nhau. Ôn lại cuộc sống gia đình, hẵn nhiều vợ chồng người thấy rằng đã có một thời vợ chồng đã yêu thương nhau say đắm, hầu như lúc nào cũng quấn quít bên nhau. Đó là thời kỳ đầu tiên, yêu thương là quá dễ vì khi đó yêu thương là đón nhận, nhận những nét duyên dáng, nhận những cảm xúc bồng bột mà tuổi trẻ đang thèm khát. Sau đó tới một thời vợ chồng không còn quá say đắm nhau nữa mà phải đối diện với thực tế của cuộc sống gia đình: phải làm lụng cực nhọc, phải chịu đựng những tính ý khác biệt của nhau... Khi đó thì đã thấy hơi cực, hơi khó rồi. Nhưng vì thương vợ thương chồng mà họ cố gắng chịu cực, chịu khó. Tình yêu như thế là đã lên đến mức độ hai: yêu thương là cho đi. Thế nhưng có một số vợ chồng càng về già càng chán ngán nhau: vợ thì bệnh hoạn quanh năm suốt tháng, chồng thì lẩm cẩm khó tính hay chửi bới cộc cằn. Sống chung với một người như thế chẳng còn thấy một chút thú vị mà chỉ toàn bổn phận, cực nhọc, khổ sầu. Cuộc sống lúc này đang mời gọi những vợ chồng ấy đưa tình yêu thương của mình lên mức độ thứ ba, mức độ cao nhất, là mức độ cho đi hoàn toàn, hy sinh tất cả. Hãy cố gắng hy sinh cho nhau thì mới là yêu thương thật, mới là làm theo lời Chúa dạy "chúng con hãy yêu thương nhau".

Bây giờ chúng ta hãy nhìn đến liên hệ của mình với những người khác. Thì cũng thế: có những người mình yêu thương thật dễ, đó là những người có lợi cho mình, hay giúp đỡ mình, hay an ủi mình. yêu thương những người này dễ vì yêu thương là đón nhận. Có những người khác yêu thương họ mình thấy có khi dễ có khi khó vì họ có khi làm mình vui có khi khiến mình buồn, nhưng mình vẫn cố gắng thương họ được, vì yêu thương họ mình vừa được đón nhận mà vừa phải cho đi. Nhưng có những người chẳng mang lại cho mình lợi lộc gì cả mà chỉ toàn làm cho mình cực lòng, mất mát, khổ đau, thí dụ như những người nghèo, những người bệnh, những người tội lỗi, những kẻ thù... Nhưng xin được lưu ý rằng chính đây là những người Chúa muốn ta yêu thương, Chúa muốn ta hy sinh, Chúa muốn ta cho đi hoàn toàn. Chúa đã nói " nếu chúng con chỉ yêu thương những kẻ mến chuộng mình thì nào có công gì? Những người thu thuế há không làm như thế sao?

Yêu thương mới xem ra thì quá dễ. Hay nói đúng hơn yêu thương theo khuynh hướng tự nhiên thì quá dễ, vì theo tự nhiên người ta chỉ yêu thương khi được đón nhận, chỉ yêu thương những ai có lợi cho mình.

Nhưng yêu thương cho đúng nghĩa, yêu thương đúng như ý Chúa muốn thì lại hết sức khó, vì đòi hỏi ta phải cho đi, phải hy sinh, đòi ta phải yêu thương cả những người không có lợi cho ta mà còn làm khổ ta.

Nhưng đó là mức độ yêu thương cao nhất, có yêu thương được như vậy thì mới là làm theo Lời Chúa. có làm theo Lời Chúa thì mới là yêu mến Chúa thật.

Xin Chúa giúp chúng ta biết cho đi, biết hy sinh để thực sự yêu thương như Chúa muốn trong tương quan giữa vợ chồng con cái trong gia đình, cũng như trong tương quan giữa chúng ta với mọi người khác.

4. Để cho đi

Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ hai Ngài sắp ra đi. Chẳng lạ gì khi các ông buồn. Họ không muốn Ngài ra đi. Họ muốn giữ Ngài lại mãi bên họ. Thật không dễ chịu chút nào khi một người thân yêu ra đi. Cũng không dễ chịu gì khi để mất đi một món đồ hay một con vật mà mình yêu thích.

