Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 34
Tổng truy cập: 1376606
THIÊN CHÚA TỪ BI
Thiên Chúa từ bi – Như Hạ
Niềm vui phát xuất từ đâu? Tình yêu là một nguồn vui lớn. Hôm nay, Đức Giêsu muốn mạc khải bản chất tình yêu Thiên Chúa qua những nét từ bi lạ lùng. Nói khác, lòng thương xót là chiều kích thực tế của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người.
LÒNG XÓT THƯƠNG.
Đức Giêsu đã phải dùng ba dụ ngôn liên tiếp để diễn tả phần nào một khía cạnh của tình yêu Thiên Chúa. Lòng xót thương chính là một đặc tính vô cùng cao quí của Thiên Chúa. Nếu không đầy lòng thương xót, chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ có thể đi sâu vào lòng người đến thế. Chính vì lòng thương xót trời bể, Thiên Chúa mới cảm thấy "vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối." (Lc 15:7, 10) Niềm vui không đến với Chúa qua đường lối thông thường "có vay có trả". Lòng thương xót đó rất nhiệm mầu nhưng cũng rất thực tế. Chẳng ai hiểu thấu bản chất lòng xót thương. Nhưng ai cũng có thể cảm nhận lòng xót thương đó. Chính vì thế Đức Giêsu phải dùng nhiều dụ ngôn để khai sáng những chiều cạnh bí hiểm của mầu nhiệm lớn lao này.
Trước hết, ngược với mọi toan tính thường tình, người Mục tử nhân lành dám để chín mươi chín con chiên ngoài đồng hoang, để tìm con chiên bị mất (x. Lc 15:4) Ngoài đồng hoang chín mươi chín con chiên đó dễ trở thành mồi ngon cho bọn chó sói hay những quân đạo chích. Nhưng vì lòng xót thương đối với con chiên thất lạc, ông đã quên tất cả. Ông liều mạng xông vào những chỗ nguy hiểm để tìm lại một giá trị đã mất. Mỗi người là một giá trị độc đáo đối với Thiên Chúa. Không ai không được hưởng lòng thương xót của Chúa. Chính Chúa đã âu yếm gọi con người là "con chiên của tôi?" (Lc 15:6) Thiên Chúa tìm lại được tội nhân, giống như tìm lại được hình ảnh mình. Thánh Phaolô đã bám chặt vào lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, đến nỗi ông dám thách thức: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?" (Rm 8:35) Tình yêu Đức Kitô là nguyên nhân tạo nên mọi giá trị đích thực.
Giá trị đó có thể ví như đồng quan người phụ nữ đánh mất. Mất một đồng bà cũng cặm cụi tìm kiếm. Tìm được rồi, "bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại" (Lc 15:9) chung vui với bà. Niềm vui đó thật chẳng có ý nghĩa gì đối với những người giàu có. Nhưng đối với bà, một đồng thực là ý nghĩa và quan trọng. Cũng như một con chiên vẫn có một giá trị hơn chín mươi chín con kia. Thiên Chúa cần phẩm chứ không cần lượng. Quả thế, Thiên Chúa "sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn." (Lc 15:7) Chỉ có tấm lòng sám hối mới tạo nên tất cả giá trị con người. Đó là một sự thật!
Sự thật đó có thể tìm thấy nơi người con hoang đàng. Trong cảnh cùng cực, anh đã thấy tất cả sự thật và ý nghĩa cuộc đời. Anh không thể chịu nổi cảnh phi lý: "Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!" (Lc 15:17) Không thể phung phí cuộc đời trong vô vọng như thế! Khi trở về, đụng chạm trực tiếp với người cha bao dung, anh đã để những giọt nước mắt tự do tuôn rơi. Anh chẳng còn gì ngoài lòng sám hối. Nhưng đó mới là tất cả lý do khiến người cha nhân lành "mở tiệc ăn mừng!" (Lc 15:23) Ông như tìm được một giá trị vô cùng lớn lao trong người con trở về đó, "vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy." (Lc 15:24) Chính lòng sám hối có khả năng phục hồi tất cả những gì đã mất và tạo được niềm vui vô cùng lớn lao.
Phải có một con mắt nhân hậu như người cha mới thấy được giá trị cao cả của tấm lòng sám hối. Người con thứ đã trải qua những giây phút tan nát như thế và đã cảm thấy phải lệ thuộc hoàn toàn vào tình thương của cha. Nhờ lòng sám hối, người con thứ mới hưởng được một bữa tiệc thịnh soạn. Ngồi giữa bàn tiệc với "thịt con bê béo" (Lc 15: 27) và "đàn ca nhảy múa" (Lc 15:25), chắc chắn anh không thể tưởng tượng được lòng cha bao dung tới mức đó! So với lúc còn xa cha, "anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho dầy bụng, nhưng chẳng ai cho," (Lc 15:16), thật là một trời một vực! Anh thấy rõ cảnh trái ngược giữa tình cha nồng thắm và tình đời bạc đen.
Đại diện cho tình đời đen bạc đó là người anh cả, một con người chỉ biết sống với lý trí. Anh không thể hiểu được con tim người cha. Anh chỉ sống theo lẽ công bình. Suốt đời phục vụ cha, anh chỉ nhằm "một con dê con để ăn mừng với bạn bè." (Lc 15:29) Anh lại còn cố cắt nghĩa cho cha hiểu về công trạng cồng kềnh của mình. Bởi vậy anh không thể chung vui với cha. Không cảm thấy mất mát khi em lìa xa mái ấm, nên anh cũng chẳng thấy tìm lại được gì sau khi em trở về. Cha không chỉ bao dung với người em, nhưng cũng quảng đại với người anh nữa: "Tất cả những gì của cha đều là của con." (Lc 15:31) Anh hoàn toàn không hiểu biết chút gì về tấm lòng trời bể của cha. Bởi thế anh không hòa nhập và chia sẻ với cha trong nếp sống gia đình. Anh không có một cái nhìn khoan dung và bao quát để đi sâu vào tâm hồn thân phụ. Tâm hồn anh hoàn toàn khép kín với cha và em.
HÒA BÌNH VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT.
Ngày nay, chính sự khép kín đó là sinh ra mọi thứ chiến tranh. Mặc dầu sống giữa thời đại đầy ắp những phương tiện thông tin hiện đại, người ta vẫn không hiểu biết nhiều về nhau. Bởi vậy mới có những thái độ bất khoan dung và thù nghịch. Biến cố 11/9/2001 tại Hoa Kỳ là một bằng chứng. Hàng ngàn người vô tội tại World Trade Center đã phải thiệt mạng vì sự thù hận. "Không thể kiếm được từ nào để diễn tả ảnh hưởng của một trong những cuộc tấn công đẫm máu nhất thời đại." (Federico Lombardi, CWNews 111/9/2001) Toàn thể thế giới kinh hoàng khi nhìn thấy hai chiếc phản lực dân sự do bọn không tặc lao vào hai ngôi nhà chọc trời, trung tâm dịch vụ thế giới. Trong phút chốc hai biểu tượng của đất nước giàu có nhất thế giới đã sụp đổ tan tành, đè chết hàng ngàn người dưới đống gạch vụn.
