Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 47

Tổng truy cập: 1377011

THỢ LÀM VƯỜN NHO

Thợ làm vườn nho – Radio Veritas Asia

Kể từ ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời, chúng ta đã biết không đầy hai năm sau khi Mẹ qua đời, hồ sơ phong chân phước cho Mẹ đã được khởi sự. Đây quả là một kỷ lục trong Giáo Hội, nhưng Mẹ Têrêsa Calcutta không chỉ là một vị thánh của Giáo Hội mà còn là một vĩ nhân của thế giới. Mẹ không chỉ là một mẫu gương thánh thiện cho các tín hữu Kitô, nhưng Mẹ còn để lại một gia sản tinh thần chung cho cả thế giới, gia sản đó là người ta không thể giải quyết mọi vấn đề đau khổ của nhân loại chỉ bằng tiền của vật chất, kỹ thuật, mà bằng trái tim rộng mỡ, bằng tấm lòng quảng đại.

Trước dư luận cho rằng, Mẹ Têrêsa không chủ trương giải quyết vấn đề nghèo đói tại Ấn Độ một cách tận căn. Mẹ đã trả lời:

“Tôi cảm thấy mình là người Ấn Độ cho đến tận đáy tâm hồn tôi. Những chiếc aó dòng cho phép các nữ tu cảm thấy mình nghèo với những người nghèo, được đồng hóa với những người tàn tật, những trẻ em, những người già cả và những người kém may mắn. Với cách ăn mặc như thế, các nữ tu thừa sai bác ái đã chia sẻ cuộc sống của những người nghèo khổ nhất trên thế giới. Dĩ nhiên, Ấn Độ cần có các chuyên viên, những nhà chuyên môn, các kinh tế gia, các y sĩ, các y tá để phát triển. Ấn Độ cần có một chương trình hoạt động rộng rãi được phối hợp chặt chẽ, nhưng chúng ta phải chờ đợi cho đến bao giờ các chương trình ấy được thực hiện? Chúng tôi không biết, nhưng trong khi chờ đợi thì dân chúng cần phải sống, cần phải có của để ăn, cần phải được săn sóc. Địa bàn hoạt động của chúng tôi tại Ấn Độ hiện nay là, bao lâu người dân còn cần những nhu cầu ấy thì chúng tôi còn tiếp tục công việc của mình”.

Quả thực, trong trái tim đơn thành, khiêm tốn, trong sạch của Mẹ Têrêsa Calcutta không hề có những chương trình vĩ đại, Mẹ chỉ thấy sự cần thiết trước mắt là sự nghèo đói khốn khổ của người đồng loại. Nhưng tấm lòng cảm thông và thông cảm ấy không chỉ thấy người dân đói khổ về vật chất, nhưng đôi mắt từ ái của Mẹ Têrêsa còn nhìn thấy một nỗi khổ khủng khiếp hơn của người đồng loại, đó là nỗi khát khao được yêu thương. Mẹ Têrêsa không chỉ trao ban một miếng bánh, một chén cơm, không chỉ trùm trên thân xác đói lạnh một tấm chăn, không chỉ băng bó một vết thương trên thân xác, nhưng món quà quí giá nhất mẹ ban chính là tình thương.

Đây vốn là nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất của mỗi con người, dù con người ấy sống trong một nước nghèo khổ như Ấn Độ hay trong một đất nước phồn thịnh như Hoa Kỳ. Mẹ đã tóm tắt chương trình hành động của Mẹ trong câu nói: “Tôi không bao giờ săn sóc cho các đám đông, tôi chỉ săn sóc cho một người mà thôi”. Quả thực, trong ánh mắt từ ái của Mẹ không có đám đông vô danh, không có con số trong đám đông mà chỉ có từng cá nhân trước mắt cần được yêu thương mà thôi. Trong trái tim đầy yêu thương của Mẹ không có chương trình hành động vĩ đại, mà chỉ có những cử chỉ cụ thể mà con người có thể làm cho từng đồng loại của mình mà thôi.