Một cậu bé nhìn thấy một chú chim non rơi từ chiếc tổ trên cành xuống nằm trên mặt đất. Cậu lượm nó lên, sưởi ấm nó. Một lát sau chú chim tỉnh dậy. Nhưng thay vì đặt chú chim trở về tổ, cậu đem nó để trong một chiếc lồng. Hằng ngày cậu mang cho nó rất nhiều thức ăn và nước. Chú chim ngày càng khoẻ mạnh. Nó bắt đầu bay và hót. Cậu bé rất thích. Nhưng một hôm chú chim cứ đập cánh xành xạch vào thành chiếc lồng. Cậu bé không hiểu nên hỏi cha mình. Người cha giải thích:

- Tại vì nó không hạnh phúc đó.

Cậu bé cãi lại:

- Con đã đặt vào lồng cho nó tất cả những gì nó cần rồi kia mà.

- Nhưng vẫn còn thiếu cái điều mà chim yêu quý nhất.

- Điều gì?

- Đó là tự do.

- Bộ cha muốn con thả cho nó đi sao?

- Đúng thế.

- Nhưng con không thể cho nó đi. Nó đâu có biết là bên ngoài chiếc lồng này có rất nhiều hiểm nguy đang rình rập nó.

- Nhưng con phải chấp nhận như thế.

Cậu bé nài nỉ:

- Cha ơi, con thương nó lắm.

- Nếu con thương nó thì con phải để cho nó đi.

Cậu bé đành mở cửa lồng cho chú chim bay đi. Lòng cậu rất buồn. Nhưng chú chim vừa ra khỏi lồng đã cất tiếng hót líu lo, tỏ vẻ như trước đây chưa bao giờ vui vẻ và hạnh phúc như thế. Khi đó cậu bé không buồn nữa mà cảm thấy vui lây.

Các tông đồ không muốn Chúa Giêsu ra đi. Nhưng như thế là các ông không biết nghĩ cho Chúa mà chỉ nghĩ cho mình. Chúa Giêsu biết thế nên mới nói: "Nếu các con yêu mến Thầy thì các con hẳn vui mừng vì Thầy về cùng Cha Thầy". Về cùng Cha, đó là mục tiêu cả đời của Chúa Giêsu.

Tình yêu chiếm hữu thì rất thông thường. Nhiều cha mẹ cũng thương con kiểu đó. Họ đã ban sự sống cho chúng, nhưng họ không để cho chúng phát triển sự sống của chúng theo cách của chúng. Nhiều cặp vợ chồng cũng vậy. Họ cứ muốn người vợ hay người chồng của mình sống theo cách sống của mình.

Tình yêu chiếm hữu gây ra rất nhiều đau khổ. Còn tình yêu không chiếm hữu thì phát sinh nhiều điều kỳ diệu cho cả hai phía, chẳng hạn: đổi mới, lớn lên, phát triển v.v.

Phải biết để cho những người hoặc những gì mình yêu thích ra đi. Làm như thế quả là mất mát đấy. Nhưng mất cái hiện tại để được cái tương lai, mất điều mình yêu quý mà sẽ được điều đáng quý hơn. Bởi vậy, trước khi ra đi, Chúa Giêsu đã nói: "Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy nếu Thầy không ra đi thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con" (Ga 16,17) (FM)

5. Bình an nội tâm

Có người cứ nuôi mãi thù hận nên trong lòng không có bình an. Ngược lại, người có bình an trong lòng thì cuộc sống vui vẻ hạnh phúc.

James và John là hai người láng giềng của nhau. Ruộng của họ nằm sát bên nhau. Năm đó thời tiết khô hạn nên việc cày bừa rất vất vả. James rất khó chịu. Anh cứ lấy roi quất lia quất lịa lên con ngựa đang kéo cày. Nhưng càng bị quất thì con ngựa càng tỏ ra bướng bỉnh. James biết rằng lúa mì trong mảnh ruộng người hàng xóm cao hơn lúa của anh. Mỗi khi nhìn sang mảnh ruộng ấy, anh có cảm tưởng là anh chàng hàng xóm đang nhạo cười mình.

John thì trái lại. Dù cũng vất vả nhọc nhằn, nhưng anh luôn bình thản và cứ kiên trì trong công việc. Thỉnh thoảng anh ngừng lại cho con ngựa được nghỉ ngơi. Anh nhìn sang ruộng của James và thấy rất tệ. Anh muốn sang giúp lắm nhưng biết rằng anh kia sẽ không bao giờ chịu. Thôi thì đành để James làm một mình vậy.