Không ngờ con người có thể có những hành động quái ác như vậy! Đó là "một hành động lăng mạ khủng khiếp tới phẩm giá con người." (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 12/9/2001) Con người chưa thể thương yêu nhau vì chưa ý thức về lòng xót thương Chúa dành cho mỗi người và cộng đồng nhân loại. Lòng xót thương của Thiên Chúa chính là động lực giúp cho con người nhìn nhau như anh em và tha thứ cho nhau. Trong hoàn cảnh nhân loại, không thể tìm thấy điều kiện lý tưởng cho tình yêu. Nếu cứ chờ đợi có đủ lý do mới yêu nhau, con người sẽ thất vọng, vì trần gian là một cõi tương đối. Chỉ có lòng thương xót hay lòng khoan dung mới giúp nhân loại tồn tại.
Trước thảm họa khủng bố hôm nay, chúng ta phải làm gì? "Các nhà lãnh đạo thế giới đừng để sự thù hận và tinh thần trả thù thống trị mình, hãy làm tất cả những gì có thể làm để kìm giữ những vũ khí phá hoại gieo rắc sự hận thù và chết chóc mới và cố gắng chiếu ánh sáng vào nơi tăm tối của mối lo âu nhân loại bằng những việc làm hòa bình." (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 12/9/2001) Việc làm hòa bình đó chắc chắn phải phát xuất từ niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã in dấu từ bi vào bản tính nhân loại. Nhưng không hiểu tại sao "từ tận tầng thẳm sâu của tâm hồn con người đôi khi nổi lên những mưu kế độc ác ngoài sức tưởng tượng, có thể phá hủy trong chốc lát đời sống thường ngày của một dân tộc. Nhưng khi chữ nghĩa không diễn tả nổi, thì đức tin đến giúp chúng ta." (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 12/9/2001) Đức tin đem lại niềm hi vọng. Chỉ vì không đặt niềm tin nơi Đức Giêsu, hiện thân lòng Thiên Chúa xót thương, nên "những tên khủng bố là những người tuyệt vọng; họ cảm thấy không có gì để mất. Họ không nhìn thấy tương lai, bởi thế họ sẵn sàng giết người khác và chính mình." (TGM Renato Martino, CWNews 13/9/2001) Đúng là một thảm họa cho nhân loại. Thảm họa đó chỉ có thể diệt trừ nếu "cả thế giới thành thật cam kết tìm kiếm hòa bình" và đừng chỉ "chú tâm tới quyền lợi riêng" (TGM Renato Martino, CWNews 13/9/2001).
Chính vì chỉ chú ý tới quyền lợi riêng, nên lòng người anh cả không bao giờ bình an. Nhưng bình an bao giờ cũng là mối phúc chính yếu Chúa gởi đến nhân loại. Bằng chứng, ngay sau khi Trung Tâm Mậu Dịch Thế Giới sụp đổ, hàng ngàn nhân viên cứu trợ tình nguyện đã túa đến tìm kiếm những người còn sống sót trong đông gạch vụn. Khắp nơi dân chúng đã rủ nhau đi hiến máu. Dân chúng New York "thi đua tỏ lòng liên đới" (TGM Renato Martino, CWNews 13/9/2001) với những nạn nhân khủng bố.
Khủng bố chỉ là một dấu chỉ sự xáo trộn cực độ trong tình liên đới nhân loại. Con người không thèm nhìn nhau là anh em, chỉ vì không thấy được hình ảnh Thiên Chúa nơi anh em. Để có thể thấy được hình ảnh Thiên Chúa, con người cần sám hối. Lý do vì nhờ sám hối, con người nhìn lại được hình ảnh Thiên Chúa trong đáy lòng mình. Nhờ đó, họ mới thấy được tình liên đới với anh em.
Tóm lại, dù nhiều người đang chìm ngập trong thất vọng, nhưng Kitô hữu vẫn vững tin. Vì tình yêu Thiên Chúa còn đó! Lòng sám hối còn đó! Sám hối có thể phục hồi tất cả. Người con thứ đã dạy chúng ta bài học lớn lao đó. Nhưng có sám hối được hay không, đó là nhờ lòng tin tưởng sâu xa vào Thiên Chúa. Càng tin tưởng sâu xa, càng cảm nghiệm lòng thương xót trời bể của Thiên Chúa. Thánh Phaolô cảm nghiệm sâu xa về lòng Chúa xót thương: "Tôi đã được Người thương xót. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên." ((1 Tm 1:13.16) Xưa kia, trước cơn đe loi của Thiên Chúa, "ông Môsê cố làm cho nét mặt Đức Chúa, Thiên Chúa của ông, dịu lại. Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe." (Xh 32:11.14)
64. Linh mục là tôi tớ của đàn chiên
LINH MỤC KHÔNG PHẢI LÀ ÔNG CHỦ, NHƯNG LÀ TÔI TỚ CỦA ĐÀN CHIÊN
(Giuse Võ Tá Hoàng chuyển ngữ /zenit.org)
Chúa nhật hôm nay chúng ta đọc các dụ ngôn của thánh sử Luca về lòng thương xót, cùng chung với 3 bài đọc Kinh thánh của phụng vụ Lời Chúa, cho phép chúng ta đặc biệt áp dụng giáo huấn này đối với hình ảnh và sứ vụ của linh mục.
Trước hết, trang Tin mừng giới thiệu hình ảnh của người mục tử, người đi tìm kiếm chiên lạc trong sa mạc, mạc khải về lòng thương xót của Thiên Chúa Cha trong Đức Kitô, cũng như ám chỉ rõ ràng về thái độ của mỗi linh mục, được mời gọi tìm kiếm những người đang quay lưng lại với đoàn chiên của ơn cứu độ. Dụ ngôn tiếp theo sau cũng chung một bài học như vậy.
Trong phần thứ hai của Tin mừng, Chúa Giêsu kể về dụ ngôn người cha giàu lòng thương xót và đứa con hoang đàng. Qua dụ ngôn này chúng ta lưu ý chỉ một điều: đứa con hoang đàng đang ở trong nhà cha mình, anh không muốn sống như một người con, anh muốn tự thay thế cha mình: vì thế anh đòi quyền quản lý phần tài sản của mình, để có được nó, để có thể sống như ông chủ của những thứ đó và của những người ông gặp gỡ, qua đó anh sẽ dùng ảnh hưởng của mình bằng cách sử dụng của cải đã nhận được. Tuy nhiên, trong khi anh ở trong nhà, dưới sự hướng dẫn khôn ngoan của cha mình, anh đã có thể tận hưởng được tất cả những mối lợi của vị thế làm con của mình; nhưng trái lại, giờ đây anh đã tiêu hoang tất cả, kết thúc trong sự khốn khổ, bị bạn bè thân thích bỏ rơi, bởi vì họ đã kết giao với anh chỉ vì lợi ích của họ, và có thể lấy hết tất cả những gì người con hoang đàng có trong tay.