Thế giới ngày càng làm ra nhiều của cải vật chất, thế giới ngày càng có nhiều chuyên viên kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý. Dĩ nhiên, thế giới ngày càng có nhiều chương trình vĩ đại hơn, xóa bỏ bất công và xóa đói giảm nghèo, thế nhưng bất công và đói khổ vẫn còn đó. Như vậy, trong lịch sử nhân loại, chương trình vĩ đại nhất để xóa bỏ bất công, san bằng xã hội, hẳn phải là một số chế độ độc tài. Kết quả của chương trình hành động vĩ đại này thật là thảm khốc, người ta xóa bỏ một bất công để tạo nên những bất công mới, người ta đạp đổ một nhà tù để xây thêm nhiều nhà tù mới, người ta nại đến nhân quyền để chà đạp nhân quyền.

Thật ra, loài người muốn xóa bỏ mọi thứ bất công bằng tiền của và các phương tiện kỹ thuật, xét cho cùng trong sự tính toán của loài người thì tiền của vẫn là điểm quy chiếu tối hậu, đó là tư tưởng và cách giải quyết của loài người chúng ta. Còn tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất (x.Is 55,6-9), đường lối và cách giải quyết của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác với loài người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào tư tưởng, đi vào sự tính toán và cách giải quyết của Ngài. Thiên Chúa dựa trên một tiêu chuẩn khác với tiêu chuẩn và các phương tiện kỹ thuật, tiêu chuẩn đó là tình yêu, lòng độ lượng khoan dung, sự tha thứ cách quảng đại, tinh thần phục vụ dấn thân cách đắc lực. Đây là việc làm mà Chúa Giêsu luôn mời gọi mọi người thực hành đức công bình bác ái với mọi người: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Đây là tiêu chuẩn mà Chúa Giêsu muốn làm nổi bật qua dụ ngôn được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, chúng ta sẽ ngạc nhiên về cách giải quyết của Thiên Chúa, là người thợ chỉ làm có một giờ cũng lãnh bằng những người thợ làm quần quật suốt ngày. Với cách cư xử của ông chủ vườn nho, Thiên Chúa muốn cho chúng ta thấy cách cư xử độ lượng của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người. Ngài cho chúng ta thấy rằng, bất công trong xã hội và tất cả mọi khổ đau của con người chỉ có thể giải quyết được bằng tình thương mà thôi. Sự thật hiển nhiên là thế giới không bao giờ thiếu của cải, có thiếu chăng chỉ là thiếu tình thương, thiếu lòng quảng đại, thiếu sự chia sẻ mà thôi. Thiếu tình thương thì không những người nghèo quằn quại trong đói khổ và cả người giàu cũng héo hắt trong vỏ ốc ích kỷ của mình.

Chúng ta được diễm phúc dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể, Tấm Bánh được bẻ ra để chia cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu đến với chúng ta qua dấu chỉ ấy để mời gọi chúng ta quảng đại chia sẻ với mọi người. Xã hội sẽ không bao giờ hết những bất công và đau khổ, nhưng bất công và đau khổ sẽ vơi đi biết bao nếu mỗi người biết lấy tình thương, lòng quảng đại và sự chia sẻ đối với nhau. Đó phải là niềm xác tín của chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày.

 

38. Hãy bằng lòng với những gì mình có

Bằng lòng hay chấp nhận cho dù mình được bất cứ điều gì, đó là điểm chính yếu của bài phúc Âm hôm nay. Trong sâu thẳm cõi lòng mỗi người chúng ta, ai cũng mong muốn được một cuộc sống trọn vẹn, đầy đủ: như là một người hoàn toàn; có tất cả mọi sự; có sự bình an trong tâm hồn; không vướng mắc những bận tâm và những thất bại trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã phán “Sự bình an của Ta là quà tặng cho các con.” Qua và trong Chúa Kitô, Thiên Chúa ban sự bình an cho chúng ta, không phải sự bình an của thế trần ban cho chúng ta. “Ta không cho ban cho các con theo như cách thức của thế gian ban cho.” Chúa Giêsu nói với chúng ta sự bình an mà thế gian ban tặng chỉ là sự bình an tạm thời giữa những lúc yên lặng và chống đối. Sự bình an của Chúa Giêsu là món quà “Shalom.”