Điều khác biệt giữa hai người láng giềng này không phải ở tình hình bên ngoài mà ở tình trạng nội tâm. Chúng ta nhìn thế giới và tha nhân không phải như cái họ là, mà như cái ta là. Vì tâm hồn của John vui vẻ nên anh nhìn đời một cách lạc quan. James thì trái lại, bởi nội tâm bất an nên nhìn cái gì bên ngoài cũng khó chịu. (FM)

6. Chuyện minh họa

Ngày 8.10.1952, một vụ án xảy ra tại Bavière, một thiếu nữ 18 tuổi tên là Emma bị thảm sát cách tất tưởi. Chuyến xe lửa vừa tới nhà ga, các chị em đồng hành ngạc nhiên vì không thấy Emma đâu, nên báo cho "Ông Xếp" nhà ga hay tin. Thế là lập tức các nhân viên hỏa xa chia nhau đi tìm kiếm doc theo đường xe lửa suốt hai tiếng đồng hồ mới phác giác ra xác Emma đang nằm xõng xượt trong vũng máu, chân tay bị chặt cụt.. Xếp ga mở cuộc điều tra. Tất cả mọi người hành khách bị thẩm vấn đều trả lời là không biết gì cả. Trong số đó có một chàng thanh niên 24 tuổi. Khi được hỏi thì anh trả lời ấp úng là không biết gì cả. Nhưng vì có vẻ ngây ngô thành thật nên người ta cũng bỏ qua.

Hai tuần sau, chàng trai này đến gõ cửa Tu viện các Cha dòng Bênêđitô xin nhập Dòng. Anh được nhận. Sau hai năm thử luyện thấy không có gì ngăn trở, Bề Trên nhận anh vào Tập viện. Khoảng tháng 10, trước ngày vào Tập viện, anh đến chỗ đường sắt nơi đã tìm thấy xác Emma nằm trong vũng máu. Anh quỳ chắp tay cầu nguyện. Ngày hôm sau, lúc sáng sớm tinh sương, anh tới mồ Emma, người mà chính anh đã giết chết. Anh đã la lên trong tiếng khóc nức nở: "Tôi không chịu được nữa". Rồi anh đi tự nộp mình cho cảnh sát và thú tất cả tội lỗi của anh. Cái tội mà người ta đã quên đi vì không điều tra manh mối gì. Anh thú nhận là anh đã xô Emma xuống và đâm chết vì nghe cô ta nói là cô ta không biết đến anh nữa. Vì thế nên anh đã nổi cơn điên nên đã hành động độc ác như thế.

Câu truyện trên cho chúng ta thấy, dù bốn bức tường kín nơi Tu Viện cũng không trấn an được tiếng lương tâm ray rứt, không làm cho người thanh niên phạm tội ác được bình an tâm hồn, cho dầu không một ai hay biết tội lỗi của anh ta.

Vậy muốn được bình an hạnh phúc thật, con người cần phải có tâm hồn trong sạch, sống trong ơn nghĩa Chúa. Tâm hồn biết hối cải, biết sống nhân từ, biết yêu thương và tha thứ, như chính Chúa đã làm gương và dạy chúng ta noi theo bắt chước. (Lm Minh Vận, CMC. Trích Vietcatholic ngày 2.5.2003)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thánh thần là Đấng soi sáng, hướng dẫn và nâng đỡ đời sống đức tin của người Kitô hữu. Vì thế, chúng ta cùng khẩn cầu Thiên Chúa ban Thánh thần cho chúng ta:

1. Con thuyền Hội thánh không bao giờ chìm dù gặp phong ba bão táp liên miên / là nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh thần / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh thần luôn gìn giữ các vị mục tử / để các ngài lèo lái con thuyền Hội thánh đến bình an.

2. Phúc thay ai xây dựng hòa bình / vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết chân thành cộng tác với mọi người thành tâm thiện chí / để mưu tìm hòa bình cho thế giới hôm nay.

3. Chúa Giêsu nói: / Thầy để lại bình an cho anh em / Thầy ban cho anh em phúc bình an của chính Thầy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp khủng hoảng trong cuộc sống / tìm được sự bình an thanh thản nơi tâm hồn / nhờ tín thác vào Chúa.

4. Chúa Giêsu nói: / Ai yêu mến Thầy / thì sẽ giữ lời Thầy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn hết lòng tuân giữ mọi Lề Luật của Chúa / để tỏ lòng yêu mến Người.

Chủ tế: Lạy Chúa, xin ban Thánh thần là nguồn mạch tình yêu xuống cho chúng con, để Người giúp chúng con luôn sống bác ái yêu thương như Chúa đã dạy. Chúng con cầu xin

VI. Trong Thánh Lễ

- Sau kinh Lạy Cha: Đọc chậm rãi và tâm tình lời nguyện "Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói với các tông đồ rằng Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con..."

VII. Giải tán

Chúa Giêsu đã nói: "Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con "Chúc anh chị em ra về bình an.