Đây cũng là vấn đề cay đắng của mỗi linh mục trong nhà Chúa, là Giáo hội. Vị linh mục muốn hành động không như người con, mà như một ông chủ. Người con hoang đàng là hình ảnh rõ ràng của những người tội lỗi, và cũng bao gồm hình ảnh của linh mục, người không biết tự kiềm chế và không cư xử như thừa tác viên của Thiên Chúa (Minister, tiếng la tinh có nghĩa là tôi tớ). Và như vậy, linh mục muốn nắm giữ quyền bính trong tay mình: ngài quyết định! Và cũng có thể, linh mục làm cho một số người bị ràng buộc với ngài, vì một số lý do, ngoại trừ một điều: cùng đồng hành với nhau hướng về Thiên Chúa. Nhưng cuối cùng, điều gì còn lại trong đôi tay của vị linh mục, người đã đặt cuộc sống mình theo cách này? Sự nghèo nàn của cuộc sống và của một thừa tác viên bị thất bại. Cho nên, linh mục phải khôn ngoan và trở về với Cha, để sống như là người con và tôi tớ của cha. Phải ở lại trong nhà, vâng phục Thiên Chúa, và chỉ như vậy linh mục mới có thể làm trổ sinh hoa trái tốt đẹp.
Trong bài đọc I, bài học này đã được tiên báo. Dân tộc tội lỗi và Thiên Chúa, có lẽ để thử thách Môsê, Người nói với ông: “Dân của ngươi, dân mà ngươi đưa ra khỏi đất Ai-cập, đã bị hư hỏng”. Đứng trước hoàn cảnh này, Môsê có thể quyết định để giải quyết vấn đề một mình, bằng nổ lực và bằng những quyết định độc lập của mình: “Tôi đã đưa dân tộc này ra khỏi Ai-cập, giờ đây họ không còn lắng nghe những chỉ dẫn của tôi, tôi sẽ giải quyết vấn đề theo cách này….”
Nhưng Môsê là người của Chúa và là tôi tớ của Thiên Chúa: ông biết rằng dân này không phải của ông; ông biết rằng ông là người trung gian giữa Thiên Chúa với dân, một thừa tác viên của Thiên Chúa bên cạnh dân, là những người còn sót lại của Chúa chứ không phải của ông. Cho nên ông trả lời: “Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập?. Môsê trả lời rất hay: Dân tộc này đã được Thiên Chúa giải thoát chứ không phải ông. Sau câu trả lời đầy khôn ngoan, Thiên Chúa đã ra tay can thiệp. Như là dân của Người, Người sẽ sửa dạy những lỗi lầm, tha thứ tội lỗi và sẽ chỉ ra lối đi để đi lại hành trình tiến về đất hứa.
Linh mục không phải là ông chủ, nhưng là tôi tớ của đoàn chiên. Những con chiên là của Thiên Chúa, chúng thuộc về Người và Người sẽ hướng dẫn chúng. Cho dù có muốn thực hiện nó bằng cách thừa nhận quyền bính thực sự cho các thừa tác viên của mình trên thế gian, với lý do này họ xứng đáng được lắng nghe, vâng phục và cả được tôn kính. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là họ có thể nâng mình lên trên bệ lý tưởng một cách kiêu ngạo và cho mình sở hữu những chìa khóa của sự hiểu biết, bằng cách đó họ đã không vào, mà những kẻ muốn vào, cũng không được vào (x. Lc 11,52).
Điều thực sự giúp các linh mục vẫn khiêm nhường và nhận ra sự lớn lao của ơn sủng đã lãnh nhận mà không cần chạy theo thói kiêu căng, tự mãn, là kiên trì suy niệm về chính sự bé nhỏ của con người, giải quyết nó, cố gắng phân tích lương tâm mình và thực hành bí tích hòa giải thường xuyên, ngay cả trong trường hợp không có tội trọng, được xem như là thuốc giải hữu hiệu cho sự nông cạn và kiêu căng. Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô đã thừa nhận mình như là tội nhân, chính trong giây phút mà ngài nhận ra sự lớn lao của đặc sủng tông đồ đã lãnh nhận từ Đức Kitô, ngài nói: “Cha cảm tạ Đấng đã ban sức mạnh cho cha là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng [...] Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất”. Điều quan trọng căn bản là linh mục thường xuyên lặp lại những điều này hoặc bằng những lời đơn giản: “Chúa Kitô đã sai tôi tìm những con chiên lạc, để cứu độ những người tội lỗi, nhưng trong số đó tôi là người thứ nhất! Ngay sau khi tôi đã nhận được lòng thương xót, tôi cũng sẽ đi gặp gỡ anh em bằng cách mang theo tôi lòng thương xót của Thiên Chúa”.
Trong ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta nổ lực cầu nguyện liên lỉ và tiếp tục như vậy, để các linh mục ý thức được sự nhỏ bé của con người là món quà đặc biệt của ân sủng đã nhận được, luôn biết tìm kiếm với lòng nhiệt thành để quyến rũ những con chiên trong đàn chiên của Đức Kitô, đưa chúng đến đồng cỏ xanh rì của cuộc sống bất tử.
65. Chúa Nhật 24 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Trong bài giảng tĩnh tâm cho giáo triều Roma, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có nói: Chúa Giêsu cũng có những khuyết điểm.
Trước tiên Ngài là người không biết về toán học. Ngài đã bỏ lại 99 con chiên để đi tìm một con. Giữa con số 1 và 99 không biết số nào lớn.
Kế đến Ngài là người không biết làm kinh tế. Đang có 9 đồng lại không màn đến, để đi tìm một đồng, rồi vui mừng, mời bạn bè đến chia vui.
Hơn nữa, Ngài còn là Người hay quên. Những người tội lỗi vây quanh mà dường như Ngài không hay biết. Như đứa con trong dụ ngôn, đã ra đi phung phí tiêu hao tiền của, thế mà Ngài vẫn ngày đêm mong đợi, để rồi khi nhìn thấy đứa con, Ngài vui mừng.
Nhưng thật ra đó không phải là những khuyết điểm, mà chính vì Tình Yêu Thương bao la đã vượt qua tất cả, vượt qua sự tính toán hơn thua của trần thế, vượt qua mọi đố kỵ của người đời. Ngài chỉ còn nhìn thấy Tình Yêu được đáp trả. Như thế đã đủ rồi và Ngài không đòi hỏi điều gì nữa.
Như trong bài phúc âm chúng ta vừa nghe. Ngài vui mừng vì tìm được con chiên lạc. Ngài không chờ đợi con chiên phải la lối, kêu cứu, nhưng Ngài đã đi và tìm được nó.