“Shalom” có nghĩa là: Trọn vẹn cuộc sống của bạn hoàn toàn có mục đích; có tất cả từ tinh thần cũng như vật chất. Bạn cảm nghiệm được bạn là một con người được Thiên Chúa tạo nên trong chương trình cứu rỗi của Ngài. Sự cao cả đó thì vượt quá khả năng của con người, ngay trong tư tưởng cũng không thể có được. Vì, những sự đó chính là sự kết hợp liên lỉ không ngừng được phát xuất từ chính Mầu Nhiệm nơi Thiên Chúa.

Thánh Phaolô viết trong thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Corintô như sau: “Chúng tôi giảng dậy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển...điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã định sẵn cho những ai yêu mến Người.” (I Cor 2:7-9). Do đó hãy luôn bằng lòng!

Linda là sinh viên đại học năm thứ nhất. Cô ta quyết định không liên lạc với những người con trai đang dùng mọi cách để quen với cô ta. Sau khi nghe cô ta than phiền về những chàng trai đó, người bạn cùng phòng với Linda tìm cách giới thiệu cho Linda một người bạn trai. Cô ta hỏi Linda muốn có người bạn trai miền Bắc hay miền Nam. Lấy làm lạ vì câu hỏi đó, Linda hỏi lại rằng “Họ có gì khác biệt? Người bạn giải nghĩa, “Trai miền Nam thì hiền hoà dễ thương, hay mơ mộng. Còn trai miền Bắc thì thích hoạt động, thích đi chỗ này chỗ kia và nhất là những nơi có nhiều niềm vui.” Linda suy nghĩ một lúc thật lâu về những sự khác biệt đó rồi hỏi: “Có thể tìm cho tôi người bạn trai miền Nam, nhưng thật khác biệt với người con trai miền Bắc hơn nữa được không?”

Chúng ta thường hay tìm những cách thức này hay cách khác để mặc cả với cuộc sống. Chúng ta không chấp nhận mầu nhiệm Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta qua Chúa Giêsu và cuộc sống của chính mình qua cặp mắt nhân loại. Sau cùng chúng ta khám phá ra chúng ta đã rơi vào sự mù tối đó.

Một vài người trong chúng ta cảm thấy tìm kiếm sự hoàn hảo của cuộc sống là chạy trong vòng tròn không lối ra. Như, thấy mình không thua kém ai. Và có những người nghĩ rằng sự hoàn hảo của cuộc sống bình thường như một màn biểu diễn thời trang và nhan sắc. Chúng ta thường tìm nhiều mánh khoé để chiếm được sự hoàn hảo đó, nhưng sau cùng, khi chúng ta đứng trước sự thật thì những mánh khoé không giúp gì cho chúng ta.

Khi trải qua những khó khăn đó, chúng ta mới cảm nghiệm được Thiên Chúa đang cố đem đến cho chúng ta nguồn gốc của sự sống hoàn hảo, chính là tình yêu đã được mạc khải cho chúng ta trong Chúa Kitô. Cho đến khi nhận được sự thật đó, thì chúng ta đã uổng công phí sức vì thấy chính những sự thoả mãn tạm bợ đã kéo chúng ta vào hố sâu.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, chủ vườn nho thuê những người làm công và đồng ý trả công cho họ. Sau khi họ làm được vài giờ, ông chủ vườn cũng mướn những người khác vào làm như họ. Sau ngày làm việc, ông chủ trả tiền lương cho những người thợ như đã thỏa thuận. Người làm trước cũng bằng người làm sau. Những người thợ làm trước không cảm thấy hài lòng nên nói với chủ vườn: “Ông trả cho họ bằng chúng tôi sao?” Chủ vườn nói với họ, “Tại sao lại ghen tỵ, vì tôi rộng lượng chăng?” Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn như sau: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết.” (Mt 20:16).