 

7. Tại sao lại tỏ mình ra cho con?

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Trong bài diễn từ tiễn biệt rất dài (từ cuối chương 13 cho tới hết chương 17 của Phúc âm Gioan) Đức Giêsu đã mất nhiều công sức để chấn an các môn đệ Người; chắc hẳn lúc đó các ông đang trong rơi vào tình trạng rất bồn chồn lo lắng, tương tự như một nhóm học sinh gần tới ngày ra trường phải ôn thi: các ông mong ghi nhớ hết mọi lời Thầy dạy, nhớ tới từng chi tiết, nhưng lại có nguy cơ quên mất điểu hệ trọng chính yếu nhất; và điều chính yếu đó không phải là những bài học từ chương về các điều Thầy dạy dỗ, nhưng là bộc lộ bản chất đích thực của Thầy Giêsu – Lời tối hậu của Thiên Chúa. Việc bộc lộ này rõ ràng chỉ dành cho các môn đệ là những người thâm tín đã theo Thầy suốt bằng ấy năm: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Nếu nắm bắt được nội dung lời trăn trối này, chúng ta sẽ có cơ may thấu hiểu được cái cỗi lõi của niềm tin Ki-tô hữu chăng?

Nắm giữ Lời là điều tối quan trọng trong việc duy trì tương quan với Thầy Giêsu, kể cả khi Người đã ra đi: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy…Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy”. Lời đó chắc chắn không chỉ đơn thuần là các bài thuyết giảng mà Người đã từng tuyên giáo trên khắp các nẻo đường xứ Ga-li-lê và Giu-đê trong ròng rã ba năm trời; trong số đó có những bài thật ý nhị và độc đáo, chẳng hạn bài bàn về các mối phúc hay các câu chuyện dụ ngôn…; thế nhưng, cho dầu có tuân giữ được mọi lời Ráp-bi Giêsu giảng dạy đi nữa, thì điều đó cũng đâu có thể làm cho “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Lời đây hẳn là một điều gì rất đặc biệt mà Người đã từng khảng định: “không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”. Lời mà Người nhân danh Chúa Cha đến trần gian để nói lên cho bằng được, và chỉ có thể nói cho các môn đệ thâm tín nhất là những kẻ đã tin theo Người mà thôi.

Tuy nhiên Lời này sẽ không hề dễ hiểu, ngay cả đối với các môn đệ! Hồi đó, cho tới lúc Thầy Giêsu sắp ra đi, các môn đệ vẫn luôn cảm thấy khó chấp nhận bài học này: mỗi lần Thầy Giêsu đề cập tới sự tự hiến Thập Giá và đau khổ mà Người sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem, không một ai trong số họ không lớn tiếng phản đối, can ngăn. Nhất là khi Người khảng định: ai nhìn thấy Thầy tự hiến là nhìn thấy Chúa Cha, nhìn thấy vinh quang đích thực của Cha… thì không một môn đệ nào có thể hiểu nổi (xem Ga 14:8-11). Đức Giêsu biết rất rõ điều đó; cần phải có một can thiệp đặc biệt, can thiệp của Thần Khí; các môn đệ cần tới một đấng Bảo Trợ, Đấng “sẽ được sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Phải, để hiểu được Lời của Giêsu Thập Giá, hiểu được Tình Yêu tự hiến và cứu đô của Thiên Chúa, dứt khoát cần tới sự can thiệp của Thánh Thần. Người thường thì chỉ có thể hiểu được các lời khuyên dạy, các câu chuyện dụ ngôn, các lời dạy dỗ đầy khôn ngoan từ miệng Ráp-bi Giêsu phán ra, nhưng để hiểu chính con người và hành động của Giêsu Ki-tô là Lời của Thiên Chúa, nhất là khi Lời đó được vang lên, không phải trên bục giảng mà là trên Thập Giá, thì trí khôn con người, cho dầu có xuất chúng tới mấy đi nữa (kể cả bộ óc kỳ tài như Albert Einstein chẳng hạn), cũng không thể nào nắm bắt được.

Ồ, thật vậy sao? Ngay cả một Linh mục lớn tuổi như tôi mà vẫn cứ đinh ninh rằng: để hiểu và giữ lời Chúa thì chỉ cần một chút thông minh, một chút thiện chí; và thông minh - thiện chí cũng là điều tôi vẫn thường lớn tiếng đòi kêu gọi anh chị em tín hữu phải có. Có lẽ chính vì thế mà, cho tới giờ này, tôi có thấu hiểu gì về Lời Tình Yêu - Thập Giá đâu… và các giáo hữu nghe tôi giảng có lẽ cũng chẳng hiểu được gì hơn! Tôi chăm chú suy tư, lo đọn bài giảng hơn là dành thời giờ cầu nguyện, lo trình bày cho khôn khéo hơn là tin tưởng vào tác động của Đấng Bảo Trợ đang ngự trong tâm hồn các tín hữu; trên tòa giảng, tôi lo tạo ấn tượng trên các thính giả của mình, hơn là tìm cách đóng trên họ dấu ấn của Thần Khí.