Cũng như đồng bạc bị mất đi. Vui mừng vì tìm được. Không phải vì giá trị của nó hơn những đồng khác. Nhưng vì Ngài không muốn những gì của mình phải hư đi, mất đi một cách vô cớ, nên đã làm hết mọi cách để tìm cho được.
Cao hơn nữa, đối với con người. Thiên Chúa chờ đợi một dấu hiệu chứng tỏ lòng ăn năn sám hối. Quay trở về, chỉ cần có dấu hiệu quyết tâm như thế, còn mọi việc khác Ngài sẽ bù đắp cho bằng Tình Yêu Thương bao la của Ngài. "Phải ăn tiệc vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".
Mỗi người trong chúng ta là con chiên trong đàn của Chúa, là đồng bạc trong tay Chúa, hơn thế nữa còn là người con rất yêu quý của Ngài.
Nhưng chúng ta là người con như thế nào? Người con hằng ngày ở kề cận bên cha để tính toán thiệt hơn, để rồi bất bình khi thấy Cha không làm theo ý muốn của mình. Đó là người con cả trong bài Phúc âm chúng ta vừa nghe. Hay là chúng ta thấy mình đáng được một chút gì đó, để rồi đòi hỏi và tự mãn với những gì mình có, không cần biết đến ai, kể cả Người đã ban cho mình những cái hiện có. Chính thái độ tự mãn đó đã tiêu hao đi những gì đã được, đến nỗi không còn gì hết. Đó là người con thứ.
Nhưng chúng ta có biết hồi tâm, có nhìn thấy được sự mất mát, thiếu thốn của chính mình để biết quay trở về, nhận sự tha thứ và sống lại trong tình yêu thương và vui mừng của Thiên Chúa. Hay là chúng ta cứ tưởng mình đang giàu có, đang có công trạng qua sự tính toán riêng tư của mình và Thiên Chúa phải trả công cho chúng ta. Nên chúng ta không cần phải trở về, không cần phải vào nhà, cho dù bao nhiêu lời van xin, bao nhiêu lời giải thích, chúng ta cũng không thể hòa nhập với những gì mình cho là không xứng đáng, không hợp lý, chỉ có mình là đúng nhất, còn người khác thì không bao giờ. Đó có phải là những bước chân hoang? Không phải bằng thân xác, nhưng đó là những bước chân hoang của tâm hồn.
Thiên Chúa đang chờ đợi mỗi người quay trở về, để Ngài ôm vào lòng, để Ngài ban cho tất cả, để Ngài ban cho tình Yêu thương bao la của Ngài.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết từ bỏ kiếp đi hoang, biết nhìn thấy được những lỗi lầm của mình, để quay trở về sống trong sự vui mừng Nước Trời.
66. Khoan dung - Antôn Bảo Lộc
Bạn thân mến,
Có bao giờ bạn bị lạc mất một món đồ mà phải vất vả đi tìm không? Lúc chưa kiếm được thì tâm trạng bạn ra sao? Có bồn chồn nóng nảy, bực mình cay cú không? Còn khi tìm được rồi thì bạn cảm thấy thế nào nhỉ? Có thấy vui và nhẹ nhõm không?
Tuần trước tôi để cái thẻ nhớ của máy chụp hình trong chiếc áo khoác ngoài mà quên bẵng đi. Rồi cứ loay hoay cả buổi đi tìm. Moi móc từng góc cạnh của căn phòng nhỏ để tìm cho bằng được. Tìm mãi không ra, cứ ngỡ rằng đã mất, mãi cho đến khi tình cờ đem quần áo đi giặt, lục túi áo mới bắt gặp nó. Tôi thở phào nhẹ nhõm!
Mất cái thẻ nhớ của máy hình thì tôi có thể mua mấy cái khác thay thế. Nhưng tôi quyết tâm kiếm cho được vì trong đó có chứa một vài tấm hình phong cảnh tôi chụp ở VN. Những tấm hình đó có đầy ở trên internet, có khi còn đẹp hơn là hình tôi chụp nữa. Nhưng đây là những tấm hình quan trọng, có giá trị với tôi nên tôi đã vất vả đi tìm.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng nói lên một tâm tình tương tự như thế. Ba dụ ngôn của Tin Mừng Luca chương 15 nói về con chiên lạc, đồng bạc bị mất, và người con đi hoang. Cả ba dụ ngôn đều nói lên trọn vẹn tâm tình của một Thiên Chúa yêu thương và nhẫn nại. Cả ba đều diễn tả niềm vui khi tìm được cái đã mất. Cả ba dụ ngôn đều nhấn mạnh vào hai cụm từ được lập đi lập lại: “mất” (Hy lạp: apollymi) và “tìm đuợc” (heuriskô) và sự vui mừng khi tìm thấy điều đã thất lạc.
Này nhé, trong dụ ngôn con chiên lạc, ta nghe thấy: "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó!’”
Cũng tương tự như thế trong dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, ta lại nghe: "Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất."
Và trong dụ ngôn người cha và hai đứa con, ta cũng nghe: "Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng... Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."
Trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, điểm nhấn là hai dụ ngôn đầu chứ không phải là dụ ngôn thứ ba vốn đã được đọc trong Chúa nhật thứ IV Mùa Chay năm nay. Ở đây nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa cho từng cá nhân. Lòng khoan dung của Thiên Chúa, chứ không phải thái độ ăn năn thống hối của tội nhân, là đề tài Hội Thánh mời chúng ta cùng suy tư.
Con chiên, đồng bạc và người con thứ bị thất lạc trong những hoàn cảnh khác nhau. Con chiên đi lạc vì nó không định hướng được với đàn. Có thể vì nó u mê đi lạc, có thể vì nó ham ăn quên cả đường về, hay có thể vì nó vấp ngã đâu đó, bị cả đàn bỏ lại đằng sau. Còn đồng bạc không tự mình đi, nhưng có thể nó bị mất vì rơi rớt đâu đó. Có khi nó bị lẫn lộn trong hàng trăm thứ vật dụng cỏn con. Nhưng đồng bạc lại không thể kêu lên như con chiên để người chủ đi kiếm. Nó phải an phận trong bóng tối cho đến khi ai đó tìm thấy được. Còn người con thứ thì có đủ tự do chọn lựa, nhưng anh ta đã chọn lầm và đã phải trả một giá đắt cho sự sai lầm của mình. Thông thường chúng ta nghĩ rằng anh ta ra đi vì ham chơi đua đòi, muốn độc lập, hoặc bất mãn với cha mình. Nhưng biết đâu đó là vì hoàn cảnh mà anh ta phải ra đi. Có thể vì cuộc sống ở gia đình quá ngột ngạt buồn tẻ, có khi vì người anh ganh tị chèn ép. Dù sao anh ta cũng đã bỏ nhà ra đi, và đối với gia đình làng xóm, anh ta đã thất lạc.
