Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 68

Tổng truy cập: 1377468

THIÊN CHÚA BA NGÔI BAO TRÙM ĐỜI SỐNG NGƯỜI TÍN HỮU

THIÊN CHÚA BA NGÔI BAO TRÙM ĐỜI SỐNG NGƯỜI TÍN HỮU

Ngày hôm nay, Phụng vụ Giáo hội mừng kính trọng thể Một Thiên Chúa Duy Nhất có Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Một bản thể duy nhất trong Ba Ngôi Vị. Thiên Chúa không phải là Ðấng đơn độc nhưng là Ðấng thông hiệp trọn vẹn. Nhân loại là hình ảnh của Thiên Chúa luôn tràn đầy tình yêu, là món quà thân yêu được ban tặng cho mỗi người. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Ba Ngôi bao trùm cả đời sống chúng ta và tôn thờ Ngài.

Bài giáo lý thuộc lòng

Thủa thiếu thời, trước khi bước vào Thánh lễ Chúa nhật, sau phần Kinh Sáng Tối, mọi người lại cùng nhau cất lên : Bổn dạy những lẽ cần cho được rỗi linh hồn. Phần thứ I… bắt gặp câu:

Hỏi. Có mấy sự mầu nhiệm rất cần phải tin cho được rỗi linh hồn?

Thưa. Có Ba Sự Mầu Nhiệm này : một là sự Đức Chúa Trời Ba Ngôi...

Lớn lên tôi mới hiểu đây là Một trong Ba Mầu Nhiệm phải tin cho được rỗi linh hồn. Thảo nào, những câu hỏi mà người học ai cũng được hỏi và buộc phải trả lời chính xác là :

Hỏi. Có nhiều Đức Chúa Trời chăng ?

Thưa. Có một Đức Chúa Trời mà thôi.

H. Đức Chúa Trời có mấy Ngôi?

T. Đức Chúa Trời có Ba Ngôi : Ngôi Nhất là Cha. Ngôi Hai là Con : Ngôi Ba là Thánh Thần.

H. Ngôi Nhất là Cha, có phải Đức Chúa Trời chăng ?

T. Phải.

H. Ngôi Hai là Con, có phải Đức Chúa Trời chăng ?

T. Phải.

H. Ngôi Ba là Thánh Thần, có phải Đức Chúa Trời chăng ?

T. Phải.                                                            

H. Nếu vậy có phải ba Đức Chúa Trời chăng ?

T. Chẳng có, vì Ba Ngôi cũng một tính, một phép, vậy có một Đức Chúa Trời mà thôi.

H. Ba Ngôi, có Ngôi nào trước, Ngôi nào sau, Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém chăng ?

T. Ba Ngôi cũng bằng nhau. (Sách Bổn Địa Phận Hà Nội tr. 11)

Điều thứ nhất. Đoạn thứ II. Phần I Sách Bổn nói trên là một bản tóm tắt tuyệt vời đầy đủ, dễ hiểu về Thiên Chúa là thực thể duy nhất hiện hữu trong Ba Ngôi Vị. Ba Ngôi bình đẳng, đồng tồn tại vĩnh cửu, tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và một uy quyền ngang nhau, nên Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa mà thôi.

Một Đức Chúa Trời có Ba Ngôi

Khi bước vào khoa Thần học, tôi được dạy và đọc thấy các nhà thần học suy tư về Một Thiên Chúa có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới.

“Đức tin công giáo là thế này, chúng ta thờ kính Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi, và Ba Ngôi trong Một Thiên Chúa, mà không lẫn lộn các Ngôi Vị, không phân chia bản thể : thật vậy, Ngôi Cha là khác, Ngôi Con là khác và Ngôi Thánh Thần là khác; nhưng thần tính, sự vinh quang ngang nhau và uy quyền vĩnh cửu của Chúa Cha, của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần là một”.

Các Ngôi vị thần linh không thể tách rời nhau trong cùng một bản thể duy nhất, thì cũng không thể tách rời nhau trong các hoạt động của mình. Nhưng trong hoạt động thần linh duy nhất này, mỗi Ngôi vị hiện diện theo cách đặc thù của mình trong Ba Ngôi, nhất là trong các sứ vụ thần linh là việc Nhập Thể của Chúa Con và việc trao ban Chúa Thánh Thần (GLHTCG số 266-267).

Ba Ngôi trong đời sống người tín hữu

Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, mỗi người chúng ta đều được ghi Dấu Thánh Giá nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Liền sau đó sẽ được thẩm vấn và đòi buộc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Câu hỏi sẽ là:

- Anh chị em có tin kính Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Dựng nên trời đất không?