Và dấu ấn của Lời đó trong Thần Khí thì thật rõ ràng: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi… Thầy để lại bình an cho anh em… Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”. Lời Thầy Giêsu – Lời Thiên Chúa xót thương không bao giờ là lời đe dọa; Lời đó không tạo áp lực ép buộc, cũng chẳng tạo căng thẳng lo âu! Lời Thầy Giêsu sẽ luôn lan tỏa an bình, thư thái cho cả những tâm hồn đã phạm phải những tội tầy trời nhất; “Ta không kết án, hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa!” Nếu vậy, tôi - một linh mục của Đức Ki-tô có thật sự mang Lời bình an này tới tâm hồn mọi tín hữu, nhất là những tâm hồn chìm đắm trong tội lỗi đang rất cần tới Lời an ủi hơn bất cứ điều gì khác? Và để làm được điều đó: không một ai khác có thể giúp tôi, hơn là Thánh Thần, Đấng ủi an.

Lạy Chúa Giêsu là Lời đích thực của Thiên Chúa Cha giầu lòng xót thương, xin đổ Thần Khí xuống trên con, để con hiểu được Lời Tình Yêu, nhất là mỗi khi con cử hành Thánh Lễ. Nếu chính con chưa một lần hiểu và giữ được Lời Tình Yêu đích thực, nhất là qua biểu lộ của Thánh Thể - Thập Giá, thì làm sao con có thể mở miệng loan truyền Lời Chúa cho anh chị em tín hữu? Có thể con đã giảng lời Giêsu quá nhiều, nhưng đã giảng Lời-Chúa quá ít. Xin chỉnh đốn tình trạng thiếu xót trầm trọng này nơi con! Xin đổ tràn ngập tâm hồn con thứ bình an độc đáo của Chúa, phát xuất từ cảm nghiệm bản thân về lòng Chúa Xót Thương, để con - linh mục của Chúa cũng có thể loan báo và thông truyền Tin Mừng đầy an ủi này cho mọi người, nhất là cho các tội nhân bất hạnh và bị đọa đầy. Amen.

 

8. Ở lại trong tình yêu Chúa

"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy".

Trong cuộc sống, người ta thường dùng những hành động cụ thể để nói lên mức độ của lòng yêu mến. Chỉ cần nhìn thấy những người mẹ hy sinh nhịn đói, chịu khó để lo cho con cái được ấm no, được ăn học thành tài, là mọi người cũng hiểu được tình thương như trời bể, mà các bậc cha mẹ đã dành cho con mình. Vì thế, Thánh Augustinô còn nói: "Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ".

Hiểu như vậy, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng cần được biểu thị bằng một dấu chỉ, hay bằng một hành động thật cụ thể. Dấu chỉ đó Đức Giêsu muốn chúng ta chính là sự vâng giữ lời của Người, cụ thể là chúng ta đã nghe: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy...". Yêu mến Chúa, là trở nên giống Chúa, là tuân giữ lời Chúa, là làm theo điều Chúa muốn, và Chúa còn muốn mỗi người chúng ta phải hành động yêu thương thật sự cụ thể trong cuộc sống hằng ngày.

Trong Cựu ước, tác giả sách Thánh vịnh 119 viết rằng: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi" (Tv 119, 105). Thật vậy, Lời Chúa là chân lý, là ánh sáng, là sự thật, bởi vì, Lời Chúa chứa đựng đạo lý và chứa đựng thánh ý của Thiên Chúa. Vì thế ở lại trong Lời Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa và sống theo ý Chúa.

Con người chỉ là một tạo vật được Thiên Chúa dựng nên. Một tạo vật chỉ có giá trị khi thực hiện theo ý của người tạo ra nó. Đời sống con người chỉ có ý nghĩa khi sống theo ý muốn của Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình. Đó là sống theo bản vẽ mà Thiên Chúa đã thiết kế cho cuộc đời của mỗi người. Chính vậy, con người chỉ đạt được tự do đích thực là đón nhận ý Chúa và thi hành ý Chúa mỗi ngày. Chạy theo ý riêng của mình đồng nghĩa với việc đánh mất ý nghĩa của cuộc đời mình.