Dù đến từ nguyên nhân nào, sự thất lạc cũng đều gây cho người bị mất mát một nỗi xót xa nuối tiếc. Một con chiên, có thể là một con chiên nhỏ trong đàn, có đáng giá là bao mà người chăn phải vất vả đi tìm cho kỳ được? Một đồng bạc, chỉ là một đồng trong chuỗi tiền dùng làm đồ trang sức, có giá trị thế nào để người đàn bà phải đốt đèn quét nhà tìm cho kỳ được? Phải chăng hai dụ ngôn này cho thấy hình ảnh của mỗi người chúng ta trong ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa?
Từ cấp số 100 đến cấp số 10, Thiên Chúa luôn quan tâm đến từng cá nhân và quý trọng từng người một, như họ là những người duy nhất. Không phải bởi vì 99 con chiên không lạc mà Ngài bỏ qua một con nhỏ nhoi. Không phải vì 9 đồng bạc còn đó mà Ngài bỏ mặc một đồng bị rơi vào xó xỉnh nào đó. Càng tha thiết gắn bó với của bị mất bao nhiêu, thì càng thôi thúc kiếm tìm bấy nhiêu. Càng quý trọng vật bị mất bao nhiêu, thì càng làm cho nỗi vui mừng thêm chất ngất khi tìm gặp lại bấy nhiêu.
Đó cũng là tâm tình của người cha. Ông vui mừng khôn tả khi thấy bóng con thất thểu từ đằng xa. Ông quên hết những ưu phiền sầu muộn, những sỉ nhục dằn vặt mà đứa con thứ đã để lại cho ông khi nó đòi chia của rồi ra đi. Ông quên hết tất cả. Ông tha thứ tất cả. Bây giờ chỉ còn lại trong ông là nỗi vui mừng hoan hỉ vì “con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Niềm hân hoan sung sướng là tiếng cười dòn dã, là lời khoe báo tin vui cho mọi người.
Thiên Chúa của chúng ta là thế đó. Như lời thánh vịnh mô tả “Ngài chậm giận và chan chứa tình thương. Ngài không xử với ta như ta đáng tội. Và không trả cho ta theo giá của ta” (TV 103).
Như người chăn chiên tìm lại được con chiên bị lạc, như người phụ nữ kiếm được đồng bạc bị mất, như người cha mở tiệc, giết bê béo ăn mừng, Thiên Chúa hân hoan vui mừng khi một người con của Ngài ăn năn trở về hơn là bao người lành thánh. Và Ngài mong ước chúng ta chia sẻ niềm vui này với nhau. Trong dụ ngôn thứ ba người cha kiên nhẫn mời người anh cả bước vào bàn tiệc để cùng chung vui với cha, với em.
Ba dụ ngôn của Tin Mừng Luca chương 15 là câu trả lời của Đức Yêsu cho những lời phàn nàn và ganh tị của người Biệt Phái. Nhưng đó cũng là những lời cảnh tỉnh cho chúng ta hôm nay. Thông thường mỗi khi phạm tội, chúng ta có khuynh hướng khoan hồng nhân nhượng với chính mình, nhưng lại ít khoan dung với kẻ khác. Qua ba dụ ngôn này Đức Yêsu nhắc nhở chúng ta về lòng thương xót vô lượng của Thiên Chúa, cho chúng ta và ngay cả cho những người chúng ta không chấp nhận trong cuộc sống của mình - những người mà chúng ta coi là con chiên lạc hay người con hoang đàng.
Trong cuộc sống chúng ta hôm nay có biết bao người sa đọa, lầm đường lạc lối. Như người con thứ, họ cũng đã phải trả một giá khá đắt cho những sai lầm của họ. Nhưng liệu chúng ta có sẵn sàng đón nhận họ trở về? Liệu chúng ta có là những chướng ngại vật ngăn cản họ đến với Chúa Cha? Liệu thái độ xét đoán và óc phê bình của chúng ta có làm họ chùn bước để trở về với Thiên Chúa qua Hội Thánh? Liệu chúng ta có tập mở rộng lòng thương xót, đồng cảm để đón nhận họ như người anh chị em cùng một Cha trên trời?
Lòng quảng đại và khoan dung của chúng ta là thước đo mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa. Chúng ta cần tập lòng khoan dung để có thể đón nhận người anh chị em lầm đường lạc lối với lòng thương xót, như lòng từ bi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Và như thế, chúng ta tiếp tay với Thiên Chúa để chia sẻ sự tha thứ và hoà giải trong thế giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho con biết mở lòng khoan dung với anh em con như Chúa đã khoan dung nhân hậu với con.
67. Đức Giêsu đi tìm con chiên lạc
Là dụ ngôn. Con chiên bị lạc - Không có trí khôn - không biết mình đi lạc - không biết trở về nói chi là sám hối-hối cải-không tìm thì mất luôn.
Đồng bạc-vô tri vô giác.
Con người-có trí khôn-có tự do-biết mình đi lạc-biết trở về, quyết tâm thật lờng sám hối và chừa cải-không bắt buộc"vác trên vai" đem về được. Không tự mình muốn và quyết tâm thì THIÊN CHÚA cũng chịu thua và thực tế là đúng vậy.
Luca kết luận bằng một câu giống y nhau ở cuối cả hai dụ ngôn: "Trên trời vui mầng vì một người tội lỗi hối cải" nói lên đó là ý chính mà Luca muốn chúng ta quan tâm.
Dụ ngôn là dụ ngôn. Kể một dụ ngôn để nói lên một "ý". Ý ấy thường không khớp với dụ ngôn. Ý là một chuyển ý có tính thần học hoặc luân lý làm một bài học để dạy giáo lý.
Bài hoc ở đây là "hối cải". Giáo lý nầy đã được Đức Giêsu trình bày rất rõ và cờn được nhấn mạnh ở nhiều nơi trong Phúc Âm. Rõ nhất và nhấn mạnh nhất trong câu chuyện Philatô giết những người galilê và tháp siloê ngã đè chết 18 nguời với kết luận y như nhau "không sám hối thì tất cả sẽ bị huỷ diệt". Với nguời phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: Đừng phạm tội nữa. Với nguời baị liệt ở hồ Betsaida: Đừng phạm tội nữa kẻo phải khốn hơn truớc.
Chủ đề " sám hối- hối cải là chủ đề chính bao trùm tất cả giaó huấn của Đức Giêsu. "Ta đến để kêu gọi nguời tội lỗi hối cải" Luca tập hợp trong ba dụ ngôn đáng lẽ goị là dụ ngôn về sự "Hối cải". Ý cuả Luca rất rõ mà laị bị dịch ra là dụ ngôn về lờng thuơng xót.
Nguời ta nói ngon miệng "Đức Giêsu đi tìm chiên lạc". Thực tế là thế nào?