- Anh chị em có tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha… ?

- Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần… ? Câu trả lời cho cả ba câu hỏi trên sẽ là, “Thưa có.”

Và cứ thế, hằng ngày, biết bao lần chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi, từ khi thức dậy cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm … chúng ta đọc kinh Vinh Danh, kinh Sáng Danh, kinh Tin Kính… nhất là chúng ta làm Dấu Thánh Giá nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, cho thấy toàn thể thân xác cũng như linh hồn ta, tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi bao trùm toàn bộ đời sống ta.

Vậy, nhờ ân sủng của bí tích Rửa Tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng ta được kêu gọi để tham dự vào sự sống của Ba Ngôi Diễm Phúc, “ở trần thế này trong bóng tối của đức tin và sau khi chết trong ánh sáng vĩnh cửu” (GLHTCG số 265). Amen.

 

62. Thần Khí Sự Thật – Lm. FX Vũ Phan Long

1.- Ngữ cảnh

“Sách về Giờ của Đức Giêsu” của TM Ga kéo dài từ ch. 13 đến ch. 20. “Diễn từ cáo biệt” (ch. 13–17) là phân đoạn đầu tiên của “Sách” này. Chúng ta có thể xác định bố cục của phân đoạn này như sau:

- Bữa ăn cuối cùng (13,1-30);

- Bài diễn từ (phần 1: 13,31–14,31):

a) Dẫn nhập (13,31-38),

b) Phân đoạn 1 (14,1-14),

c) Phân đoạn 2 (14,15-24),

d) Phân đoạn 3 (14,25-31).

- Bài diễn từ (phần 2: 15,1–16,33):

a) Phân đoạn 1 (15,1-17),

b) Phân đoạn 2 (15,18–16,4a): các môn đệ bị bách hại,

c) Phân đoạn 3:

* Đơn vị 1 (16,4b-15): Đấng Bảo Trợ [cc. 5-7; 8-11; 12-15],

* Đơn vị 2 (16,16-33).

- Bài diễn từ (phần 3: 17,1-26):

a) Phân đoạn 1 (17,1-8),

b) Phân đoạn 2 (17,9-19),

c) Phân đoạn 3 (17,20-26).

Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay nằm trong phần hai, phân đoạn 2 và đơn vị 1 của Diễn từ cáo biệt.

2.- Bố cục

Bản văn Ga 16,12-15 có thể chia thành ba phần:

1) Câu chuyển tiếp (16,12);

2) Vai trò của Thần Khí (16,13-14);

3) Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu (16,15).

3.- Vài điểm chú giải

- không có sức chịu nổi (12): Dùng động từ Hy Lạp bastazein ở đây cũng lạ. Động từ này thường được sử dụng trong khung cảnh cuộc Thương Khó (19,17; x. Lc 11,46; 14,27; Gl 6,2.5). Bởi vì ý tưởng căn bản là các môn đệ không thể hiểu, mà bastazein lại có nghĩa là “nâng lên, mang, vác, chịu đựng”. Do đó, rất có thể câu nói muốn nói là nhờ Thánh Thần, các môn đệ hiểu biết mạc khải, nhưng cũng tham dự vào cái chết và cuộc tôn vinh của Đức Giêsu (x. 13,7.33).

- Thần Khí sự thật (13): Danh hiệu này đã xuất hiện trong đoạn văn đầu tiên nói về Đấng Bảo Trợ (14,17). Dịch sát là “Thần Khí của sự thật” (“sự thật”, alêtheia ở thuộc-cách). Trong tư tưởng Ga, thuộc-cách này chỉ đối tượng: Thần Khí truyền đạt sự thật, cho dù cũng có thể hiểu là một thuộc-cách đồng-chức-ngữ (apposition) (x. 1 Ga 5,6 [7]: “Thần Khí là sự thật”). Ở đây, câu văn không mô tả yếu tính hay hữu thể của Thần Khí.

- Người sẽ loan báo (13): Động từ anangellein, “loan báo, khai mở, tuyên bố”, xuất hiện ba lần trong các chương 13–15. Ý nghĩa chung của động từ này là “nói lại những gì đã được nói rồi” (ngoại trừ Ga 4,25), bởi vì tiếp đâu ngữ ana- có giá trị như tiếp đầu ngữ re- trong tiếng Anh (re-announce, re-proclaim). Bản LXX, đặc biệt sách Isaia, cũng dùng động từ này theo nghĩa ấy (x. Is 42,9; 44,7; 45,19; 46,10).