Lời Chúa cho mỗi người chúng ta biết sự thật về chính bản thân mình, biết sự thật và cùng đích về con người và cùng đích của cuộc đời. Biết sự thật về mình là biết những giới hạn yếu đuối, biết về thân phận nô lệ tội lỗi của mình để rồi hoán cải và trở nên hoàn thiện như "Cha trên trời là Đấng hoàn thiện". Biết sự thật về con người là biết mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, ý nghĩa và cùng đích của đời mình là con người được dựng nên để sống cho Thiên Chúa, phụng sự Thiên Chúa và yêu mến Thiên Chúa. Biết sự thật còn là biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đã xuống trần gian để giải thoát con người khỏi tội lỗi, cho con người được tham dự vào sự sống thân linh của Thiên Chúa. Nhận biết Đức Giêu là Thiên Chúa để đến với Ngài, tin Ngài và đi theo Ngài.

Ở lại trong Lời Chúa là sự kiện tiên quyết xác định ý nghĩa cuộc sống của người thuộc về Chúa. Lẽ sống của người theo Chúa, của người môn đệ Chúa cần phải biết ý Chúa, thi hành ý Chúa như người "đầy tớ làm theo ý người chủ của mình". Đó là người lắng nghe tiếng Chúa và nhận biết ý Chúa trong những sự kiện, những biến cố. Đó là tìm kiếm sự thật ẩn tàng trong Lời Chúa, suy gẫm những gì Chúa nói và nhận ra ý nghĩa của Lời Chúa được sáng tỏ trong cuộc sống hằng ngày. Như thế, việc nghe Lời Chúa và thi hành ý Chúa mới thông hiểu được sự thật và sống trong tự do.

Vì vậy, sống theo ý Chúa thì con người không còn sợ hãi, vì khi làm bất cứ việc gì thì có Chúa cùng thực hiện, khi chọn Chúa là chủ của mình, chúng ta không còn bị dính bén bởi những tạo vật, không bị nô lệ bởi những đam mê bất chính. Sống theo ý Chúa còn là mình để chọn Chúa. Đó là bỏ đi cái tôi ích kỷ sống yêu thương, bỏ đi cái tôi danh vọng để khiêm tốn để chấp nhận mình và đón nhận người khác, bỏ đi cái tôi hưởng thụ để hy sinh để phục vụ. Hơn nữa, sống theo ý Chúa thì không sợ những dư luận của người đời, không bị chi phối bởi khen chê, được mất, sướng khổ và sống chết.

Nhìn lại cuộc sống thường ngày, chúng ta sẽ thấy có một điều hết sức tự nhiên, đó là khi yêu mến ai, chúng ta thường cố gắng bằng mọi cách để làm vui lòng người đó. Và một trong những cách chúng ta thường thực hiện để làm vui lòng người mình yêu mến, đó là cố gắng nhanh chóng thực hiện mọi ý muốn của người đó. Cứ quan sát các một đôi bạn trẻ đang yêu nhau, chúng ta thấy họ luôn muốn làm đẹp lòng nhau, họ luôn để ý đến nhau, chỉ cần phát hiện một ánh mắt, một cái nhíu mày, một cử chỉ, hay một ý muốn nào đó của người này, thì lập tức người kia sẽ cố gắng thực hiện cho bằng được. Như vậy, một đứa con không thể nói rằng nó yêu cha mến mẹ, mà nó cứ luôn làm cho cha mẹ nó buồn, luôn làm những điều mà cha mẹ nó không muốn; cũng không thể có một người chồng luôn miệng nói với vợ rằng anh yêu em, mà ngày nào cũng đánh vợ, rượu chè say sưa; cũng không thể có một người vợ nói với chồng là em yêu anh, rồi hằng ngày cứ bỏ bê nhà cửa, bỏ chồng con... Quả thật, những người như vậy nói yêu mà chẳng có hành động yêu một chút nào hết.

Hiểu được như vậy, thì chúng ta cũng hiểu được việc tuân giữ lời Chúa của chúng ta chính là dấu chỉ rõ ràng nhất, để chúng ta chứng tỏ lòng yêu mến của mình đối với Thiên Chúa. Càng yêu mến Thiên Chúa nhiều, chúng ta sẽ càng cố gắng thực hiện những điều Ngài muốn. Hơn nữa, khi yêu mến và giữ lời, chúng ta còn được vinh dự đón tiếp cả Ba Ngôi đến ngự trong tâm hồn của chúng ta nữa: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy". Và nếu có cả Ba Ngôi Thiên Chúa ở trong chúng ta, thì mỗi người chúng ta thật sự xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, một đền thờ thánh thiện, tốt đẹp, và là một đền thờ yêu thương luôn thể hiện tình yêu Thiên Chúa đến với mọi người.

