Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 48

Tổng truy cập: 1379841

THÁNH THỂ NGUỒN MẠCH TINH FYÊU

Thánh Thể – Nguồn mạch tình yêu

(Suy niệm của Matthêu Vũ Văn Lượng, OP)

Kính thưa cộng đoàn,

Cuộc gặp gỡ nào bao giờ cũng in đậm những kỷ niệm. Có cuộc gặp gỡ mang lại nụ cười thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại nước mắt; có cuộc gặp gỡ mang lại hạnh phúc thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại khổ đau; có cuộc gặp gỡ mang lại hiệp nhất thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại ly tan; có cuộc gặp gỡ mang lại ngọt bùi thì cũng có cuộc gặp gỡ mang lại cay đắng; v.v….

Thưa quý ông bà anh chị em, đó là cuộc gặp gỡ trong thân phận con người chúng ta. Từ những cuộc gặp gỡ đó, chúng ta hướng đến một cuộc gặp gỡ cao trọng nhất, thân thương nhất. Đó là cuộc gặp gỡ mang tính thần-nhân, cuộc gặp gỡ giữa mỗi chúng ta và Đức Giêsu. Thiên Chúa là tình yêu và Ngài không nói với chúng ta bằng ngôn ngữ nào khác hơn là thể hiện tình yêu qua cái chết của con Ngài. Tình yêu này được cụ thể hoá nơi phép Thánh Thể là chính thân mình Đức Kitô Giêsu.

Một trong những cuốn phim hay nhất của Chalot và có lẽ cũng là một trong những cuốn phim hay nhất của ngành điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề: “Ánh sáng đô thị”. Cuốn phim kể về câu chuyện tình của gã lang thang và cô gái bán hàng hoa.

Nàng là cô gái mù bán hàng hoa bên vệ đường. Ngày nào cũng có một nhà tỉ phú dừng lại mua hoa của nàng. Thế rồi, một ngày kia cũng có một gã lang thang tên là Chalot cũng dừng lại mua hoa của nàng. Tưởng là người tỉ phú, nàng đem lòng yêu mến và giấc mộng đã từ đây chớm nở nối kết hai tâm hồn. Phần nàng, nàng tưởng rằng mình gặp được người mình mơ mộng bấy lâu nay. Còn chàng Chalot thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù loà cho nàng.

Chẳng may, vì một sự ngộ nhận, chàng bị cảnh sát giam giữ. Sau thời gian cầm tù, chàng được trả tự do. Rồi chàng trở lại chỗ cũ để tìm lại người con gái mù loà bán hoa, nhưng nàng đã ra đi. Nhờ tiền bạc trước đây chàng gởi cho, người con gái nay đã thấy được và đang đứng bán một cửa hàng hoa rộng lớn hơn. Chàng qua lại nhiều lần nhưng không thể nhận ra nàng.

Tình cờ một cánh hồng rơi xuống đất, chàng vội cúi nhặt lấy. Nhưng người con gái cười như khinh bỉ chàng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng vội quay lại và khẽ hỏi: “Cô thấy được rồi sao?” Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc của chàng… Nàng từ từ nhặt cánh hoa lên, gắn lên áo chàng và nghẹn ngào thốt lên: “Anh đấy sao?” Cả hai người nhận ra nhau và không bao giờ xa nhau nữa.

Kính thưa cộng đoàn, đó cũng là cuộc gặp gỡ trong tình yêu. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đi vào cuộc gặp gỡ cao trọng hơn đó là phép Thánh Thể. Lời mời gọi nối kết con người và Đức Giêsu Kitô làm một:

Chính tôi là bánh trường sinh.

Ai đến với tôi, không hề phải đói;

ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35)

Đức Kitô nối kết tình yêu của mình với nhân loại bằng chính sự hiến thân cứu chuộc. Ngài trút bỏ mọi vinh hoa phú qúy, để sống kiếp phàm trần, để có dịp gặp gỡ và buồn vui với con người. Thánh Phaolô đã miêu tả: Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. … (Pl 2, 5-7).