- tới sự thật toàn vẹn (13): Trong câu văn hodêgêsei hymas en tê alêtheia pasê, en + tặng-cách cho hiểu rằng đây không phải là đạt tới một chân lý mới, một chân lý vượt quá chân lý thuộc mạc khải của Đức Kitô. Trái lại, đây là nghĩa trọn của chân lý cũng là bản thân Đấng mạc khải.

- những điều sẽ xảy đến (13): Phải chăng sẽ có một mạc khải mới? Thật ra, dựa vào ý nghĩa của anangellein và chiều hướng cánh chung học đã thể hiện của TM IV, có thể nói rằng “loan báo những điều sẽ xảy đến” có nghĩa là giải thích cho mỗi thế hệ thấy những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm có một ý nghĩa cho họ hôm nay.

- Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy (15): Trong thần học về Chúa Ba Ngôi, câu này đã được dùng để chứng minh rằng Chúa Con có cùng một bản tính với Chúa Cha; nhưng ở đây tác giả Ga đang nghĩ đến mạc khải được thông ban cho loài người.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Chương 16 (cũng như ch. 14 là bản văn đầu tiên nói đến Đấng Bảo Trợ) nói đến vai trò của Đấng Bảo Trợ như là thầy dạy các môn đệ.

* Câu chuyển tiếp (12)

Câu 12 chuyển sang vai trò của Đấng Bảo Trợ là giảng dạy. Đức Giêsu muốn nói gì khi tuyên bố là Người còn nhiều điều phải nói, nhưng vào lúc này, các môn đệ không có sức chịu nổi? Phải chăng Người có ý nói là sẽ có những mạc khải mới sau khi Người chết? Tuy nhiên, Ga 15,15 dường như loại trừ những mạc khải mới: “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết”. Câu 12 cũng theo một chiều hướng như vậy: chỉ sau khi Đức Giêsu sống lại, các môn đệ mới hiểu được trọn vẹn những gì đã xảy ra và đã được nói trong thời gian Đức Giêsu hoạt động (x. Ga 2,22; 12,16; 13,7). Lời hứa ban cho các môn đệ hiểu sâu hơn có thể được diễn tả bằng câu “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”, bởi vì Đức Giêsu sẽ tác động trong và qua Đấng Bảo Trợ mà thông ban sự hiểu biết này. Khó mà có thể khẳng định rằng trong TM IV, có ý tưởng về một sự mạc khải khác nữa sau hoạt đông của Đức Giêsu, bởi vì Người chính là sự mạc khải của Chúa Cha, là Lời của Thiên Chúa (1,1.14.18).

* Vai trò của Thần Khí (13-14)

Ở đây chúng ta được giới thiệu Đấng Bảo Trợ như là vị hướng dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn. Trong Cựu Ước, đã có những ý tưởng như thế về Thần Khí (x. Tv 25,4-5 [sự thật]; 143,10 [thần khí]; Is 63,14). Đôi khi người ta nêu vấn nạn là: các bản văn Cựu Ước đó chỉ liên hệ đến việc hướng dẫn luân lý, chứ không liên hệ đến việc hiểu biết mạc khải sâu xa hơn; và như thế dung mạo Đấng Bảo Trợ do Ga phác ra hoàn toàn khác: như vậy, “thần khí”, “đường lối”, “chân lý” trong TM Ga có ý nghĩa hoàn toàn khác. Thật ra đó là bối cảnh Cựu Ước và tác giả TM IV đã đi từ bối cảnh đó để viết; nhưng chắc chắn Đấng Bảo Trợ hướng dẫn trên con đường chân lý không chỉ có nghĩa là đưa đến một hiểu biết sâu sắc hơn bằng lý trí những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng còn hàm ý là đưa đến một cách sống phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu. Và như vậy, tư tưởng Ga không xa tư tưởng Cựu Ước như ta tưởng. Ta cũng có thể nghĩ đến vai trò hướng dẫn của Đức Khôn Ngoan (x. Kn 9,11; 10,10); cũng như gương mặt của Đức Giêsu theo Ga được phác ra phỏng theo Đức Khôn Ngoan thần linh được nhân cách hóa, thì dung mạo của Đấng Bảo Trợ cũng được phác ra tương tự.

Đấng Bảo Trợ sẽ hướng dẫn các môn đệ tới sự thật toàn vẹn. Ở Ga 8,31-32, Đức Giêsu đã hứa: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật”. Điều này được nên trọn trong và qua Đấng Bảo Trợ. Dẫn dắt tới sự thật toàn vẹn là dẫn đưa vào mầu nhiệm của Đức Giêsu là Sự Thật (14,6). Chi tiết xác định “sự thật toàn vẹn” (x. 14,26) và điểm nhấn rằng Đấng Bảo Trợ sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng chỉ nói những gì Người nghe, dường như cũng xác nhận rằng không có mạc khải mới. Đấng Bảo Trợ sẽ giúp cho mỗi thế hệ hiểu sâu sắc những gì Đức Giêsu muốn cho chính thời đại họ.