Chúng ta hãy can đảm sống theo lời dạy của Chúa với tất cả niềm tín thác, niềm cậy trông, tình yêu mến.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa chính là con đường vì Chúa dẫn đưa con đến với Thiên Chúa. Chúa là sự thật vì Chúa chỉ cho con biết Thiên Chúa và thánh ý của Thiên Chúa. Chúa là sự sống vì Chúa giải thoát con khỏi tội lỗi và ban cho con sự sống viên mãn. Xin cho chúng con biết nhận ra sự hiện diện của Chúa, biết nghe tiếng Chúa và ở lại trong Lời của Chúa để mỗi ngày con được sống trong sự thật và ở trong tình yêu Thiên Chúa. Amen.

 

9. Chúa Nhật 6 Phục Sinh

Đức Giêsu nói: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy".

Thông thường trong cuộc sống, chúng ta hay sử dụng lời nói để diễn tả những suy nghĩ, những tâm tư tình cảm của mình đối với người khác. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, lời nói cũng không thể diễn tả cách trọn vẹn được suy nghĩ của chúng ta. Do đó, chúng ta lại dùng những cử chỉ khác như nét mặt, ánh mắt,... để diễn tả những điều chúng ta muốn nói. Chẳng hạn như chúng ta thường biểu lộ niềm vui bằng tiếng cười, biểu lộ nỗi buồn bằng tiếng khóc, hay biểu lộ nỗi mệt nhọc bằng những tiếng thở than...Chính vì thế khi nghe thấy những tiếng khóc, tiếng cười, tiếng than thở đó, thì cho dù người đó không nói ra, thì người khác cũng phần nào hiểu được nỗi lòng của người thốt ra những tiếng đó. Đối với tình yêu cũng vậy, người ta không thể dùng những con số, hay những kiểu nói ước lượng, như kiểu nói "Tôi yêu anh chừng một ký, hay một tấn", hoặc là nói: "Tôi mến anh dài 100 cây số" được. Nhưng khi muốn diễn tả tình yêu, người ta thường dùng những hành động cụ thể để nói lên mức độ yêu mến của mình. Chỉ cần nhìn cảnh những người cha sẵn sàng thức khuya, dậy sớm ra đồng làm viêc; nhìn thấy những người mẹ chấp nhận hy sinh nhịn đói, chịu khó để lo cho con cái được ấm no, được ăn học, được thành tài, là mọi người cũng hiểu được tình thương như trời bể, mà các bậc cha mẹ đã dành cho con mình. Vì thế, Thánh Augustinô còn nói: "Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ".

Hiểu như vậy, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng cần được biểu thị bằng một dấu chỉ, hay bằng một hành động thật cụ thể. Dấu chỉ đó Chúa Giêsu muốn chúng ta chính là sự vâng giữ lời của Người, cụ thể là chúng ta đã nghe trong bài Tin mừng: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy...". Yêu mến Chúa, là trở nên giống Chúa, là tuân giữ lời Chúa, là làm theo điều Chúa muốn, và Chúa còn muốn mỗi người chúng ta phải hành động yêu thương thật sự cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Nhìn lại cuộc sống thường ngày, chúng ta sẽ thấy có một điều hết sức tự nhiên, đó là khi yêu mến ai, chúng ta thường cố gắng bằng mọi cách để làm vui lòng người đó. Và một trong những cách chúng ta thường thực hiện để làm vui lòng người mình yêu mến, đó là cố gắng nhanh chóng thực hiện mọi ý muốn của người đó. Cứ quan sát các một đôi bạn trẻ đang yêu nhau, chúng ta thấy họ luôn muốn làm đẹp lòng nhau, họ luôn để ý đến nhau, chỉ cần phát hiện một ánh mắt, một cái nhíu mày, một cử chỉ, hay một ý muốn nào đó của người này, thì lập tức người kia sẽ cố gắng thực hiện cho bằng được. Như vậy, một đứa con không thể nói rằng nó yêu cha mến mẹ, mà nó cứ luôn làm cho cha mẹ nó buồn, luôn làm những điều mà cha mẹ nó không muốn; cũng không thể có một người chồng luôn miệng nói với vợ rằng anh yêu em, mà ngày nào cũng đánh vợ, rồi chửi mắng vợ, rượu chè say sưa, nhục mạ vợ mình; cũng không thể có một người vợ nói với chồng là em yêu anh, rồi hằng ngày cứ bỏ bê nhà cửa, bỏ chồng, bỏ con, rồi đi nói xấu chồng, còn muốn bỏ chồng nữa. Hay là trong anh chị em chúng ta, không thể có người nói: tôi mến anh chị lắm, tôi thông cảm với anh chị lắm, tôi ngưỡng mộ anh chị lắm, rồi sau đó đi nói xấu, chê bai, khinh dễ, người đó được. Quả thật, những người như vậy nói yêu mà chẳng có hành động yêu một chút nào hết.