Kính thưa cộng đoàn,

Đức Giêsu Kitô đã phục sinh và Ngài đã về với Thiên Chúa Cha, thế nhưng, một cách âm thầm, Ngài vẫn ở lại trong bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm để mời gọi mọi người hãy đến cùng ăn một bánh và cùng uống một chén. Một khi đã cùng ăn, cùng uống Mình và Máu Đức Kitô, chúng ta lại được cùng nhau hòa quyện trong tình yêu của Ngài. Tình yêu nối kết mỗi người lại với nhau, như Đức Kitô đã được sống trong tình yêu của Chúa Cha. Thánh thể là việc tự hiến mình trong đức ái của Chúa Giêsu cho Chúa Cha và cho mọi người chúng ta. Do đó, chúng ta cũng học theo gương Ngài mà trao cho nhau những hành động và cử chỉ yêu thương, điều này đòi hỏi một đức ái vững bền. Anh chị em có thể làm phúc, giúp đỡ người nghèo khó, người cô thế cô thân… với một tinh thần yêu thương, chắc hẳn anh chị em sẽ gặp được chính Đức Kitô nơi họ. Hình ảnh Đức Kitô nơi anh chị em đồng loại cũng chính là Đức Kitô trong Thánh thể, mà anh chị em rước lấy mỗi ngày – ai làm cho một trong những người bé nhỏ nhất của Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta vậy. Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời. Vì thế, Đức Kitô luôn đồng hành và dẫn dắt mỗi người chúng ta đến, để chúng ta cùng gặp gỡ nhau trong cùng một thế giới đầy yêu thương. Đó là nước trời mà Thiên Chúa Cha dành sẵn và đang chờ đón chúng ta.

Anh chị em có thể là một người nghèo vật chất, nhưng xin anh chị em đừng nghèo về tinh thần, nghèo tình cảm, nghèo lòng nhân đạo, nhất là nghèo tình yêu. Mọi điều Đức Kitô Giêsu ban tặng cho chúng ta được gói trọn trong hai chữ tình yêu: Này là mình Thầy hiến tế vì anh em. Tình yêu Đức Kitô làm cho chúng ta nên một, tràn ngập niềm vui và hy vọng.

Kính thưa cộng đoàn,

Thánh Gioan cho chúng ta thấy việc mặc khải Đức Giêsu là Bánh Hằng Sống, cũng chính là mặc khải của hành trình nối kết giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa con người với Thiên Chúa, giữa niềm vui và ơn cứu độ. Đó cũng là cuộc gặp gỡ giữa Chúa Cha và con người trong Đức Kitô. Bánh Hằng Sống diễn tả nét đặc trưng con người Đức Giêsu: Ngài là quà tặng của Thiên Chúa Cha cho chúng ta, và sự hiên diện của Ngài giữa chúng ta đã đem lại một luồng sinh khí mới và nối kết mọi người trong mối giây hiệp thông.

Chúa Giêsu chính là Bánh mà Chúa Cha đã gởi đến cho chúng ta và Ngài là hồng ân được tặng ban qua quyền năng và ân sủng của Chúa Thánh Thần. Ngài dùng bí tích Thánh Thể để công bố tình yêu của Chúa Cha và tuôn đổ Thần Khí của Ngài. Như vậy, sự hiệp thông của Ngài cũng chính là sự hiệp thông với Chúa Thánh Thần.

Bí tích Thánh Thể chính là suối nguồn tình yêu, bởi vì Đức Giêsu được dâng hiến như của lễ đẹp lòng Thiên Chúa Cha, để cứu rỗi nhân loại và canh tân mọi tạo vật. Do đó, khi cử hành bí tích Thánh Thể, chúng ta được mời gọi để gặp gỡ Đức Kitô, nguồn mạch sự sống và tình yêu, và làm cho cuộc sống của mỗi người chúng ta được biến đổi thành một hồng ân.

Cũng như cánh hồng là sợi chỉ hồng đan kết Chalot và nàng bán hàng hoa lại với nhau, thì cũng vậy, Thánh Thể là nguồn mạch Tình Yêu cũng nối kết chúng ta làm một với Đức Giêsu, tan biến chúng ta trong biển cả Tình Yêu của Ngài, và sau cùng dẫn dắt chúng ta đến hưởng nếm hạnh phúc đích thực là chính Ngài trên Thiên quốc.

Nguyện xin Đức Kitô là suối nguồn tình thương, nối kết mọi tâm hồn chúng con lại với nhau, như cành nho được nối kết cùng thân nho, để ngày càng phát triển và sinh nhiều hoa thơm trái tốt. Amen.