Câu 14 càng củng cố ấn tượng là Đấng Bảo Trợ không mang đến một mạc khải mới, bởi vì Người nhận từ Đức Giêsu những gì Người phải loan báo cho các môn đệ. Tuy nhiên, “dẫn tới sự thật toàn vẹn” không phải là việc duy nhất trong công tác “làm nhớ lại” (14,26). Bởi vì Thánh Thần cũng là “Đấng tạo hóa”, việc nhớ lại Người làm ra cũng đi đôi vối việc loan báo “những điều sẽ xảy đến (erchomena)”: việc nhớ lại không làm cho các môn đệ quay lưng lại với tương lai, nhưng giúp họ nắm lấy và giải thích tương lai.

Như Đức Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha (17,4) bằng cách mạc khải Chúa Cha cho loài người, nay Đấng Bảo Trợ “tôn vinh” Đức Giêsu bằng cách mạc khải Người cho loài người. Vinh quang hàm ý có sự tỏ hiện ra hữu hình: Đấng Bảo Trợ sẽ làm chứng và biến người ta thành chứng nhân (15,26-27) cho Đức Giêsu Phục Sinh; như thế Người sẽ giới thiệu công khai Đức Giêsu Phục Sinh đang chia sẻ vinh quang của Chúa Cha (17,5). Và đây cũng là một yếu tố thuộc cánh chung học đã thể hiện: Đối với các TMNL, Con Người sẽ đến trong vinh quang vào Ngày Cuối Cùng (Mc 13,26), còn đối với TM IV, đã có vinh quang rồi do Đức Giêsu hiện diện trong và qua Đấng Bảo Trợ.

* Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu (15)

Câu 15 gián tiếp nhắc đến tương quan của Đấng Bảo Trợ với Chúa Cha và với Chúa Con. Ở chương 16 này, ta thấy Đức Giêsu là Đấng sai phái Đấng Bảo Trợ (16,7); nhưng ở 14,16.26, Chúa Cha lại là Đấng sai phái. Nhưng c. 15 cho thấy rằng khi viết ch. 16, tác giả cũng biết rằng cuối cùng Đấng Bảo Trợ, cũng như Đức Giêsu, là sứ giả của Chúa Cha. Khi loan báo hoặc giải thích những gì thuộc về Đức Giêsu, Đấng Bảo Trợ thực sự giới thiệu Chúa Cha cho loài người; bởi vì Chúa Cha và Đức Giêsu có mọi sự chung với nhau. Sau này các nhà thần học Đông phương và Tây phương sẽ tranh cãi trong Thần học về Ba Ngôi xem Thánh Thần nhiệm xuất từ một mình Chúa Cha hay là từ Chúa Cha và Chúa Con. Còn trong tư tưởng Ga, không thể hiểu được chuyện Đấng Bảo Trợ có điều gì nhận lấy từ Đức Giêsu mà lại không nhận lấy từ Chúa Cha, nhưng tất cả những gì Người có để cho loài người, đều nhận lấy từ Chúa Cha và từ Đức Giêsu.

+ Kết luận

Vai trò của Thánh Thần được khẳng định rõ ràng: Người đưa các thế hệ môn đệ vào trong sự thật toàn vẹn, tức là hiểu biết sâu sắc mầu nhiệm Đức Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể. Như Đức Kitô luôn quy chiếu về Chúa Cha, Đấng đã sai phái Người (x. 7,17-18; 12,49; 14,10), Thánh Thần cũng quy chiếu về Chúa Con. Người sẽ là vị “gia sư” nhắc lại cho các môn đệ tất cả mạc khải của Đức Giêsu và giúp đào sâu qua các thời đại.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Qua bản văn này, chúng ta thấy Đức Giêsu nói về Chúa Cha và Thánh Thần như là những nhân vật riêng biệt, khác với chính bản thân Người. Người giới thiệu Chúa Cha như là nguồn mạch thông ban mọi sự: Chúa Cha sai phái Chúa Con và Thánh Thần; Chúa Con luôn quy chiếu về Chúa Cha để nhận Lời mà truyền đạt cho các môn đệ, cũng như để lấy các quyết định. Chúa Con công chính hóa loài người, ban cho họ sự bình an của Người và ký thác cho họ quyền lực giao hòa. Người nói về Thánh Thần như là một nhân vật mà người ta đang chờ đợi, sẽ đến để hoàn tất một sứ mạng riêng, đó là đưa các môn đệ đến chỗ hiểu kỹ càng hơn trọn vẹn mạc khải Người đã ban. Đàng khác, Người cũng cho thấy là Chúa Cha và Thánh Thần kết hợp mật thiết với Người, đến nỗi Đấng này không làm gì mà không có Đấng kia. Sự tách biệt nói lên tính tự lập, sự kết hợp nói lên sự hiệp thông trọn vẹn. Đây là mẫu mực cho đời sống của mọi tập thể trong Họi Thánh.