Hiểu được như vậy, thì chúng ta cũng hiểu được việc tuân giữ lời Chúa của chúng ta chính là dấu chỉ rõ ràng nhất, để chúng ta chứng tỏ lòng yêu mến của mình đối với Thiên Chúa. Càng yêu mến Thiên Chúa nhiều, chúng ta sẽ càng cố gắng thực hiện những điều Ngài muốn. Một lần nữa, chúng ta nghe lại lời khẳng định của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay là: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy". Thế nên, yêu mến và giữ lời, thì chúng ta đã và đang thực hiện rồi đó, nhưng làm như thế thì Chúa còn ban cho chúng ta một ân huệ đặc biệt nữa, đó là: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy". Như vậy, chúng ta còn được Chúa Cha yêu mến vì chúng ta đã tuân giữ lời Đức Giêsu, và không chỉ được Chúa Cha yêu mến, chúng ta còn được vinh dự đón tiếp cả Ba Ngôi đến ngự trong tâm hồn của chúng ta nữa. Và nếu có cả Ba Ngôi Thiên Chúa ở trong chúng ta, thì mỗi người chúng ta thật sự xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, một đền thờ thánh thiện, tốt đẹp, và là một đền thờ yêu thương luôn thể hiện tình yêu Thiên Chúa đến với mọi người.

Lắng nghe lời Chúa trong bối cảnh của xã hội hôm nay, một xã hội thực dụng, đánh giá mọi sự dựa theo những giá trị vật chất trước mắt, chắc chắn là không dễ dàng gì. Tuy nhiên, để xứng đáng là người môn đệ của Chúa, và nhất là để minh chứng lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa, thì mỗi người chúng ta cũng hãy mau mắn tuân giữ các lời dạy của Chúa bằng cả tấm lòng của mình. Chúng ta hãy can đảm sống theo lời dạy của Chúa với tất cả niềm tín thác, niềm cậy trông, tình yêu mến.

Nhìn lại gương Chúa Giêsu, chúng ta đã thấy Ngài vì yêu mến Chúa Cha, và vì yêu thương nhân loại nên Ngài đã thi hành thánh ý của Chúa Cha, cho dù Ngài phải chấp nhận một cái chết tủi nhục trên thập giá.

Để thực thi Lời Chúa dạy hôm nay, tôi đề nghị những việc thực hành cụ thể như sau:

1. Đọc kinh hôm mai là một bổn phận thờ phượng Chúa. Nó còn là một truyền thống đạo đức tốt đẹp trong các gia đình Công Giáo. Tuy nhiên ngày nay, trong xã hội phát triển, đời sống con người được nâng cao thì đồng thời cũng tạo ra những lỗ hổng về đạo đức: chẳng hạn như mỗi người tìm cho mình một cách giải trí riêng vào ban tối đến, và do đó, có nhiều gia đình đã bỏ mất truyền thống đọc kinh ban hôm, truyền thống đạo đức tốt đẹp này. Có hình ảnh nào đẹp cho bằng mỗi buổi tối cha mẹ và con cái quây quần bên bàn thờ trong gia đình để đọc kinh thờ phượng Chúa, cùng đọc một đoạn Phúc Âm để cả gia đình cùng nghe và cùng sống Lời Chúa, cùng cầu nguyện chung với nhau.

2. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy biết sống yêu thương bác ái, tha thứ cho nhau. Chúng ta biết cảm thông và nâng đỡ những người nguội lạnh, chúng ta biết thăm viếng, an ủi những gia đình đang gặp hoạn nạn, đau yếu. Và nhất là chúng ta biết cầu nguyện cho những gia đình chung quanh chúng ta, nhất là những gia đình đang gặp hoạn nạn, đang gặp khó khăn.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết noi theo gương của Chúa, để mỗi khi chúng ta thốt lên Chúa ơi, con yêu mến Chúa thì chúng ta cũng sẽ làm trọn theo những điều Chúa dạy, để cuộc sống của mỗi người chúng ta luôn là một cuộc sống bình an trong tay Chúa, và cũng là một cuộc sống vui tươi trong vòng tay yêu thương thân ái của tất cả mọi người. Amen.

home Mục lục Lưu trữ