 

14. Của ăn cho cuộc sống muôn đời

(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)

Sách Xuất hành là sự tích của dân tộc Chúa được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai cập và lưu hành trong 40 năm qua sa mạc để về đất Chúa hứa. Trong cuộc hành trình lâu dài ấy, vấn đề ẩm thực là mối lo hằng ngày. Nhưng Thiên Chúa là tình thương hằng lo lắng cho dân Người. Đành rằng suốt cuộc hành trình, không phải họ chỉ ăn chim cút và manna, mà còn nhiều thứ khác nữa như súc vật họ chăn nuôi và hoa quả cây rừng. Nhưng chim cút và manna là hai thực vật làm cho họ ngỡ ngàng và ghi nhớ hơn cả và họ coi đó là ơn Trời, là dấu chỉ hồng ân của Chúa.

Trong khi họ kêu rên, nhớ lại những “nồi thịt ở Ai cập” thì chiều hôm ấy có bầy chim cút bay tới rợp trời và sáng hôm sau, xung quanh trại, có những vật gì nhỏ nhỏ tròn tròn như bột sương đông đặc. Dân thấy vậy hỏi nhau: “man-hu” (cái gì vậy?) và Môsê nói: “Đó là bánh Chúa ban cho anh em ăn”. Từ đó, dân chúng gọi bánh ấy là manna, “bánh bởi trời”, bánh đó còn được lưu giữ trong hòm bia Nhà Tạm, như một tang chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Người. Bánh đó còn được gọi là “bánh ban sức mạnh”, “bánh các Thiên Thần”, hình ảnh mà Phaolô sẽ gọi là “của ăn thiêng liêng” ám chỉ phép Thánh Thể (Icor. 10,3).

Phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều xảy ra trên cánh đồng “đầy cỏ xanh” phía đông bắc biển hồ. Sáng hôm sau, dân chúng đi tìm Chúa, nhưng không gặp, họ liền xuống thuyền trở về Caphanaum và gặp Ngài ở đó.

Họ đi tìm, nhưng người ta đi tìm gì? Người ta hay đi tìm những thứ thỏa mãn nhu cầu vật chất như cơm ăn, áo mặc, nước uống, sức khỏe và đặt tất cả thời giờ vào việc ấy. Họ không đi tìm “điều cần thiết độc nhất” là Thiên Chúa, và Chúa Giêsu đến để làm cho họ hiểu điều đó. Họ lầm tưởng rằng Chúa đang còn ở bờ hồ bên này, nơi họ vừa được ăn no nê. Nhưng Chúa đã qua bờ bên kia rồi, nơi Chúa sẽ nuôi họ bằng của ăn thiêng liêng. Đành rằng Chúa không quên đời sống vật chất, cũng cần thiết, nên Chúa dạy phải xin của ăn lương thực hằng ngày. Nhưng Chúa đã qua bờ bên kia để dạy cho họ biết tìm kiếm một của ăn cần thiết hơn.

Vì thế, khi gặp lại họ, Gioan thuật lại bài giảng của Chúa về Bánh hằng sống: “Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng là vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng là vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa đã ghi dấu”.

Của ăn cuộc sống muôn đời mà Chúa muốn nói là của ăn gì? Hẳn là Gioan đã suy nghĩ và ghi sâu vào tâm khảm ý nghĩa đích thực Chúa muốn nói. Mấy lúc này, Chúa đã chuẩn bị tâm hồn các Môn đệ để họ chấp nhận cái chết của Ngài sắp xảy ra, để làm giá cứu chuộc nhân loại, như một của lễ hy sinh. Để cụ thể hóa việc sắp xảy ra, Ngài sẽ lập nên phép Thánh Thể trước mặt các ông. Thánh Thể và Thánh Giá gắn liền với nhau như hình với bóng không tách rời được. Vì thế, hôm nay Chúa nói rõ: “Ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống Máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”. Chúa khêu gợi sự tò mò và chú ý của dân chúng để họ nghĩ đến một của ăn bí nhiệm mà Con Người sẽ ban cho họ…, một thứ manna đích thực “từ trời xuống và ban cho thế gian”. Nhưng họ không hiểu hay không muốn hiểu. Chúa kết kuận: “Chính Ta là bánh ban sự sống, ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ ”. Chúa đến để nuôi sống linh hồn chúng ta.

Trong trại cải tạo Cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông, có một ông già trạc 40 tuổi tên là Shah. Mọi người biết ông là một linh mục dòng Kitô. Ông rất có lòng bác ái thương người, giúp đỡ các bạn tù, trong số có một người ký giả Anh, Công giáo nhưng không giữ đạo. Một hôm giữa trời đông rét. Ông Shah kéo người bạn tóc vàng ra một nơi và hỏi:

– Anh là người Công giáo phải không?

– Phải

– Hôm nay là lễ Giáng Sinh, anh quên rồi! Thôi đi theo tôi, xuống hố đất đàng kia, tôi sẽ cùng anh dâng Thánh lễ.

Cả hai xuống một hố sâu có bờ đắp cao. Ông Shah giấu ở đó một mẩu bánh mì và một cái tô nhỏ có ít rượu nho. Giữa cảnh hoang lạnh, vị linh mục làm lễ… Người bạn tù cảm động, tự nhiên khịu xuống, ăn năn sám hối và được chịu lễ. Cả hai vội vàng bước lên khỏi hố. Một tên lính hỏi cha Shah:

– Mày đi đâu đàng kia?

– Hôm nay, lễ Giáng Sinh, giờ giải lao, tôi đi cầu nguyện!

Người lính dẫn ông đi và từ đó, người ta không còn gặp lại ông nữa! Người bạn tóc vàng sau đó được trả tự do và đã thuật lại thánh lễ Giáng Sinh của vị linh mục tên Shah, đã đưa ông trở lại với Chúa.

“Con người được ăn bánh của những vị hùng anh.

Người ban cho họ được bánh bởi trời”. (Tv. 77 – Đáp ca)

 

15. Lời ban sự sống.

Ngày xưa, có một người cha muốn chia gia tài cho các con. Ông vốn là một người nghèo, nhưng nhờ chuyên cần làm việc nên đã trở nên giàu có. Vì vậy, khi nằm trên giường bệnh, ông muốn trao phó cơ nghiệp cho người con nào thông minh nhất. Thế là ông cho gọi ba người con đến, trao cho mỗi người hai ngàn đồng bạc và bảo họ phải đi mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng của ông.

Người anh cả nghĩ rằng đấy chỉ là một công việc dễ dàng, nên anh đã ra chợ và mua về một bó rơm rất lớn. Người con thứ suy nghĩ kỹ hơn một tí, nên đã mua về một bao lông vịt. Còn người con thứ ba, nghĩ mãi nghĩ hoài mà vẫn chưa biết phải làm gì với hai ngàn đồng bạc cầm trong tay. Bỗng một ý nghĩ vụt sáng trong đầu óc thế là anh vội chạy ra tiệm tạp hóa, mua một cây nến và một hộp quẹt.

Ngày hôm sau, cả ba anh đem đến trước giường bệnh của người cha. Anh con cả hì hục vác vào một bó rơm, nhưng rơm không đủ phủ kín một góc nhà. Anh con thứ khoan khoái xách giỏ lông vịt, nhưng lông vịt cũng chỉ phủ được phần nào của căn phòng mà thôi. Giữa lúc người cha đang thất vọng thì anh con út bước vào. Trong chớp nhoáng, anh đánh diêm, thắp nến và căn phòng phủ đầy ánh sáng. Người cha mỉm cười, đắc ý về sự thông minh của anh con út và ông đã trao cho anh ta phần lớn gia tài của mình.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta thấy: Chúa Giêsu cũng muốn trao phó sự nghiệp của mình cho các môn đệ và Ngài không muốn nó bị tiêu tan. Trọn sự nghiệp ấy phải được lãnh hội, phải được đón nhận và phải được khai thác đúng mức.

Thực vậy, sau khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng dân chúng trong hoang địa. Lợi dụng vào đó, Ngài đã giới thiệu với họ một thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, đó là mình máu Thánh Ngài, như lời Ngài xác quyết: Thịt Ta là thật của ăn, máu Ta là thật của uống… Thế nhưng dân chúng và cả các môn đệ lại cho là chướng tai gai mắt, không thể nào chấp nhận được, cho nên họ đã rời bỏ Chúa. Trước tình cảnh ấy, Chúa Giêsu đã quay lại và hỏi các tông đồ: Còn các con, các con có muốn bỏ Ta mà đi hay không? Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai đã tuyên xứng: Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống.

Lời tuyên xưng của Phêrô đã giúp chúng ta vượt lên trên những vấn đề thường ngày như cơm bánh, như sinh kế, như công việc làm ăn, đồng thời đưa chúng ta lên cao để nhìn rõ bản thân, mọi người và mọi sự theo quan điểm của Chúa, hầu thấy được rằng vạn vật tất cả đều do bởi Chúa.