Một người quảng cáo kể một câu chuyện về một người trong nhóm họ treo một bảng hiệu trước nhà mình như sau: “Tôi sẽ tặng mảnh đất này cho những ai cảm thấy mình thật sự thỏa mãn, có đủ mọi sự.” Một chủ nông trại giàu có đi ngang qua, đọc thấy, nên đến với chủ nhà và nói: “Tôi là người thích hợp nhất để được mảnh đất của ông, vì tôi có đủ điều kiện mà ông muốn: Tôi rất giầu có. Tôi có tất cả mọi sự tôi muốn. Tôi rất thoả mãn mọi sự.” Người quảng cáo hỏi người đó: “Có thật sự là ông thỏa mãn mọi sự không?” Người giầu có đáp: “Đúng như vậy, tôi có mọi sự tôi cần nên tôi rất là thỏa mãn.” Chủ nhà cười và nói với người kia: “Này ông bạn, nếu bạn đã thỏa mãn rồi thì sao lại muốn mảnh đất này?”

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng viết cho chúng ta một tờ quảng cáo như sau: “Ta sẽ ban sự bình an trong tâm hồn, trí lòng và sẽ ban sự mãn nguyện cho tất cả những ai tuyên xưng chân lý Phúc Âm của Chúa. Hãy bằng lòng với chính mình và sống với những gì mình có.”

 

39. Lòng quảng đại của Thiên Chúa

Douglas được cả nước biết như là người sáng tạo ra giầy dép. Trong những năm đầu, ông bị thất nghiệp lâu dài đến nỗi chỉ còn một đồng tiền cuối cùng. Tuy nhiên, ông đã bỏ một nửa đồng đó – tức là 50 xu – vào giỏ xin tiền ở nhà thờ. Sáng hôm sau, ông nghe biết có một công việc ở thành phố bên cạnh mà vé đi xe lửa là một đồng. Xem ra nếu giữ lại 50 xu kia thì thật là khôn ngoan. Tuy nhiên, ông đã mua vé với 50 xu còn lại và đi nửa đường tới nơi gần đến. Ông bước ra khỏi xe lửa và bắt đầu đi bộ qua thành phố.

Trước hết ông đi tới một khu nhà lớn, ông nghe rằng có xí nghiệp ở một quãng đường nữa – đang cần thuê công nhân. Trong vòng 30 phút, ông có được một việc làm với tiền lương là 5 đô la một tuần, còn hơn số lượng ở thành phố khác. Tiền lương tuần lễ đầu tiên của ông đã gấp 10 lần số tiền ông giúp cho công việc của Chúa.

Chúa Giêsu cũng vừa nói với chúng ta về một số người thất nghiệp khác. Người chủ nhà cho họ làm việc vào những giờ khác nhau trong ngày. Một ít người làm trọn ngày, những người khác chỉ làm vài giờ, và số người khác nữa làm việc có một giờ thôi. Vậy mà đến chiều ông chủ chỉ trả tiền công cho họ bằng nhau. Những người làm việc trước tự nhiên than phiền, nhưng người chủ trả lời: “Sao các anh lại ghen tỵ về lòng quảng đại của tôi?”

Bài học chính này là Thiên Chúa luôn quảng đại, Nước Trời không hoạt động như nước trần gian, và đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của loài người, như bài đọc I nói với chúng ta. Phải, Thiên Chúa rất quảng đại. Bắt đầu với lòng quảng đại, Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, chia sẻ cho chúng ta sự sống và hạnh phúc của Ngài. Dĩ nhiên, với lòng quảng đại, Thiên Chúa ban cho chúng ta ý chí tự do để chúng ta có thể quyết định yêu mến Thiên Chúa hay không, lãnh nhận phần thưởng Nước trời hay không.

Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta nhiều phúc lành về thể xác và tâm hồn. Ngài cung cấp cho ta dồi dào thực phẩm. Sự thiếu thốn ngày nay là do tính tham lam và quản lý tồi của con người.

Con Thiên Chúa là chính lòng quảng đại: Khi Chúa Giêsu biến nước thành rượu, Người bảo những người giúp việc đổ nước đấy chum “cho tới miệng”, với mẻ cá lạ lùng “họ chất đầy hai thuyền”. Ngài hóa bánh ra nhiều với vô số đến nỗi bánh dư lại “còn 12 thúng”. Ngài rộng rãi khen ngợi đồng tiền quảng đại của bà góa. Ngài ban rộng rãi thời gian, sức mạnh và mối thương cảm. Và sau hết, Ngài đã đổ ra đến giọt máu châu báu cuối cùng mà cứu độ chúng ta. Ngài còn tiếp tục ban Mình và Máu Ngài trong Thánh lễ này cũng như mỗi thánh lễ trên khắp cả thế giới trong mọi lúc.

Đấng Thiên Chúa làm người quảng đại dạy ta rằng: “Hãy cho, người ta sẽ cho lại, và họ sẽ đong cho anh em những đấu lớn, lắc chặt và đầy tràn, vì anh em đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Người anh hùng trong câu chuyện, Douglas, một thợ đóng giày đã kinh nghệm điều này.

Ước gì tất cả chúng ta kinh nghiệm được những kết qủa của lòng quảng đại. Ước gì chúng ta quảng đại với Thiên Chúa vì Ngài luôn quảng đại với ta.

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

 

40. Thợ làm vườn nho

Có lẽ nhiều người đã biết đến chuyện nhà triệu phú của một người Mỹ, ông là chủ những tiệm giầy bên Hoa Kỳ. Lúc còn thanh niên nghèo sơ nghèo xác. Có tần vào nhà thờ dâng lễ, trong túi chỉ còn một đồng duy nhất, ông đã không ngần ngại dâng cho Chúa nửa đồng, còn lại nửa đồng.

Sáng hôm sau, khi đọc trên báo thấy nơi thành phố bên cạnh có hãng cần người làm việc, anh ra mua vé xe, nhưng rủi thay vé xe một đồng mà bây giờ anh chỉ còn lại nửa đồng, cứ mua vé xe đi nửa đoạn đường và chủ trương sẽ đi bộ nửa đoạn đường còn lại. Nhưng khi đến nhà ga nửa đường, anh xuống xe và khi vừa bước đi bộ vài trăm thước thì anh thấy cạnh đường có xưởng đang cần người làm việc vôi số lương cao hơn với số lương của công việc mà anh định đến xin nơi thành phố bên cạnh.

Như thế, có thể nói: Anh đã đóng góp cho Chúa nửa đồng, Chúa đã cho lại anh góp trăm tần, nhiều hơn cũ. Và chúng ta cũng nhớ chuyện dụ ngôn của Tagore, thi sĩ Ấn Độ về người ăn mày chỉ cho Chúa một nắm gạo, nhưng Chúa cho lại một cục vàng Những người thợ chỉ đóng góp cho Chúa vào giờ cuối cùng, chỉ có một, hai giờ đồng hồ làm việc, thế mà được Chúa trả công gấp mấy tần, bằng những kẻ mệt nhọc cả ngày.

Bài dụ ngôn không chú trọng đến việc đóng góp của con người, nhưng đến thái độ quảng đại của Thiên Chúa là chủ vườn nho, hơn quá sức tưởng lượng của con người, hơn quá sức tưởng tượng của những người thợ. Thái độ của những người Pharisiêu nghe Chúa nói dụ ngôn này, thái độ của một số anh chị em Kitô đầu tiên từ Do Thái giáo hay những người Kitô giáo đến từ dân ngoại, và ngày hôm nay thái độ của mỗi người chúng ta, thái độ ỷ lại vào công nghiệp trước mặt Chúa hay vào sự đóng góp của mình cho Chúa, rồi sinh ra ganh tị, khinh dể những anh chị em khác mà mình cho là không có công khó gì đối với Chúa.

Trong Nước Chúa, tất cả đều là ân sủng, tất cả đều do Thiên Chúa bắt đầu trước, phần con người chỉ đáp trả công vào ân sủng Chúa ban mà thôi. Vì thế, không nên có thái độ ganh tị, ỷ lại, không nên tự phụ, tự kiêu vì những công việc của mình, nhưng hãy khiêm tốn đón nhận, tin thắng vào lòng nhân từ của Chúa là Đấng luôn sẵn sàng ban ơn cho mỗi người chúng ta vượt quá lòng chúng ta mong ước.

Nơi bài đọc II, thánh Phaolô trình bày cho các tín hữu Philipphê và cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay một bí quyết để sống, đó là không nhìn để so sánh mình với người anh em bên cạnh rồi ganh tị.

Nhưng hãy nhìn lên mẫu gương của Chúa, quyết tâm sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp mật thiết với Ngài.

Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Philipphê mà chúng ta đã đọc trong bài đọc II là “dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi, đó là sống kết hiệp với Chúa Kitô, chúng ta chỉ nhắm đến một mục đích duy nhất mà thôi “sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp với Chúa”, để rồi từ đó chúng ta có thể đem cuộc sống của mình, lài năng của mình mà phục vụ cho anh chị em xung quanh. Dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi qua những việc làm tốt, những việc bác ái mà chúng ta thực hiện hằng ngày.

Điểm thứ hai chúng ta có thể lưu ý trong bài Phúc âm hôm nay, đó là phản ứng của con người trước lòng quảng đại của Thiên Chúa. Con người hay những người thợ được ông chủ vườn nho mướn vào làm vườn nho cho có thái độ hẹp hòi, ganh tị, đặt giới hạn cho lòng quảng đại nhân từ của Thiên Chúa: “Ta không có quyền phân phát theo ý Ta hay sao? Hay vì Ta quá quảng đại mà các người lại ganh tị hẹp hòi”.

Đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn ghi khắc vào tâm trí các tông đồ qua bài dụ ngôn trên. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với con người vượt quá sự con người có thể nghĩ đến, nhưng không vì thế mà lỗi luật công bằng. Tình thương của Chúa vượt quá mức độ công bằng, nhưng không hủy bỏ sự công bằng. Sự công bằng của Thiên Chúa không như sự công bằng mà con người chúng ta tưởng nghĩ: “Há anh đã chẳng đồng ý với Ta tiền lương mỗi ngày một đồng như vậy hay sao? Ngoài ra, Ta muốn thêm cho những kẻ đến sau bằng những người đến trước, há Ta chẳng làm được như vậy hay sao?”

Qua lòng tốt của Chúa, xem ra như là Thiên Chúa thiên vị, nhưng sự thật lòng tốt vô biên ấy đã phơi bày tật xấu, lòng ganh tị của những kẻ đến trước ỷ lại vào công nghiệp riêng của họ, làm việc cực mệt, nhọc nhằn suốt ngày để yêu sách Thiên Chúa phải thế này, thế nọ, phải cho họ hơn những người khác, những kẻ đến sau, những kẻ không có công trạng gì, những người tội lỗi, những người thấp kém trong xã hội. Tựu trung tất cả chỉ vì ganh tị với anh em xung quanh mà họ đã có thái độ phân bì như vậy.

Sự ganh tị làm cho con người mất đi lòng biết ơn đối với kẻ thi ân. Thiên Chúa là Đấng thi ân cho con người theo chương trình Ngài muốn, Ngài ban cho mỗi người chúng ta biết bao nhiêu hồng ân, những nén bạc khác nhau, người thì năm nén, người thì hai nén, người thì một nén, nhưng nếu chúng ta ghen tị thì thay vì chúng ta cảm lạ Thiên Chúa, vì những hồng ân mình đã nhận được; thì chính lúc đó chúng ta quay lại trách móc Thiên Chúa bất công, thiên vị.

Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người chúng con biết vượt qua được những thái độ ganh tị này. Xin Ngài mở rộng tâm hồn chúng con, để chúng con được sống khiêm tốn và quảng đại như Chúa, luôn biết nhìn ra những hồng ân của Chúa ban cho chúng con mà cảm lạ tri ân, chúc tụng Ngài. Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

 

home Mục lục Lưu trữ