2. Mặc dù Đức Giêsu đã truyền đạt cho các môn đệ tất cả các bí mật của Người (Ga 15,15), các ông vẫn chưa hiểu được. Các ông cần một phương pháp thích ứng mà Thánh Thần, với khoa sư phạm riêng, sẽ cung cấp cho. Thánh Thần không phải là một vị thầy giảng dạy, nhưng là một vị “gia sư” giải thích cặn kẽ giáo huấn của vị thầy. Như vậy, Thánh Thần không có giáo thuyết riêng; Người chỉ nhắc lại mạc khải về Chúa Cha nơi Chúa Con và giúp các môn đệ hiểu (14,26). Thánh Thần cũng giúp các thế hệ môn đệ hiểu được mạc khải của Đức Kitô và chọn được các xử sự tương ứng. Đưa lại một ý nghĩa Kitô giáo cho lịch sử, giúp người ta khám phá ra trong mọi sự có dấu vết của chương trình Thiên Chúa, đó là sứ mạng của Thánh Thần nơi các môn đệ, và đó cũng là sứ mạng chứng nhân của họ.

3. Từ ngữ “sự thật” trong truyền thống Kinh Thánh hàm ý “sự vững vàng”, “sự bền bỉ”, “thực tại chắc chắn”. Sự thật của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Kitô (Ga 1,9). Vậy điểm tựa vững chắc của người tín hữu là Đức Giêsu Kitô (Ga 1,12). Thánh Thần sẽ giúp các tín hữu xác tín về vai trò này của Đức Giêsu và luôn liên kết với Người.

4. Ba Ngôi là “thẻ căn cước” của người Kitô hữu. Người môn đệ của Đức Giêsu phải phản ánh dung mạo của Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. Người ta thấy được dấu ấn Ba Ngôi nơi cộng đoàn khi mọi người được chấp nhận và đón tiếp, khi niềm vui và nỗi buồn được chia sẻ, khi sự đa dạng không xóa mất sự hợp nhất, nhưng làm cho mọi người nên phong phú. Chúng ta thấy được dấu ấn của Ba Ngôi tại bất cứ nơi nào người ta tìm kiếm vinh quang chân thực: không phải là thứ vinh quang do cạnh tranh và thống trị, nhưng do khiêm nhường phục vụ những ai cần được yêu thương.

5. Hôm nay, chúng ta không cử hành một Tín điều của Giáo Hội, nhưng cử hành một mầu nhiệm sâu thẳm là chính Thiên Chúa, Đấng đã chọn cắm lều giữa chúng ta, “là người thật và cũng là Thiên Chúa thật”, đã không để chúng ta mồ côi, nhưng cho chúng ta được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa nhờ ân sủng của Thánh Thần. Chính Thánh Thần không ngừng nối kết ta với Thiên Chúa và với tha nhân trong tình yêu. Chính niềm tin về mối tương quan này sẽ mở mắt và giúp ta ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa, như một nhà thần bí nói rằng: “Gần kề với chúng ta hơn cả chính chúng ta”. Giáo lý về Chúa Ba Ngôi nói đến chính tình yêu Thiên Chúa không ngừng đổ tràn trên thế giới này. Đây không phải là ngày để các vị giảng thuyết tìm kiếm những “giải thích hay ví dụ” về Ba Ngôi. Hôm nay không phải để nói về từ ngữ hay cấu trúc, nhưng là cử hành sự hiện diện sống động của Thiên Chúa, Đấng đang cư ngụ giữa chúng ta. Hôm nay, chúng ta ca tụng. Nếu muốn biết thêm về những mâu thuẫn liên quan đến Ba Ngôi vào thời đầu của Giáo Hội và giáo lý này tiến triển ra sao, thì ngày mai chúng ta có thể tìm trong sách vở (Siciliano).

 

63. Chú giải của Noel Quesson

Kinh Thánh không công bố lần nào từ trừu tượng, “Chúa Ba Ngôi” cả. Kinh Thánh cũng không bao giờ định nghĩa như ngôn ngữ duy lý Hi Lạp sẽ làm, là có “Ba Ngôi vị trong Thiên Chúa duy nhất. Mầu nhiệm cố yếu nhất trong Thiên Chúa không được mạc khải bằng những công thức nhưng nhờ các sự kiện Cựu ước chỉ nói về Thiên Chúa Người Cha" (Đnl 32,6 - Tv 67, 6 - Is 63, 16 Gr 2, 4.1). Và các “con cái” của Thiên Chúa là dân tộc Israel (Xh 4,22 -Hs 11,1), hay hiện thân là ông Vua (2 Sm 7,14 - Tv 110,3) hơn những người công chính (Kn 2, 18 - 5,5 - 18, 13). Sau cùng, ta nhận thấy Thần Khí của Thiên Chúa xâm nhập một số người (St 41, 38 - Ti 6, 34 -Is 11,2 - Ed 39, 29 - Ge 3, 1).

Đúng vậy Cựu ước đã không mạc khải cách minh nhiên Ba Ngôi trong Thiên Chúa. Nhưng ngay các tác giả Tân ước cũng lập lại thứ ngôn ngữ Kinh Thánh trên, để diễn tả tính hoàn toàn mới lạ của “hiện tượng Giêsu": Ngài trực diện với Chúa Cha, và loan báo việc thông ban Thần Khí. Khi cắt nghĩa những sự kiện đó, Kitô giáo còn phải dò dẫm suy tư rất lâu, trước khi xác định một kiểu diễn tả đức tin đầu tiên nhớ những quan niệm triết học HiLạp, từ Công đồng Ni-xê năm 325 đến Công đồng Kan-xê-Đoan năm 451.

Trong trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêau nói về Thánh Thần.

Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi.

Đó là một kinh nghiệm mà con người chúng ta thường gặp thấy Ngay cả với những người thân yêu, chúng ta cũng khó mà "thông truyền" hết những gì mà chúng ta mang trên mình và muốn chia sẻ cho họ. Như vậy, trước khi chịu chết Đức Giêsu đã không nói hết mọi điều. Nhưng đây không chỉ là khó khăn ta quen gặp trong vấn đề diễn tả. Đây chính là mầu nhiệm đức tin mà ta chỉ dần dần bước vào. Ngay cả những bạn hữu thân thiết nhất, đã sống kề cạnh lâu ngày với Đức Giêsu, cũng không nhận thức được điều gì đã xảy ra, Người là "Ai". Họ mang quá nhiều ý kiến có sẵn về Thiên Chúa và Đấng Mê-xi-a đã được hứa ban. Họ cần phải tự lột bỏ, thay đổi ý kiến, và lớn lên trong đức tin. Chỉ có thập giá và sự Phục sinh của Người, như một thứ va chạm điện mãnh liệt, mới phá được những xác tín của họ và bó buộc họ phải tiến triển.

Phải, đức tin là một sự "tiến triển". Đó là một sức sống cần phải phát triển. Trong Thiên Chúa, luôn có những điều mới lạ cần phải khám phá, cũng như trong sự phát triển của một tương quan yêu thương với một người nào đó: hôn phu, người chồng, bạn hữu, đồng nghiệp... Biến cố bi đát của tông đồ, là những người hầu như không: hiểu biết gì về Đức Giêsu trước lúc Người ra đi, cảnh giác chúng ta không nên biến đức tin thành một Đức tin tĩnh, chỉ đắc thủ một lần là xong... "Tôi có đức tin rồi..." “Tôi không thể mất đức tin..."

Cũng như các tông đồ tôi mới chỉ ở bước đầu của một cuộc khám phá, một cuộc mạo hiểm. Lạy Chúa, đối với con, cũng có nhiều điều con chưa chịu nổi, Thần Khí của Chúa sẽ mạc khải cho con sau này, nếu con biết chăm chú lắng nghe. Xin giữ gìn thần trí con luôn thức tỉnh để đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa! Chớ gì đừng bao giờ con tự mãn, coi mình là hiểu biết tất cả, vênh vang trước những mảnh vụn Đức tin tầm thường mà con đang sống.

Dĩ nhiên, con cũng nghĩ đến những người con đang chung sống. Họ cũng gặp một tình trạng như thế: Họ đang bước đi trên cùng "con đường đức tin" đó. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói, có những chân lý, những thái độ họ chưa khám phá ra cách sống động... Giờ đây họ chưa có thể "chịu nổi"? Lạy Chúa, xin ban cho con sự kiên nhẫn của Chúa. Chớ gì con biết tiến bước nhịp nhàng với Chúa, với những mạc khải yêu thương của Chúa... cùng đồng hành với anh em con trong bước tiến riêng của họ.

Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.

Tôi ghi nhận từ đẹp trên đây: "dẫn tới" Tôi hình dung ra một người dẫn đường lên núi cao. Đó là người biết rõ mọi lối đường là người yêu thích và thưởng ngoạn ngọn núi đó mà anh muốn làm cho người khác càng thích thú... Là người đi trước và giúp ta tiến lên. Nhưng như bạn biết, người dẫn đường không thay thế bạn được: chính bạn phải bước theo. Nếu vì quá mệt lả, bạn từ chối bước cao hơn... Anh ta không thể cưỡng chế tự do của bạn. Anh ta hiện diện ở đó, là để "hướng dẫn” bạn. Lạy Thần Linh Thiên Chúa, ánh sáng dịu dàng. Xin hướng dẫn con, để con không từ chối việc lên núi... một bước…. rồi thêm một bước nữa! để trên bước đường con đi tới, con gặp được những người dẫn đường tình nghĩa huynh đệ mà Thần Khí Chúa đang tác động.

Bởi vì, đúng vậy, đúng là một cuộc "chạy đua lên núi cao": Đức tin là cuộc tìm kiếm mầu nhiệm Thiên Chúa! Đó là chóp đỉnh không ai có thể một mình đạt tới: cần phải có một "người nào đó" dẫn lên. Cần phải có một ông thầy, một người dẫn đường biết rõ bí mật.

Trong suốt nhiều thế kỷ, các Công đồng cố gắng tìm hiểu những lời trên đây của Gioan...và kết thúc bằng cách quả quyết rằng, thực sự' Thần Khí là một "Đấng nào đó "...là một Ngôi vị... là Đấng hiểu biết mầu nhiệm thâm sâu của Thiên Chúa từ bên trong, để hướng dẫn con người đạt tới đó Trong bức ảnh diễn tả Chúa Ba Ngôi của Roublev, Thánh Thần là ngôi thứ ba, với khuôn mặt tuyệt đối giống hai ngôi kia, Chúa Cha và Chúa Con. Nhưng trong tư thế đầu Ngài hoàn toàn nghiêng về hai Ngôi kia cách âu yếm để hoàn thành chuyển động của "vòng tròn hoàn hảo" , thì mắt Ngài thực tế lại nhìn về phía trái đất, hướng đến con người đang cầu nguyện trước ảnh tượng, để "mở ra" và “thông truyền" cho con người chính sự chuyển động của Thiên Chúa: đó là Tình Yêu!

Thần Khí sự thật! Sự thật toàn vẹn!

Nhưng coi chừng! khi bàn về Thiên Chúa, sự thật không phải là thái độ tri thức... cũng như' sự hiểu biết về một con người mà ta muốn yêu thương. Trước hết, không phải là học biết, quan sát, đo nghiệm, đặt dưới ống kính hiển vi... nghiên cứu cách khoa học, như thể ta nghiên cứu một "sự vật" ở đây, thuộc về một lãnh vực khác. Hiểu biết một "Người nào đó" là bước vào mối tương quan với họ.

Nói rằng mình là "tín hữu không thục hành"... thì đó là một lời thú nhận quan trọng, nếu người đó ý thức và thực sự đã suy nghĩ kỹ. Một tình yêu nếu không được "thực hành" thì sẽ là gì? Một tương quan với một người nào đó, nếu không thể sống động và thể hiện, thì sẽ ra sao? Lạy Thần Khí sự thật, xin hướng dẫn con tới sự thật "toàn vẹn"!

Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.

Đó là hình ảnh của tiếng phản dội vào thần trí ta. Giữa Chúa Cha, Đức Giêsu và Thánh Thần, luôn có sự liên tục hoàn hảo. Đó là cùng một tiếng nói lập lại nhiều lần, với cách thức khác nhau. Thánh Thần không nói gì khác về Đức Giêsu cả! Sự thật duy nhất và xác thực về Thiên Chúa, là Đức Giêsu. Mọi sự người ta đã nói trước, và mọi điều Người ta đã nói sau... về Thiên Chúa, mà không phù hợp với những gì Đức Giêsu của Thiên Chúa tỏ lộ cho ta, thì đều sai lầm! Đó là một Thiên Chúa giả! và với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta cần phải điều chỉnh nhiều ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa. "Nếu Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, thì ân sủng và sự thật nhờ Đức Giêsu Kitô mà có" (Ga 1,17) "Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sáng (Ga 14,6)

Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em.

Như chúng ta đây biết, Đức Giêsu là Người con hoàn hảo, hoàn toàn hướng về Chúa Cha. Đức Giêsu "không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm, vì điều gì Chúa Cha làm, thì Người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu Người Con và cho Người Con thấy mọi điều mình làm" (Ga 5,19-20). Đó là mầu nhiệm thâm sâu của Chúa Ba Ngôi: Mỗi Ngôi là sự thấu suốt trọn vẹn của Ngôi khác. Ở đây, Đức Giêsu mạc khải cho thấy, Thánh Thần bước vào hoạt động thẩm chiếu trọn vẹn đó. Những tương quan yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không có gì là giấu ẩn, là che đậy đóng kín: Mỗi Ngôi trong Ba Ngôi không giữ cái gì làm của riêng mình". Mọi sự đều được chia sẻ, thông ban, hiến tặng... và mọi sự đều được tiếp đón, nhận lãnh! Những lời nói trần gian của chúng ta đều trở yếu kém, để diễn tả tính chất phi thường của mối liên quan liên kết Chúa Cha, Chúa Con, và Thánh Thần. Mọi tương quan nhân loại của ta đều bắt nguồn từ mối tương quan đó! Đỉnh cao không thể vượt qua được về Thiên Chúa, đó là: mạc khải về Chúa Ba Ngôi.

Nhưng trước hết, Chúa Ba Ngôi không phải là một thứ ẩn ngữ, một thứ siêu phương trình toán học dành cho những nhà trí thức ưu hạng... Đó chỉ là một thực tại hoàn toàn giản đơn bị che giấu đối với các bậc khôn ngoan thông thái nhưng lại được mạc khải cho những người 'bé mọn" (Mt 11,25). Bởi vì, nói về Thiên Chúa cũng là nói về con người, "được tạo dựng theo hình ảnh và hòa ảnh của Thiên Chúa". Bé thơ, trẻ mới sinh không biết rằng nó có một gia đình. Nhưng ngay từ những tuần lễ đầu tiên, mơ hồ nó thấy mình được che chở trong một tình yêu thương... Nó cảm thấy quanh mình một tình âu yếm, luôn đáp lại mọi cơn đói khát, mọi tiếng kêu la của nó. Trước hết nó cảm nghiệm tình yêu đó như "một" cái gì lờ mờ, nhưng hoàn toàn mạnh mẽ và thích thú. Bé chỉ cần bật tiếng khóc, là "nó" có mặt ở đó...

Với thời gian, cuối cùng thì bé cảm nhận được rằng, sự hiện diện đó có nhiều dạng không hẳn chỉ là "một" tiếng cao và giọng trầm, khuôn mặt mịn như nhung và khuôn mặt lởm chớm những rầu, bàn tay mềm mại và bàn tay sắt thép... Nhiều người đang phải sống cùng một tình thương đó quanh bé, vì bé..." (Rey-mermet). Bằng cách đó, những người đơn sơ cũng khám phá ra mầu nhiệm của Gia đình Thiên Chúa: nhờ "thực tập" ngày này qua ngày khác...cho tới lúc ở trong Gia đình.

Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy , vì thế Thầy đã nói: “Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em".

Một lời phát biểu gây ngạc nhiên. Trước hết chúng ta hãy để cho lời đó gây bối rối nơi ta.

Một anh thợ mộc làng Nadarét tầm thường, một con người cũng mang xương thịt thấp hèn, thế mà trước ngày bị kết án tử hình bởi những nhà cầm quyền dân sự và tôn giáo của đất nước anh, đã dám cả quyết rằng "mọi sự Thiên Chúa có đều là của anh".' Và không chỉ một lần trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã gợi lên sự hiệp nhất lạ lùng như thế giữa Người và Thiên Chúa: Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa hữu hình (ta có thể nói được như thế! bởi vì quả thực Thần Khí của Đức Giêsu, biểu lộ cách vô biên ngoài tầm mắt của ta). Và Thần Khí, chính là Đức Giêsu - tiếp tục và được lập lại mãi mãi trong tâm hồn con người. Thần Khí phản chiếu Đức Giêsu. Và Đức Giêsu phản chiếu Đức Chúa Cha vô hình. Tôi chiêm ngưỡng sự duy nhất và tính khác biệt này... Đó là sự hiệp thông các ngôi vị "nhiều mà chỉ là một": nguyên mẫu của con người! chương trình hành động cho mọi xí nghiệp, mọi gia đình, mọi xã hội. Đó là một "chóp đỉnh" thực sự mà một phần không thể đạt thấu. Chúng ta có để cho Người "hướng dẫn" ta tới đó không? Lạy Thánh Thần xin hãy đến!

 

home Mục lục Lưu trữ