Trong câu chuyện vừa nghe, chúng ta thấy: rơm và lông vịt không thể lấp đầy căn phòng, nhưng ánh sáng của cây nến do người con út thắp lên đã chiếm lĩnh toàn bộ căn phòng. Cũng vậy, với tấm bánh từ trời xuống là chính thịt máu Chúa, tự hiến cho loài người, thì cả nhân loại được tràn ngập tình yêu mến và lòng xót thương của Chúa. Bởi vì, chỉ nhờ ánh sáng đó mà con người mới thực sự được hạnh phúc.

 

16. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

TÌM KIẾM GIÁ TRỊ TUYỆT ĐỐI

Cách đây khoảng 10 năm, tại bang California bên Mỹ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.

Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Hiện nay trong nước ta, tại các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.

Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có ô – tô. Có ô – tô rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.

Hôm nay, đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên chúa.

Thế nhưng ta tìm đâu ra những giá trị tuyệt đối để lấp đầy nỗi khao khát vô biên? Ta tìm đâu ra thứ bánh làm dịu được cơn đói hạnh phúc? Hôm nay, Đức Giêsu giới thiệu cho ta thứ bánh đó. Đó là bánh đích thực, vì ăn rồi ta sẽ không bao giờ đói nữa. Đó là bánh ban sự sống, ai ăn sẽ không chết nữa. Đó là bánh ban hạnh phúc, ăn vào sẽ không còn khao khát điều gì khác. Đó là bánh Thiên Chúa ban chứ loài người không ban được. Đó là bánh từ trời chứ trần gian không sản xuất được. Tấm bánh đó là chính bản thân Người, Đức Giêsu Kitô.

Những người Do thái đã sai lầm khi đi tìm Đức Giêsu để được ăn bánh. Đức Giêsu đã cảnh tỉnh họ khi cho họ biết rằng không nên tìm bánh, vì như thế họ sẽ thất vọng. Bánh ăn rồi sẽ lại đói. Nhưng phải tìm chính Đức Giêsu. ở đây ta nhớ tới bài học Chúa đã dậy tổ phụ Ápraham. Thoạt tiên, Chúa kêu gọi tổ phụ Ápraham đi theo Chúa và hứa cho ông được một đất nước chảy sữa và mật và một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Nghe theo lời hứa, tổ phụ đã lên đường. Nhưng khi ông sinh được một người con trai duy nhất trong tuổi già, Chúa lại bảo ông phải sát tế dâng cho Chúa. Đây là một thử thách lớn lao, nhưng cũng là một lời mời gọi vươn lên. Ápraham được mời gọi thoát khỏi sự ràng buộc của lợi lộc vật chất. Theo Chúa chỉ vì Chúa chứ không phải vì lợi lộc vật chất. Ông hoàn toàn có lý vì ông đã chọn Chúa là sự Thiện tuyệt đối chứ không chỉ lựa chọn một vài sự thiện tương đối. Ông đã lựa chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc chứ không đuổi theo những ảo ảnh của hạnh phúc. Đức tin của ông hoàn toàn trưởng thành, nên ông đã trở thành Cha của những kẻ tin.

Hôm nay, Chúa mời gọi tôi, hãy noi gương tổ phụ Ápraham. Đừng tìm những mảnh vụn hạnh phúc, nhưng hãy đi đến nguồn mạch hạnh phúc. Đừng lo nắm giữ những của cải phù du, nhưng hãy tìm chiếm giữ kho tàng bền vững mối mọt không đục khoét được. Đừng đuổi theo những giá trị tương đối, nhưng hãy biết tìm kiếm giá trị tuyệt đối là chính Chúa. Chính Chúa sẽ làm ta no thoả. Chính Chúa sẽ lấp đầy những khát vọng của ta. Chính Chúa ban cho ta hạnh phúc tràn đầy, vĩnh viễn.

Chúng ta hãy cùng cầu nguyện với thánh Âucơtinh: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Có một thời người ta nói: “Đi đạo kiếm gạo mà ăn”. Bạn nghĩ gì về câu nói đó?

2) Mơ ước một đồ vật. Khi được rồi lại chán. Bạn có kinh nghiệm đó không?

3) Bạn có những khao khát về vật chất cũng như tinh thần. Khi đến với Đức Giêsu, bạn có thấy được thoả mãn phần nào không?

 

17. Ý Thiên Chúa – Ý con người

(Suy niệm của Anmai, CSsR)

Ý muốn của một người nào đó rất quan trọng trong cuộc đời nói chung và của con người đó nói riêng. Tuỳ hoàn cảnh, tuỳ chức vụ, ý muốn ấy sẽ chi phối theo hoàn cảnh và chức vụ ấy. Một người làm lớn mà quyết định chuyện gì thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ còn một người nhỏ dù có quyết định to thế nào đi chăng nữa thì cũng chẳng ảnh hưởng là bao. Cái nghịch lý trong cuộc đời này vẫn thường xảy ra và xảy ra “như cơm bữa” đó là con người vẫn thường lấy ý của mình và áp đặt cho đó là ý của Thiên Chúa.

Các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay xoay quanh về ý của Thiên Chúa và ý của con người.

Trang sách Xuất hành đã kể lại việc cộng đồng con cái Israel nhớ “củ hành, củ tỏi” ở quê hương để rồi ai oán với cả ân nhân của mình. Thiên Chúa đã quá yêu con người để rồi bằng mọi cách và bằng mọi giá Thiên Chúa muốn cứu nhưng con người thì ngược lại. Nghĩ đi nghĩ lại Thiên Chúa hiền từ và dễ thương thật chứ không phải ở lời của Người nói. Dân chúng Israel kêu ca than thân trách phận và rồi Thiên Chúa đã ban bánh từ trời xuống để nuôi dân. Ý của con người là cứ ở lại với quê cha đất tổ còn ý của Thiên Chúa thì Thiên Chúa muốn cứu con người còn con người thì cứ lầm lũi với những cái lợi trước mắt, với cái gì là sung sướng cho bản thân.

Đó là những gì sách Xuất Hành thuật lại, rồi kế đến là tâm tình của Thánh Phaolô tông đồ gửi giáo đoàn Êphêsô. Không chỉ nói suông mà hôm nay lại còn “có Chúa chứng giám”. Khi Ngài nói “có Chúa chứng giám” thì Ngài có ý muốn nhấn mạnh tâm tình của mình và khẳng định tâm tình ấy. Phải nói là nó rất quan trọng và ý nghĩa với cộng đoàn Êphêsô nên Ngài mới nói như vậy. Ngài nói là anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. Còn anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu; ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện. (Ep 4,20-24).

Hoá ra là Ngài biết dân ngoại từ xưa đã sống theo những tư tưởng phù phiếm, họ nhìn về Thiên Chúa, họ nhìn Chúa Giêsu dưới một lăng kính khác, dưới một chiều kích khác. Nơi Thánh Phaolô, Ngài có kinh nghiệm rõ nét về chuyện này. Ngày xưa, Ngài cũng lần bước trong con người cũ của Ngài là đi tìm vinh danh cho mình và đi bắt bới những người theo Chúa, những ai mang danh là Kitô hữu. Sau một chặng đường dài sống với con người cũ, sống với ý riêng của mình, Thánh Phaolô đã nhận ra rằng Thánh ý Thiên Chúa mới là quan trọng, sống với con người mới theo sự hướng dẫn của Thần Khí mới là điều đáng quan tâm. Ngài khuyên cộng đoàn Êphêsô đừng sống theo cái nhìn như vậy, theo quan niệm như vậy về Thiên Chúa. Quan niệm về Thiên Chúa của con người mới khác con người cũ. Không chỉ thế, Ngài còn nhấn mạnh rằng hãy cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới.

Ý tưởng trang Tin mừng hôm nay đã đẩy chuyện ý Thiên Chúa và ý con người lên một mức cao hơn. Chúa Giêsu đã không ngần ngại nói thẳng với những người đang có mặt ở đó với Chúa: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.” (Ga 6, 29).

Vấn đề là ở chỗ đó, là ở chỗ việc Thiên Chúa muốn cho các ông chứ không phải là chuyện các ông muốn. Thường, tâm trạng của con người thì những gì mang lợi lộc, mang sự dễ dãi đến cho mình thì con người đều quy về ý của Chúa, mỗi lúc cuộc đời gặp đau khổ, khó khăn thì sẵn sàng oán trách Chúa không thương tiếc. Nếu Chúa ban cho cuộc sống đầy đủ thì không ngớt lời tôn dương và chúc tụng nhưng khi cuộc đời gặp một chút gì đó thì bỏ Chúa và không tin Chúa nữa. Điều mà Thiên Chúa muốn quá rõ: đó là tin thật vào Ngài chứ không chỉ tin bằng môi bằng miệng. Chúa Giêsu, vì biết rõ lòng dạ của những người có mặt với Chúa ngày hôm đó nên Ngài đã không ngần ngại cảnh tỉnh họ về ý của Thiên Chúa.