THIÊN CHÚA tạo dựng bằng lời. Lời để dạy, để ra lệnh cho nguời khác làm. Tạo dựng xuống cấp vì lời tạo dựng mênh mông khó nhận ra nên con người không biết để làm theo, lạc lối. THIÊN CHÚA cứu độ bằng lời. Cứu độ là nâng cấp. Lời chỉ đường rõ ràng cho đi đúng hướng theo ý THIÊN CHÚA. THIÊN CHÚA chỉ đường. Đi trong đường của THIÊN CHÚA là bổn phận của con người. Cứu độ là một can thiệp đặc biết của THIÊN CHÚA trên tiến trình tự nhiên để điều chỉnh những sai lệch, đặt con người lại đúng hưóng, đúng vị trí của mình để đi cho mau tới đích là phát triển cho tới mức hoàn thiện công trình tạo dựng trong đó con người được THIÊN CHÚA giao cho đóng vai chính. Con người sẽ đựoc sống đời đời, hửong hạnh phúc vỉnh củư nếu con nguời chí thiện và tạo dựng đựoc nhờ con người mà đựoc hờan thiện. THIÊN CHÚA giao cho con người nhiệm vụ "canh tác" vừon địa đàng.
Lời làm người để dạy con người bằng ngôn ngử loài người. Rõ ràng. Chi tiết.Đầy đủ. Là mạc khải cuối cùng. Lời mở đường. Lời là đường. Đường chân lý. Không có đường nào khác. Đức Giêsu để ba mươi năm cuộc đời làm thành con đường cho con người.Ba năm giảng dạy là giải thích cho rõ về con đường của mình. Ta là đường, là chân lý.Cuộc đời của DG là con đường. Lời dạy của Người là chân lý. Ai muốn theo Ta thì.....đi trong con đường của Ta.THIÊN CHÚA không ban ơn cứu độ mà THIÊN CHÚA ban lời cứu độ.
Đức Giêsu, Con THIÊN CHÚA nhập thế đến thế gian. Thế gian phải đến với Người mới có gặp gỡ.
Đức Giêsu xuất hiện giảng dạy, chữa bệnh, trừ quỉ và làm nhiều phép lạ. Ai đến, nghe, thấy, xin.. thì mới được hưởng. Bình chân như vại. Không nhúc nhíc để đến thì "vủ như cẩn". Sự thật nầy rõ như ban ngày. Cụ thể: Đức Giêsu đến hội đường ngày sabbat để giảng dạy. Người bệnh hoặc bị quỉ ám có mặt, được gặp Người thì được chữa lành và chỉ những người có mặt gặp gở Đức Giêsu. Đức Giêsu giảng dạy nơi vắng vẻ. Ai dến nghe thì gặp gở Nguời được ăn bánh lạ no nê. Đức Giêsu đi ngang qua thành Giêricô. Giakeu tìm mọi cách để thấy thì Người đáp lại đến nhà để gặp gở và ban ơn hối cải cho ông và cả nhà. Những người khác thì không đựoc gì. Đức Giêsu đến tìm người tội lỗi. Nhưng người tội lỗi có đến gặp gở Người, hối cải đời sống, đi theo Ngươi thì mới được sự sông mà Ngươi muốn cứu.
Đức Giêsu đến mời gọi qua một trung gian nhưng đời phải tỏ lờng tin, cụ thể là bằng sự sám hối, chừa cải. Ta đến kêu gọi người tội lỗi hối cải. Hối cải là một đáp ứng đầy đủ lời mời gọi của Đức Giêsu. Đó là ý của Luca qua hai dụ ngôn nầy: Trên trời (THIÊN CHÚA) vui mừng vì một người tội lỗi hối cải chứ không phải vì tìm đựoc con chiên lạc hay đồng bạc bị mất. Hối cải là trở nên công chính làm công dân nước Trời, là cải tạo thế gian, là cúư độ.
Hối cải là cử động đầu tiên con nguời phải làm để có thể có tiếp xúc với THIÊN CHÚA.
Chúng ta hãy hối cải chính mình và tích cực giúp người lân cận hối cải để cùng nhau đến với THIÊN CHÚA để được THIÊN CHÚA cứu độ.
Biệt phái, luật sĩ không hối cải. Do thái không hối cải. Thế gian không hối cải. THIÊN CHÚA không làm cho họ hối cải được. Đây là cái bí ẩn của tự do. THIÊN CHÚA không cưỡng chế. THIÊN CHÚA có nhiều ân sủng. Con người quyết định có nhận hay không và có làm cho sinh lợi hay không. THIÊN CHÚA có thể biến đổi lòng dạ con người nhưng chỉ những người thiện chí, cộng tác tích cực với ơn Chúa thí mới có kết quả như lờng Chúa mong muốn.
Mọi sự phải bắt dầu từ hối cải.
68. Chúa Nhật 24 Thường Niên
Bài Phúc âm hôm nay ghi lại ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: dụ ngôn con chiên bị mất, dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, nhất là dụ ngôn người cha nhân hậu.
Qua bài Phúc âm, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta về tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người tội lỗi. Thái độ của người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, của người đàn bà bị mất một đồng tiền và của người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thái độ yêu thương tha thứ đó vượt quá mức độ bình thường con người có thể tưởng tượng được và phản chiếu thái độ của Thiên Chúa đối với con người.
Theo lệ thường, nếu chúng ta có một trăm con chiên mà lỡ bị mất một con, chúng ta có nhất quyết đi tìm con chiên lạc cho đến khi gặp được mới thôi hay không? Chắc chắn là không, vì số chín mươi chín con còn lại không đáng giá hơn một con bị lạc mất hay sao? Đó là quan niệm của con người chúng ta. Đối với Chúa, mỗi con chiên, mỗi người đều có giá trị duy nhất đối với Ngài, và do đó nếu bị lạc mất thì nhất quyết phải tìm cho được mới thôi. Rồi hành động của người đàn bà cũng thế, theo thường tình thì mất một đồng cũng không sao, vì còn cả chín đồng kia mà. Nhưng để diễn tả mức độ của Thiên Chúa thì một đồng bị mất kia là hết sức quan trọng, phải tìm cho được mới thôi. Người cha của đứa con đi hoang, theo thường tình thì bỏ mặc kệ nó, nhưng để diễn tả thái độ của Thiên Chúa đối với con người thì người cha kia hằng ngày đứng trông con mình trở về, và đã nhìn thấy con mình trở về trước khi nó nhìn thấy ông. Người cha tha thứ cho đứa con ngay cả trước khi nó mở miệng xin tha, rồi làm tiệc ăn mừng.
Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người và mỗi người, Ngài muốn tận dụng mọi phương thế có thể để ban ơn cứu rỗi cho con người. Vì Ngài yêu thương con người, yêu thương từng người một cách vô cùng, nhưng con người có chấp nhận ân sủng và tình thương của Ngài hay không?
Trong Cựu ước, chúng ta thấy Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ cho dân đã phạm tội đến Ngài, Môisen đã không xin Chúa hủy diệt dân mình, nhưng hãy tha thứ cho dân mình. Cũng thế, chúng ta đừng bắt chước thái độ của người anh cả trong dụ ngôn, đừng ganh tị với anh chị em được ơn Chúa tha thứ cho, nhưng hãy bắt chước thái độ của Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ tội lỗi cho anh chị em và cho cả chính mình nữa.
Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi người chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, đều cần đến lời cầu nguyện của nhau để trở lại cùng Chúa và trung thành với đức tin. Nguyện xin Chúa thương tha thứ các tội lỗi và nâng đỡ thành tâm thiện chí mỗi người chúng ta, giúp mỗi người chúng ta biết trở về cùng Chúa, sống xứng đáng là con cái Cha trên trời.
Đề cập đến Tin Mừng nghiêm chỉnh một chút, chúng ta sẽ nhận thấy rõ điều này: những kẻ cầm quyền đương thời trong đạo Do thái, những người Pharisêu, những người tự cho mình là công chính...đã khinh thường và tẩy chay Chúa Giêsu. Trái lại, những người tội lỗi, những kẻ thu thuế... đã trân trọng và nhận biết Ngài. Thử hỏi: Nếu Chúa Giêsu trở lại giữa chúng ta hôm nay, chúng ta sẽ thuộc hạng người nào? Thuộc hạng người "công chính" không cần đến Ngài hay thuộc hạng người tội lỗi, đối tượng Ngài quan tâm khi đến thế gian? Qua đó, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai điều:
Thứ nhất, sứ mạng tình thương của Ngài.
Thứ hai, bổn phận và thái độ của chúng ta.
Chúng ta đều biết: Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi. Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi thống hối ăn năn, và để tìm kiếm, cứu vớt những gì đã lạc mất. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho Timôthêô cũng khẳng định: "Chúa Kitô đến thế gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi". Quả thực, Chúa Giêsu đã đến thế gian vì tội nhân. Đó chính là ánh sáng trong đó mạc khải bày tỏ Chúa Giêsu cho chúng ta và chúng ta phải luôn luôn ngắm nhìn Ngài trong ánh sáng này. Nói khác đi, vì yêu thương loài người tội lỗi mà Chúa Giêsu đã bỏ trời xuống thế gian. Chính tên "Giêsu" của Ngài, nghĩa là "Cứu Thế" cũng đã gắn liền với kẻ có tội. Cứu ai? Người lành đâu cần cứu, mà cứu là phải cứu người có tội. Do đó, đối với chúng ta, tình thương đã hiển hiện như một nét nổi bật của Chúa. Tình thương của Chúa không phải là một tình cảm mờ nhạt, mong manh mà là cả một tâm hồn say mê nóng bỏng. Lòng say mê đó là tình yêu đã đến cảm mến cảnh cùng khổ của chúng ta và để nâng cảnh cùng khổ đó lên. Tình thương của một Thiên Chúa làm người khôn lường và da diết. Tình thương đó không phải là một đức tính phụ thuộc nơi bản thân Người, nhưng là một nét chính yếu, đặc biệt: chính vì đó mà Ngài đã đến. Tội lỗi của chúng ta nếu được đưa vào ngọn lửa nóng bỏng yêu thương này sẽ bị thiêu hủy ngay.
Nếu chúng ta sẽ được liệt vào hạng người Pharisêu, kinh sư hay vào hạng những người tội lỗi, những người thu thuế? Chúng ta tự nhận mình là người công chính hay người tội lỗi? Chắc chắn không ai dám cho mình là trong sạch, vô tội trước mặt Chúa, bởi vì từ ngày có trí khôn cho đến nay, biết bao nhiêu lần chúng ta đã không giữ trọn 10 điều răn của Chúa. Bao nhiêu lần chúng ta đã chịu thua cám dỗ và sa ngã. Bao nhiêu lần lời ăn tiếng nói của chúng ta là những lời hành tỏi, xét đoán, gièm pha, kết án hay là những lời hư từ vô ích. Bao nhiêu lần chúng ta đã ghen ghét, oán thù, tranh chấp... Có lẽ chúng ta không chịu bới đống rác tội lỗi của chúng ta ra thôi, chứ thiếu gì những lý do để chúng ta phải ăn năn thống hối. Chúng ta phải thành thật nhận mình là tội nhân đáng hình phạt như người trộm lành; chúng ta là đứa con hoang đàng trở về, là Mađalêna thống hối, là Phaolô bị quật ngã, cần đổi mới. Kinh Kính mừng, Thương xót, ăn năn tội,... dạy cho chúng ta biết chúng ta chỉ là tội nhân, là kẻ bại trận, chỉ trông hòng vào lòng Chúa thương xót mà thôi.
Mong sao tự thâm tâm chúng ta luôn vọng lên lời tự thú của người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện: "Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi". Những bước chân trở về và hoán cải thường gọi là niềm ân hận, âm thầm đau đớn về những lầm lỡ đã qua, là lòng ăn năn hối cải.
Lạy Chúa, xin đừng chê bỏ con, xin nhận lấy tấm lòng con: tấm lòng tan nát khiêm cung. Chúng con tin tưởng và cậy trông nơi Chúa. Xin thương xót chúng con. Amen.
69. Thà yêu lầm còn hơn bỏ sót
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Các bài đọc của Chúa Nhật Thứ 24 Mùa Thường Niên, Năm C, cách riêng bài Tin Mừng có vẻ khá quen thuộc với Kitô hữu, nhất là với những người chuyên chăm tham dự Thánh Lễ và xem trọng phần Phụng Vụ Lời Chúa. Thánh Kinh trình bày về tình yêu của Thiên Chúa thật phong phú và đa dạng. Tuy nhiên cũng có thể khẳng định rằng những dòng tin mừng theo thánh sử Luca ở chương XV mà Giáo Hội cho trích đọc một phần trong Thánh Lễ Chúa Nhật này quả là một mạc khải gây "chưng hửng" cho không chỉ nhiều người biệt phái năm xưa mà còn cho cả chúng ta hôm nay, dĩ nhiên là nếu chúng ta biết "suy đi nghĩ lại" như Mẹ Maria và biết đặt mình vào chính ngữ cảnh khiến Chúa Giêsu phán dạy những Lời ấy.