Trở lại với trang Tin mừng tuần trước, dân chúng sau khi được ăn bánh no nê đã tìm cách tôn vinh Chúa Giêsu làm vua. Thế nhưng, Chúa Giêsu biết tỏng tòng tong lòng dạ của họ nên Ngài lánh đi một nơi. Vì những người có mặt ngày hôm ấy cũng như nhiều người khác vẫn sống theo cái ham muốn thể xác của mình là no cơm ấm áo nên tôn vinh Chúa làm vua chứ thật sự lòng của họ không phải như vậy. Thế đấy, ý Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn ý của con người.

Nhắc đến ý Thiên Chúa và ý con người, ta sẽ không khỏi nhịn cười được vì trong chính đời thường của mỗi người chúng ta. Nếu ý nào đó hợp lòng ta, mang lại cho ta thì ta bảo: “ý Chúa” còn nếu ý nào phật lòng ta thì ta lồng lộn lên và thậm chí còn oán trách và bỏ rơi Chúa.

Đôi lúc ngẫm nghĩ thấy thương Chúa thật. Chúa quả là quá hiền từ và dễ thương. Dễ thương đến độ con người dù ca khen, dù oán hờn chửi bới và vu oan cho Chúa thế nào Chúa vẫn lặng lẽ và lặng lẽ. Bi đát nhất đó là những người có chức có quyền và cầm quyền trên người khác. Nhiều và nhiều quyết định mang cảm tính hết sức con người nhưng lại bảo đó là ý Chúa mới chết người.

Một cái ví dụ hết sức nhỏ nhoi và đơn giản. Dưới con mắt của các đấng bậc có trách nhiệm đào tạo và con mắt bình thường của người đời thì những ai ngoan ngoãn, dạ bảo dạ, vâng bảo vâng thì các vị cũng như mọi người đánh giá hết sức là cao về những con người ngoan ngoãn vâng dạ ấy. Mỗi khi nhận xét hay quyết định gì thì không hế ngần ngại “châu phê” là người ấy tốt và người ấy có ơn gọi. Ý Chúa là gười đó có ơn gọi, còn ngược lại, những người không biết “bẩm – dạ” thì cũng sẽ bảo rằng cũng đó là ý Chúa cho kẻ không biết “đi bằng đầu gối” là không có ơn gọi.

Thật ra, chuyện này hết sức tế nhị nhưng phải trả lẽ trước mặt Chúa về những cảm tính hết sức cá nhân mà lại gán cho là “ý Chúa”! Chúa quá hiền đến độ người ta muốn nói gì thì nói. Người ta nói xuôi Chúa cũng chẳng nói gì và người ta nói ngược ta cũng thấy Chúa chẳng chịu nói gì.

Qua các bài đọc, đặc biệt là Tin mừng hôm nay, chúng ta có dịp dừng chân nhìn lại từng biến cố trong cuộc đời của ta, từng quyết định của ta. Những biến cố xảy đến và những quyết định của ta như thế nào? Có phải là của Chúa thật sự hay là của ta rồi ta gán cho Chúa.

Hơn một lần Chúa Giêsu đã nói: Lương thực của ta là thi hành ý muốn của Cha ta.

Quả thế, lương thực thật sự, lương thực trường tồn của Chúa chính là ở chỗ thi hành ý của Cha chứ không phải là theo ý của ta.

Một lần nọ, vào bệnh viện thăm người quen, có một người kia không ngần ngại tâm sự rằng chị ta đã bỏ Chúa 10 năm rồi. Hỏi lý do sao bỏ Chúa thì chị nói là vì mãi mê lo làm ăn kiếm tiền. Tôi bèn hỏi chị là dư được bao nhiêu tiền gửi trong ngân hàng và chị nói là không có đồng nào mà hiện nay nằm bệnh viện còn phải đi vay mượn!?

Thì ra là 10 năm bỏ Chúa để loay hoay với đồng tiền nhưng cuối cùng không có dư đồng nào mà thậm chí còn mang nợ!

Hai vợ chồng kia cũng thật thà tự thú là bỏ Chúa 4 mùa Phục Sinh. 4 mùa Phục Sinh qua đi mà gia đình cứ mãi sống trong vất vả và nay người vợ còn mang trong mình tật bệnh nữa!

Thế đấy! Người ta đã tước đoạt thánh ý của Chúa trên cuộc đời của người ta, người ta đã đẩy Chúa ra khỏi cuộc đời người ta để người ta làm theo ý của mình. Thế nhưng, thử hỏi trong những năm tháng dài đẩy thánh ý của Chúa ra khỏi đời mình để mình thực thi ý mình thì mình được gì?

Quá nhiều lần và phải nói là quá nhiều lần trong cuộc đời, con người đã bỏ ý Thiên Chúa ra khỏi đời mình để thực thi ý mình. Rốt cuộc như thế nào thì con người đã rõ.

Hôm nay, một lần nữa, đứng trước lời cảnh tỉnh của Chúa với đám đông dân chúng về ý của Thiên Chúa muốn, chúng ta làm gì, chúng ta sẽ trả lời với Chúa như thế nào? Chúng ta làm gì, trả lời với Chúa như thế nào đó chính là tuỳ thuộc tự do của mỗi người chúng ta.

 

18. Lương thực các Thiên Thần

(Suy niệm của An Phong, OP)

Tin mừng hôm nay là một phần trong diễn từ Bánh Sự Sống. Từ nhu cầu bánh ăn hàng ngày, Đức Giêsu kêu gọi người ta nhân ra nhu cầu “Bánh Sự Sống” và Người khẳng định mình chính là Sự Sống đích thực.

Những người tuôn đến với Đức Giêsu chắc chắn vẫn còn nhớ đến bữa ăn no nê do phép lạ Đức Giêsu đã làm từ năm chiếc bánh và hai con cá. Phép lạ đó làm cho người ta yên chí rằng Người sẽ còn mang lại cho họ những điều may mắn, sung sướng hay lợi lộc nào khác.

Những người Galilê đã chứng kiến phép lạ này, thay vì nhận ra đó là dấu chỉ hướng dẫn mình đi xa hơn, thì lại chỉ nghĩ đến những lợi lộc trước mắt; họ mới chỉ “tin” vào Đức Giêsu như người bảo vệ những quyền lợi riêng tư, như người phục vụ cho đời sống trần gian của họ.

Đức Giêsu hiểu rõ tâm hồn con người hơn bất cứ ai khác. Người biết họ tìm đến với Người vì điều gì. “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”.

Đức Giêsu nhấn mạnh đến từ “dấu lạ” để kêu gọi người ta biết nhìn xa hơn, tin vào Chúa trọn vẹn hơn.

Chẳng những Người lưu ý đến những nhu cầu ăn uống, nhu cầu vật chất của con người, nhưng Người còn là Đấng Cứu độ trọn vẹn thân phận làm người nữa.

Phải chăng nhiều người chúng ta vẫn “đi đạo” như thể “đi chợ”; chúng ta muốn Thiên Chúa cung cấp cho chúng ta những “hành, tỏi, tiêu, ớt” như một thứ gia vị cho cuộc sống mà thôi. Chúng ta chưa nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài nuôi cuộc sống nhân loại bằng chính tình yêu thương lớn lao để chúng ta được đầy sức mạnh trên bước đường đời: Ngài nói với ta lời chân lý có sức giải thoát mọi lầm lạc: Ngài cứu độ nhân loại bằng chính sự sống thần linh để chúng ta được sống cùng với Người và sống trong Người. Như thế, một đức Tin thực sự phải có thể nói lên rằng: Đức Giêsu là tất cả đối với tôi. Tôi sẽ khám phá Người chính là “Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi không hề phải đói; ai tin vào Tôi không khát bao giờ”.

Nhưng dẫu sao, Đức Giêsu vẫn thuơng con người. Người nhắc nhủ những lời ngọt ngào thân ái: “Hãy ra công làm việc, không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn, đem lại phúc trường sinh”. Người kêu gọi” “Hãy tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến”; và hãy yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (Mc 12,30).

Lạy Chúa,

Xin cho những hạt giống đức tin mọc lên trên thửa đất tốt của cầu nguyện, trở thành những cây cao chất chứa ánh sáng, mọc trên các nẻo đường của Nước Trời.

Vì Nước Trời giống như một hạt cải li ti, mong manh được gieo trong lòng chúng con, một hạt cải chỉ chờ ngày nảy mầm để trỗ sinh hoa trái nếu chúng con biết vun trồng.

home Mục lục Lưu trữ