Ngữ cảnh: Giêsu thành Nagiarét, một vị tôn sư đầy quyền năng trong lời giảng dạy cũng như trong hành động (x.Mt 7,29; Mc 6,2), một người được dân chúng mến mộ tôn xưng vào hàng ngôn sứ (x.Mt 16,13-15)..., Người không chỉ chuyên chăm chữa lành bệnh tật cho dân chúng và xua trừ ma quỷ ra khỏi những người chúng ám, Người còn giảng dạy các chân lý về Nước Trời và mời gọi người ta hoán cải ăn năn. Thế mà Người lại thường xuyên lui tới và cùng ngồi ăn uống với những hại dân hại nước là "bọn thu thuế" và "phường bán thân nuôi miệng". Bá nhân bá tánh, mười người trăm ý, chuyện miệng tiếng người đời thì làm sao lường cho xuễ. Cũng thế, việc một số người biệt phái và luật sĩ lảm bẩm, xầm xì và bình phẩm chuyện Chúa Giêsu thường xuyên lui tới và cùng ngồi ăn uống với người thu thuế và phường "tội lỗi" thì cũng không là vô cớ. Ngài Giêsu đã không từng giảng dạy rằng chớ có làm cho người ta vấp phạm đấy ư. Ngài còn mạnh miệng cho rằng nếu ai làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn thì thà cột cối đá vào cổ người ấy mà liệng xuống biển còn hơn. Tuy nhiên chúng ta đừng quên cớ vấp phạm ở đây là cái nguyên nhân xấu. Còn những dữ kiện gây thắc mắc, gây tranh luận, gợi thao thức là việc khác hoàn toàn. Chính Chúa Giêsu đã từng ví Người là viên đá vấp cho nhiều người, đúng như lời tiên tri Simêon loan báo dịp cha mẹ Người đem Người lên Giêruslem để làm lễ tiến dâng theo Lề Luật (x.Lc 2,33-35).
Nguyên cớ gây thao thức: Tình yêu đón nhận mọi sự hạn chế, mọi sự bất toàn. Khi nghe đọc bài tin mừng về dụ ngôn người con hoang đàng hay đã được sửa lại là dụ ngôn người cha nhân hậu hoặc đã từng được đề nghị là dụ ngôn người con ganh tị. Đã từng một thời Kitô hữu được gợi ý là tập trung vào hình ảnh người con phung phá hoang đàng để nhận biết thân phận tội lỗi của mình để rồi sám hối, ăn năn. Cũng đã từng có lúc người ta tập trung vào hình ảnh người con cả của câu chuyện để mời gọi Kitô hữu cảnh giác với sự ganh tương đố kỵ như trường hợp một số người biệt phái ngày xưa, hoặc biết phản tỉnh với lối sống "người thì bên trong mà lòng thì bên ngoài". Vì lắm khi chúng ta tuy mang danh con cái Chúa, nhưng chỉ là "hữu danh vô thực". Thời gian gần đây ngưởi ta tập trung vào tình yêu bao la của người cha nhân hậu và có thể nói rằng đây chính là trọng tâm của lời mạc khải qua câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể hôm ấy.
Nói đến sự bao la của tình yêu Thiên Chúa, một số đấng bậc có vẻ như ngại ngần vì cho rằng sẽ làm cớ cho đoàn tín hữu sống ỉ lại. Và rồi số vị ấy thích đề cao sự công thằng của Thiên Chúa hơn. Một số vị khác thì phân vân như đứng giữa ngã ba đường khi vừa nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa vừa nói đến sự công thẳng của Người. Thiên Chúa là Đấng tốt lành vô cùng và cũng là Đấng công bình vô cùng. Khởi đầu triều đại giáo hoàng của mình Đức Bênêđictô XVI qua Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu đã nhấn mạnh hiện thực này: Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại chúng ta một cách như chống lại sự công minh của Người (x.số 10).
Người cha trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã rộng tay chia gia tài cho các con. Ông chia gia tài cho đứa con mở miệng kêu xin và chia cho cả đứa con không xin. Ông ta quả là liều lĩnh và bất chấp các tình huống có thể xảy ra. Ông chẳng thể lường đứa con thứ kêu xin sẽ sử dụng gia tài ra sao. Ông cũng chẳng biết đứa con còn lại không xin vì không dám xin hay vì không muốn xin. Không lưỡng lự, ông đã chia cho cả hai.
Chắc chắn người cha nhân hậu biết rõ tình cảnh bi đát đến độ thua cả loài heo của đứa con đi hoang, vì chính người con cả đã khẳng định sự thật này (x.Lc30). Thế mà ông cứ ngày ngày ngóng trông đứa con "bất hiếu và hỏng hư" quay gót trở về. Lòng của ông vẫn ắp đầy niềm hy vọng sẽ có ngày thấy con mình "đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Và kìa, nó đây rồi, nó đã trở về. Nó về vì thương cha già này hay là chỉ xót cái bụng rỗng của nó? Không sao cả, tình yêu không cần đặt điều kiện. Đứa con lớn đang ở trong nhà mà lòng như kẻ ăn người ở, ông cũng đón nhận hết tình. Không sao cả, rồi sẽ đến lúc nó hiểu rằng mọi sự của ông là dành cho nó, đã thuộc về nó, vì mọi sự của cha đều là của con (x.Lc 15,31).
Đã yêu thì không ngồi chờ người mình yêu hoàn thiện rồi mới đón nhận. Đón nhận người mình yêu cả trong sự hạn chế lẫn bất toàn của người mình yêu thì mới là tình yêu đích thực vô cầu, vô vị lợi, nghĩa là chỉ vì người mình yêu. Thánh tông đồ dân ngoại khẳng định chân lý này khi nói rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta, ban ơn tha thứ cho chúng ta, đưa chúng ta về làm con cái Thiên Chúa ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch, nghĩa là ngay khi chúng ta đang còn trong cảnh tình tội lỗi.
Xin đừng sợ bị lợi dụng, chẳng thà yêu lầm còn hơn bỏ sót. Xin đừng ngồi chờ tha nhân hoàn thiện rồi chúng ta sẽ yêu thương. Chính tình yêu của chúng ta, một tình yêu vô điều kiện mới là động lực giúp tha nhân nên hoàn thiện. Đồng thời cũng chính tình yêu ấy sẽ giúp chúng ta hoàn thiện vì chúng ta đang ngày càng nên giống Cha, Đấng hoàn thiện ở trên trời, Đấng cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi người công chính lẫn tội nhân (x.Mt5,48).
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH (17/05/2025) .: TÌNH YÊU ĐIỀU RĂN MỚI (17/05/2025) .: LỜI TRĂN TRỐI YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: HÃY GIEO YÊU THƯƠNG (17/05/2025) .: PHÙ HIỆU CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU (17/05/2025) .: AI YÊU THƯƠNG ĐỀU LÀ KITÔ HỮU (17/05/2025) .: TÔI LÀ MÔN ĐỆ CỦA ÁI? (17/05/2025) .: YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA (17/05/2025) .: YÊU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU (17/05/2025) .: GIỚI RĂN MỚI (17/05/2025) .: HÃY YÊU NHƯ LÒNG DẠ THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA (17/05/2025) .: CÁC CON HÃY THƯƠNG YÊU NHAU (17/05/2025) .: PHỤC VỤ NHIỀU HƠN VÀ ÍT XÉT ĐOÁN HƠN (17/05/2025) .: ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC (17/05/2025) .: QUA YÊU THƯƠNG, MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (17/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam